Đại chiến hacker - Chương 02
Chương 2
“Tớ đang tính sẽ học ngành Vật lý
khi vào trường Berkeley,”
Darryl nói. Bố nó dạy tại Đại học California ở Berkeley, điều này đồng
nghĩa với việc nó sẽ được miễn học phí ở đó. Và trong gia đình Darryl, chưa ai
từng đặt câu hỏi nó sẽ vào trường nào.
“Tốt thôi, nhưng chẳng lẽ cậu không
nghiên cứu trên mạng được à?”
“Bố tớ nói tớ nên đọc nó. Hơn nữa,
tớ không có kế hoạch làm gì phạm pháp hôm nay.”
“Cúp cua không phải là phạm pháp.
Nó chỉ vi phạm nội quy thôi. Chúng hoàn toàn khác nhau.”
“Chúng ta làm gì bây giờ, Marcus?”
“Ừm, tớ không