Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên (Tập 6) - Chương 10 - 11

10. CƠN BÃO TUYẾT BA NGÀY

Buổi sáng, khi mở mắt ra, Laura thấy tất cả những chiếc đinh
gấp đóng vào mái nhà ở phía trên đều phủ trắng sương giá. Sương giá phủ đầy
trên từng ô kính cửa sổ. Ánh sáng ban ngày mờ nhạt im lìm trong những bức vách
kiên cố ngăn cách cơn bão đang gầm rú ở bên ngoài.

Carrie cũng thức giấc. Cô lén nhìn Laura một cách lo lắng từ
dưới tấm mền phủ dưới chiếc giường kê gần ống khói lò sưởi là giường của cô và
bé Grace. Cô thổi hơi ra để coi mức lạnh ra sao. Dù nằm sát bên ống khói lò
sưởi, hơi thở của cô cũng đóng thành một lớp màu trắng trong không khí. Nhưng
ngôi nhà dựng hoàn hảo tới mức không một mảnh tuyết nào có thể lọt qua vách hay
qua mái.

Laura nằm im ê ẩm và Carrie cũng vậy. Nhưng sáng rồi và các
cô phải trở dậy. Trượt ra khỏi giường bước vào cái lạnh khiến hụt hơi, Laura
chộp vớ, giầy, áo và chạy vội vã ra đầu cầu thang. Cô lên tiếng trong lúc thầm
cảm ơn bộ đồ fla-nen dài màu đỏ ấm áp dưới cái áo dài ngủ fla-nen.

-  Mẹ, tụi con thay đồ
ở dưới đó có được không?

Mẹ đáp:

-  Được, bố đang ở
chuồng ngựa.

Lò bếp sưởi ấm khắp nhà bếp và ánh sáng đèn giống như làm độ
ấm tăng hơn. Laura mặc đồ lót, áo ngoài, mang giầy. Rồi cô mang quần áo của mấy
chị em xuống hơ ấm và quấn Grace trong mền bồng xuống tầng dưới. Tất cả đều quần
áo chỉnh tề và rửa ráy xong, khi bố quay vào với một xô sữa đông gần một nửa.

Sau khi lấy lại hơi thở và rũ hết sương giá và tuyết trên bộ
râu. Bố nói :

-  Rồi, mùa đông khắc
nghiệt đã bắt đầu.

Mẹ nói:

-  Sao vậy, Charles!
Giống như anh không lo ngại gì về thời tiết mùa đông.

Bố đáp:

-  Anh không lo ngại.
Nhưng sắp tới một mùa đông khắc nghiệt.

Mẹ nói:

-  Cũng đúng thôi, nếu
nó tới thì mình đã ở đây, trong thị trấn là nơi mà mình có thể kiếm mọi thứ
mình cần ở trong các cửa hàng ngay cả khi có bão.

Cho tới khi dứt bão sẽ không có chuyện tới trường. Thế là
sau khi làm xong mọi việc, Laura cùng Carrie, Mary ngồi học bài và sau đó chăm
chú khâu vá trong lúc mẹ đọc sách cho các cô nghe.

Khi ngẩng lên nhìn và nghe ngóng, mẹ nói:

-  Nghe âm thanh giống
như một trận bão tuyết ba ngày bình thường.

Laura nói:

-  Tuần này không có
chuyện đến trường nữa.

Cô tự hỏi không biết Mary và Minnie đang làm gì. Phòng trước
ấm đến nỗi một phần sương gía trên cửa sổ tan ra biến thành băng. Khi cô phà
hơi lên đó để dọn sạch thành một lỗ ngó ra, cô nhìn thấy qua kính cửa một lớp
tuyết trắng xoay tít. Cô không thể tìm nổi cửa hàng đồ sắt Fuller’s nằm ở ngay
bên kia phố, nơi bố đã ngồi tới bên lò sưởi để trò chuyện với những người đàn
ông khác.

Nhích về phía trên đầu phố, qua khỏi cửa hàng đồ sắt Couse’s
và nhà trọ Beardsley, tiệm tạp phẩm Barker’s, cửa hàng thức ăn gia súc Royal
Wilder’s tối tăm và lạnh lẽo. Không có ai tới mua thực phẩm gia súc trong cơn
bão đó nên Royal không nhóm lò sưởi. Nhưng ở phòng sau, ở chỗ của anh ta và Almanzo
lại rất ấm áp và đầy đủ. Almanzo đang nướng bánh kép.

Royal đồng ý là ngay cả má cũng không qua nổi Almanzo trong
việc làm bánh kép. Nhớ lại khi ở bang York lúc cả hai còn là những cậu bé và
sau này, lúc ở trong khu nông trại lớn của ba ở Minnesota, cả hai không bao giờ
nghĩ đến nấu nướng vì đó là việc của đàn bà. Nhưng từ khi cả hai tới miền tây
nhận phần đất được cấp phát thì họ bắt buộc phải nấu nướng để khỏi bị chết đói.
Almanzo phải lo bếp núc vì cậu khéo tay trong mọi thứ và cũng vì cậu nhỏ hơn còn
Royal vẫn có ý nghĩ mình là chủ nhân.

Khi tới miền tây, Almanzo tròn mười chín tuổi. Nhưng đó là
một điều bí mật vì cậu đã được cấp đất lập trại và theo luật định thì chỉ những
người từ hai mốt tuổi mới có quyền lợi đó. Almanzo không cho là mình đã vi phạm
pháp luật vì cậu biết cậu không lừa gạt chính quyền. Thêm nữa, bất kì ai biết
cậu mới mười chín tuổi cũng có quyền tước phần đất đã cấp cho cậu.

Almanzo nhìn sự việc theo cách nhìn sau: Chính phủ muốn có
sự định cư ở vùng đất này nên sẽ cấp đất lập trại cho bất kì ai đủ sức mạnh cơ
bắp và trí não để tới đây khai phá và chịu gắn bó tới cùng với công việc. Nhưng
các nhà chính khách ở xa mãi tận Washington lại không hiểu biết về những người
định cư nên phải đặt ra các luật lệ và một trong các luật lệ đó qui định rằng
người chủ trại phải ít nhất hai mươi mốt tuổi.

Không có qui định nào được tuân theo khi người ta có ý làm
trái. Almanzo biết có những người kiếm rất nhiều tiền nhờ lập các hồ sơ xin cấp
đất phù hợp hoàn toàn với luật định rồi sang đất lại cho những người giàu có.
Khắp nơi đều có những người ăn cắp đất đai như thế nhờ dựa vào tất cả các điều
qui định của pháp luật. Almanzo nghĩ rằng trong tất cả các qui định về cấp phát
đất đai thì điều điên rồ nhất là qui định về mức tuổi.

Ai cũng biết rằng không có hai người hoàn toàn giống nhau.
Nhưng người ta vẫn có những số chuẩn để đo vải, đo khoảng cách, nhưng không thể
gộp chung mọi người lại và đo họ bằng các qui định. Trí não và tính cách không
phụ thuộc vào bất kì thứ gì ngoại trừ bản thân mỗi con người. Có những người
già tới sáu chục tuổi mà vẫn không có khả năng xét đoán trong khi người khác
lại xét đoán tốt lúc mới mười sáu tuổi. Và Almanzo cho rằng cậu cũng có đủ
những điều phải có của một người hai mươi mốt tuổi.

Cha của Almanzo cũng nghĩ như thế. Một người cha có quyền
giữ con trai ở lại làm việc cho mình tới khi đứa con trai tròn hai mươi mốt
tuổi. Nhưng Almanzo lại cho các con của ông ra đời sớm hơn để được rèn luyện
tốt. Almanzo đã học được cách dành dụm tiền bạc từ trước khi mười tuổi và đã làm
mọi công việc nông trại của một người đàn ông từ khi cậu mới chin tuổi. Khi cậu
mười bảy tuổi, cha cậu đã đánh giá cậu là một người trưởng thành và dành cho
cậu trọn quyền sử dụng thời giờ của mình. Almanzo đã làm việc lấy số tiền công
mỗi ngày năm mươi xu rồi để dành tiền mua hạt giống và dụng cụ. Cậu đã trồng
lúa trên các phần đất được chia ở miền tây Minnesota và đã thu một mùa vụ tốt.

Cậu cho rằng cậu đã là một người định cư thích hợp mà chính
phủ cần và vấn đề tuổi tác của cậu chẳng là gì cả. Vì thế cậu đã nói với viên
chức lo về ruộng đất:

-  Ông có thể ghi cho
tôi hai mươi mốt tuổi.

Và viên chức nọ nháy mắt với cậu và ghi như thế. Lúc này,
Almanzo đã được cấp đất lập trại và mang từ Minnesota về đủ số hạt giống cho
năm tới. Nếu cây có thể gieo những hạt giống đó trên các đồng cỏ nay và thu các
vụ mùa tốt thì chỉ bốn năm nữa cậu đã có nông trại riêng.

Cậu đang làm bánh kép không phải do Royal ra lệnh cho cậu mà
là do Royal không thể làm nổi những chiếc bánh kép ngon lành và Almanzo rất
thích những chiếc bánh làm bằng bột mì xốp nhẹ với thật nhiều mật mía.

Royal nói:

-  Chà! Nghe kìa!

Cả hai chưa từng nghe thấy gì giống như trận bão tuyết này.

Almanzo nói:

-  Ông già da đỏ kia
biết rõ ông ta nói về điều gì. Nếu mình sống suốt bảy tháng trong…

Ba chiếc bánh kép trên vỉ nướng đang nổi phồng lên những lỗ
nhỏ gần các mép giòn. Cậu lật nhanh mấy chiếc bánh và ngắm những cạnh màu nâu ở
chính giữa.

Mùi thơm của bánh hòa trộn với mùi thịt heo ướp muối nướng
và mùi cà phê đang sôi. Căn phòng ấm áp và cây đèn với miếng phản quang bằng
thiếc treo trên một đinh móc sáng trưng. Những chiếc yên và hàm thiếc ngựa lủng
lẳng trên các vách ván thô nhám. Chiếc giường ngủ kê trong một góc và bàn ăn
được kéo tới trước lò bếp để Almanzo có thể đặt bánh kép lên những chiếc đĩa sứ
màu trắng mà không cần phải bước thêm một bước nào.

Royal nói:

-  Trận bão này không
thể kéo dài bảy tháng được. Đúng là nực cười. Mình lại chắc chắn là có những
lời thần chú nào đó về thời tiết.

Almanzo đáp một cách ung dung:

-  Mọi điều có thể xảy
đến và phần đông thường là thế.

Cậu lướt lưỡi dao dưới mép của mấy chiếc bánh. Bánh đã chín
và cậu hất chúng vào trong đĩa của Royal rồi tra mỡ trên vỉ nướng bằng lớp da
heo ướp muối.

Royal tưới mật mía lên bánh, nói:

-  Có một điều không
thể xảy ra. Đó chính là mình không thể tiếp tục ở đây cho tới mùa xuân mà không
có xe lửa chạy.

Almanzo trút thêm lên vỉ nướng đang xèo xèo ba viên bột nhồi
từ bình đựng bột nhồi. Cậu uể oải tựa vào vách ngăn cạnh ống khói lò bếp chờ
cho những chiếc bánh kép phồng lên. Cậu nói:

-  Mình nên tính tới
việc kéo thêm cỏ khô. Mình phải có nhiều cỏ khô làm thức ăn cho bò ngựa.

Royal nói trong khi ăn:

-  Ồ, họ sẽ thông
đường xe lửa. Nếu họ không chịu làm thì mình sẽ phải đả phá việc đó. Than dầu
lửa, bột và đường như thế nào? Về vấn đề này, kho thực phẩm dự trữ của mình kéo
dài được bao lâu nếu cả thị trấn dồn đống lại đây để mua?

Almanzo đứng thẳng lên. Cậu kêu lớn:

-  Này! Chẳng có ai
tới lấy hạt giống của em hết! Không có vấn đề gì xảy ra.

Royal nói:

-  Sẽ không có điều gì
xảy ra. Ai mà nghe nổi là có những trận bão kéo dài bảy tháng? Đường xe lửa sẽ
lại thông thôi.

Almanzo đảo mấy chiếc bánh, nói:

- Những thứ này tốt hơn.

Cậu nghĩ tới ông già da đỏ và nhìn vào những túi hạt giống.
Tất cả chất đống ở cuối phòng và có vài túi lăn lóc dưới gầm giường. Hạt giống
không thuộc về Royal mà thuộc về cậu. Cậu đã trồng ở Minnesota. Cậu đã cày xới
đất, bừa và gieo hạt. Cậu đã cắt lúa, bó, đập, đóng bao và lôi nó theo hàng
trăm dặm, trên thùng xe.

Nếu những trận bão như trận bão này cản trở xe lửa đến nỗi
không có thêm hạt giống từ miền đông tới cho tới sau thời gian gieo hạt thì mùa
vụ năm tới của cậu, đất đai của cậu tùy thuộc vào số hạt giống đã có này để
gieo. Cậu sẽ không bán với bất kể giá tiền nào. Hạt giống phải được giữ lại cho
mùa vụ. Không thể gieo những đồng đô-la bằng bạc.

Cậu nói:

-  Em sẽ không bán quá
một đấu hạt giống.

Royal đáp:

-  Tốt thôi, tốt thôi,
không có ai làm phiền những hạt giống của em đâu. Bao nhiêu chiếc bánh rồi?

Almanzo vừa đặt chiếc bánh vào đĩa của Royal vừa nói:

-  Đây là chiếc bánh
thứ hai mươi mốt.

Royal hỏi:

-  Em đã ăn bao nhiêu
chiếc trong lúc anh lo công việc?

Almanzo cười:

-  Em không đếm.
Nhưng, trời đất ơi, em đang thấy ngon miệng, anh ăn no đi.

Royal nói:

- Cố kéo dài bữa ăn ra thì khỏi phải rửa chén đĩa.

11. BỐ TỚI VOLGA

Buổi trưa ngày thứ ba, cơn bão chấm dứt. Rồi gió ngưng và
trên bầu trời quang, mặt trời tỏa sáng.

Bố nói một cách vui vẻ:

- Tốt, qua hết rồi. Bây giờ có lẽ mình sẽ có một câu thần
chú về thời tiết tốt.

Mẹ thở ra khoan khoái:

-  Thật dễ chịu lại
được thấy mặt trời.

Mary thêm:

-  Và nghe thấy sự yên
tĩnh.

Tất cả lại nghe thấy những âm thanh nhỏ của thị trấn. Thỉnh
thoảng cánh cửa ra vào của một cửa hàng đóng sập lại. Ben và Arthur đi ngang
qua nói chuyện và Cap Garland huýt gió đi xuống phố Second Street. Âm thanh
quen thuộc duy nhất mà tất cả không nghe thấy là tiếng còi xe lửa.

Lúc ăn tối, bố nói xe kẹt do tuyết dồn đống cắt đường gần
Tracy. Bố nói:

-  Nhưng họ sẽ phải
xúc hết trong vài ngày. Với thời tiết như thế này, ai quan tâm tới xe lửa?

Sáng sớm hôm sau, bố băng qua phố tới cửa tiệm Fuller’s rồi
vội vã trở về. Bố nói với mẹ là một số người sẽ dùng xe guồng từ nhà ga tới đón
xe lửa ở Volga. Ông Foster đã nhận lời làm giúp công việc trong nhà nếu bố đi.

Bố nói:

-  Anh ngồi một chỗ
quá lâu rồi nên thích đi xa một chút.

Mẹ đồng ý:

-  Anh đi đi, Charles.
Nhưng mở đường xa như thế trong một ngày sao được?

Bố nói:

-  Anh cũng thấy thế.
Những chỗ kẹt từ đây tới Volga rất nhỏ và chỉ xa khoảng năm mươi dặm. Tình
trạng căng nhất nằm ở phía đông Volga và các đoàn sửa chữa xe lửa đang làm việc
tại đó. Nếu bọn anh dọn sạch phần đường còn lại cho họ thì phải trở về cùng
chuyến xe lửa thường lệ vào ngày mốt.

Bố mang thêm một đôi vớ len ngắn trong lúc nói chuyện. Chiếc
khăn quàng rộng quấn quanh cổ bố bắt chéo trước ngực nhét khít vào dưới chiếc
áo khoác cài nút kín. Bố cột chặt tai mũ trùm, mang đôi bao tay ấm nhất, rồi
đặt chiếc xẻng lên vai, bố đi tới nhà ga.

Gần tới giờ học, nhưng thay vì bước gấp tới trường thì Laura
và Carrie dừng lại trong phố Second Street nhìn bố bước đi.

Chiếc xe guồng nằm trên đường sắt cạnh nhà ga và mọi người
đang leo lên, lúc bố đi tới.

Tất cả đều gọi:

-  Sẵn sáng rồi,
Ingalls! Tất cả lên xe!

Gió từ hướng bắc đang thổi trên lớp tuyết rực rỡ đưa rõ từng
tiếng nói tới chỗ Laura và Carrie.

Bố đã leo lên xe. Vừa bám được vào tay guồng, bố đã hô:

-  Lên đường, các
chàng trai!

Các ông Fuller, Mead và Hinz đứng thành một hàng đối mặt với
bố, ông Wilmarth và Royal Wilder. Tất cả những bàn tay mang bao tay đều đặt
trên hai going gỗ dài bắt ngang giữa xe kẹp hai bên chiếc guồng bơm.

Ông Fuller hô lớn:

-  Sẵn sàng, các chàng
trai! Guồng tới!

Ông Mead và ông Hinz cùng cúi thấp xuống theo ông Fuller đẩy
tay guồng xuống. Rồi lúc đầu họ theo tay guồng vươn lên thì bố và hai người
cùng phía cúi xuống đẩy tay guồng xuống rồi lên, lại xuống rồi lên, hai nhóm
người cúi thấp rồi đứng thẳng tựa hồ luân phiên cúi đầu chào nhau và bánh của
chiếc xe guồng bắt đầu nhích từ từ, rồi lăn nhanh theo đường sắt về phía Volga.
Và khi xe đã chạy đều, bố bắt đầu hát và tất cả hòa theo:

Ta guồng cỗ xe già xộc xệch

Ta guồng cỗ xe già xộc xệch

Ta guồng cỗ xe già xộc xệch

Không lôi gì lếch thếch phía sau

Lên và xuống, lên và xuống, tất cả những chiếc lưng chuyển
động đồng loạt theo nhịp hát và những chiếc bánh xe lăn nhẹ nhàng, nhanh hơn
mãi.

Chặn đường ta là một tay lầm lỗi

Ta sẽ ngừng xe đón rước hẳn hoi

Và vẫn không lôi theo thứ gì lếch thếch

Ta guồng cỗ xe già xộc xệch

Ta guồng cỗ xe già…

Bùm ! Cỗ xe lao nhanh vào một bờ tuyết.

Ông Fuller hô lớn:

-  Xả hết! Không chỉ
lần này, mình không lăn qua nó!

Tất cả đều cầm xẻng lên và bước xuống xe. Những chiếc xẻng
tíu tít hất văng những mảnh tuyết ra xa làm bụi tuyết bay mù mịt trong gió.

Laura nói với Carrie:

-  Mình phải tới
trường thôi.

-  Ô, chờ coi thêm một
phút nữa.

Carrie nài nỉ không rời cặp mắt ngó nghiêng qua lớp tuyết
lấp lánh để ngắm bố đang làm việc trước cỗ xe guồng.

Chỉ một thoáng, mọi người đã lại bước tới cỗ xe, buông xẻng
xuống và cúi mình trên các tay guồng.

Chặn đường ta là xa tăng quỉ dữ

Ta sẽ cho xe cán chết tươi

Và vẫn không lôi theo thứ gì lếch thếch!

Cỗ xe nhỏ dần, nhỏ dần và hai nhóm người tiếp tục luân phiên
cúi chào nhau trong tiếng hát văng vẳng vọng lại qua cánh đồng tuyết lấp lánh.

Ta guồng cỗ xe già xộc xệch

Ta guồng cỗ xe già xộc xệch

Ta guồng cỗ xe già xộc xệch

Không lôi gì lếch thếch phía sau…

Hát và guồng, cỗ xe lăn tới mãi với những chiếc xẻng xúc
thông đường xả sạch mọi bờ tuyết, mọi chướng ngại, bố đi xa lần về phía Volga.

Trọn phần còn lại trong ngày và suốt ngày hôm sau, ngôi nhà
trống vắng. Buổi sáng và buổi tối, ông Foster tới lo các việc lặt vặt. Sau khi
ông ta rời khỏi chuồng ngựa, mẹ sai Laura tới coi xem ông ta làm có hoàn hảo
không.

Với đêm ngày thứ năm, mẹ nói:

-  Chắc chắn mai bố sẽ
về.

Trưa ngày hôm sau, một đoàn xe dài hụ còi vang động trên
cánh đồng tuyết phủ và từ cửa sổ nhà bếp, Laura cùng Carrie nhìn thấy một cuộn
khói đen cuồn cuộn bốc lên bầu trời trong lúc đoàn xe chạy rầm rập phía dưới.
Đó là xe lửa chở công nhân, chen chúc đàn ông đang hô hoán và ca hát.

Mẹ nói:

-  Giúp mẹ lo xong bữa
trưa đi, Laura. Bố đói lắm rồi.

Laura lấy bánh qui khi cửa ýt mở ra và bố gọi:

-  Ra coi, Caroline!
Coi xem ai đi cùng anh về nhà mình.

Grace đang dẫn đầu xông tới đón bố bỗng ngừng lại, bước lui,
đưa mấy ngón tay lên miệng, đứng nhìn. Mẹ khẽ nhấc bé sang bên khi mẹ bước tới
cửa với đĩa khoai tây nghiền trên tay.

Mẹ kêu lên:

-  Trời ơi, anh
Edwards!

Bố nói:

-  Anh đã nói với em
là mình sẽ gặp anh ấy, sau khi anh ấy giúp giành lại khu trại của mình.

Mẹ đặt đĩa khoai tây lên bàn, nói với ông Edwards:

-  Tôi rất muốn cảm ơn
anh về việc đã giúp anh Ingalls khai nhận được khu đất lập trại.

Laura nhận ra ông ấy dễ dàng. Ông ấy vẫn là con mèo hoang
cao, gầy, lang thang của xứ Tennessee. Những nếp nhăn ngộ nghĩnh trên khuôn mặt
nâu bóng của ông ấy sâu hơn, trên má ông ấy có một vết thẹo do dao cắt trước
đây không thấy, nhưng cặp mắt ông ấy vẫn cười cợt, lơ đãng và sắc sảo như cô
còn nhớ. Cô kêu lớn:

-  Ô, bác Edwards!

Mary nhắc:

-  Bác đã mang quà của
ông già Noel về cho tụi cháu.

Laura nói:

-  Bác đã bơi qua
suối. Rồi bác xuôi theo sông Verdigris…

Ông Edwards chà bàn chân trên nền nhà, cúi thấp đầu:

-  Chị Ingalls và các
cháu gái, tôi rất mừng được gặp lại tất cả.

Ông ấy nhìn vào cặp mắt của Mary đã không còn nhìn thấy ông
ấy và giọng ông ấy dịu hẳn khi ông ấy nói:

-  Hai tiểu thư xinh
đẹp này có phải là hai cô bé mà tôi đã tung lên đầu gối và tung xuống sông
Verdigris không, Ingalls?

Mary và Laura đáp phải và chỉ cho thấy Carrie lúc đó mới là
một em bé.

Mẹ nói:

-  Em bé của chúng tôi
lúc này là Grace.

Nhưng Grace không tới gặp ông Edwards. Bé chỉ ngó ông ấy và
bám cứng vào váy mẹ.

Mẹ nói một cách thân mật:

-  Anh đến thật đúng
lúc, anh Edwards. Chỉ một phút nữa là bữa ăn đã bày xong.

Và bố thúc giục:

-  Ngồi xuống liền,
Edwards và không được mắc cỡ! Bữa ăn rất thịnh soạn đúng như nó phải thịnh
soạn!

Ông Edwards thích thú ngắm căn nhà thoải mái, dựng chắc chắn
và bữa ăn tối ngon lành một cách thật tình. Nhưng ông ấy bảo ông ấy sẽ đáp
chuyến xe lửa sắp tới đi miền tây. Bố không thể thuyết phục ông ấy ở lại lâu
hơn.

Ông ấy nói:

-  Tôi dự định đi thật
xa về miền tây trong mùa xuân. Tôi cũng đã dứt khoát xong với vùng này. Đám
chính khách đã kéo đến lúc nhúc và xin lỗi chị, nếu có một thứ dịch nào tệ hơn
châu chấu thì chắc chắn là các chính khách. Sao, họ sẽ đánh thuế tới mảnh vải
lót túi áo để duy trì những trung tâm hành chính ở đây! Tôi không thấy mình có
cách gì phù hợp với một đời sống tỉnh lẻ. Tất cả chúng ta đều chạy theo hạnh
phúc và bằng lòng với sự vắng mặt của những tay chính khách.

Mùa hè vừa rồi, Feller bám theo đánh thuế tôi. Anh ta bảo
tôi kê khai tới những thứ tối thiểu cuối cùng mà tôi có được. Thế là tôi kê
khai những con ngựa của tôi, Tom và Jerry theo ước giá mỗi con năm mươi đô-la,
cặp bò của tôi, Buck và Bright trị giá năm mươi đô-la và con bò cái ba mươi lăm
đô-la.

Ông ta hỏi “Anh chỉ có thế thôi sao?”. Được, tôi nói với ông
ta là tôi khai thêm năm đứa con và tôi liệt giá mỗi đứa một đô-la.

Ông ta nói “Đó là tất cả?” Ông ta tiếp “Còn vợ anh thì sao?”

Tôi nói với ông ta “Chúa chứng giám cho tôi. Cô ấy nói rằng
cô ấy không phải vật sở hữu của tôi nên tôi không tính là đóng một xu thuế nào
cho cô ấy”. Tôi nói và tôi không kê khai.

Mẹ nói:

-  Sao, anh Edwards,
đây là những tin tức thông báo cho chúng tôi biết anh đã có gia đình. Anh
Ingalls không nói gì về chuyện này cả.

Bố giải thích:

-  Chính anh cũng
không hề hay biết. Nhưng này Edwards, dù sao anh cũng không phải trả thuế vợ và
thuế con.

Ông Edwards nói:

- Ông ta muốn có một bản liệt kê thuế thật dài. Các chính
khách rất thích dí mũi vào công việc của người ta và tôi tính làm cho họ hài
lòng.

Điều đó chẳng thành vấn đề gì vì tôi đâu có định đóng thuế.
Tôi đã từ bỏ quyền khai thác phần đất được cấp phát và vào mùa xuân khi đám
nhân viên thuế lảng vảng tới thì tôi đã đi khỏi đó rồi. Đi không có con, không
có vợ, vì đâu còn cách nào.

Trước khi bố hoặc mẹ kịp lên tiếng, còi xe lửa hụ lớn và kéo
dài. Ông Edwards nói:

-  Nó gọi rồi!

Và ông đứng lên khỏi bàn ăn.

Bố nài nỉ:

-  Edwards, hãy đổi ý,
ở lại thêm một lúc nữa. Anh luôn đem may mắn đến cho chúng tôi.

Nhưng ông Edwards lần lượt bắt tay mọi người và cuối cùng
bắt tay Mary đang ngồi bên cạnh ông ấy. Ông ấy nói:

-  Tạm biệt tất cả!

Và vội vã bước ra khỏi cửa chạy về phía nhà ga.

Suốt khoảng thời gian đó, Grace chỉ trố mắt nhìn và lắng
nghe chứ không nói một tiếng nào. Lúc này thì ông Edwards đột ngột biến mất và
bé hít một hơi thật dài, hỏi:

-  Mary, đó là người
đã nhìn thấy ông già Noel hả?

Mary đáp:

-  Ừ. Đó là người đã
đi bộ suốt bốn mươi dăm dưới trời mưa tới Independence để gặp ông già Noel ở đó
và mang quà Noel về cho Laura và chị lúc các chị còn là những cô bé.

Mẹ nói:

-  Ông ấy có một tấm
long vàng.

Laura nhắc:

-  Ông ấy đem về cho
mỗi đứa con một chiếc ly thiếc và một thỏi kẹo.

Cô chậm chạp đứng lên và bắt đầu giúp mẹ với Carrie dọn dẹp
bàn ăn. Bố đi tới chiếc ghế lớn gần lò bếp.

Mary nhấc chiếc khăn tay trong long bàn tay lên khi cô rời
bàn ăn và một cái gì đó rơi nhẹ Cap Garland nền nhà. Mẹ cúi xuống lượm lên. Mẹ
đứng sững cầm vật đó trong tay không nói được tiếng nào và Laura kêu lớn:

-  Mary! Hai mươi
đô-la! Chị vừa đánh rơi một tờ hai mươi đô-la!

Mary kinh ngạc:

-  Làm sao có chuyện
đó!

Bố nói:

-  Đó là của Edwards.

Mẹ nói:

-  Mình không thể giữ
lại.

Nhưng tiếng còi từ giã cuối cùng của chuyến xe lửa đã bốc
lên một hồi dài lanh lảnh.

Bố hỏi:

-  Em tính sao về
chuyện này? Edwards đã đi rồi và mình khó gặp lại nổi anh ấy trong nhiều năm,
có thể là không bao giờ gặp lại nữa. Anh ấy đang đi tới Oregon vào màu xuân.

Mẹ khẽ kêu lên trong sự bối rối:

-  Nhưng, Charles… Ôi,
tại sao anh ấy làm vậy?

Bố nói:

-  Anh ấy cho Mary.
Hãy để Mary giữ số tiền. Có thể số tiền sẽ giúp con tới trường được.

Mẹ suy nghĩ một lát rồi nói:

-  Thôi được!

Và mẹ đưa tờ giấy bạc cho Mary.

Mary cầm một cách cẩn thận, vuốt nhẹ bằng mấy đầu ngón tay
và gương mặt rạng sáng:

-  Ôi, cháu cảm ơn bác
Edwards.

Mẹ nói:

-  Em mong là anh ấy
không bao giờ cần đến số tiền này, dù anh ấy ở đâu cũng vậy.

Bố an ủi mẹ:

-  Em nên tin rằng
Edwards là người biết phòng xa.

Mặt Mary mơ màng như khi cô nghĩ tới trường học dành cho
người khiếm thị. Cô nói:

-  Mẹ, cộng với số
tiền mẹ kiếm được do nấu cơm tháng hồi năm ngoái thì đã có ba mươi lăm đô-la
hai mươi lăm xu.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3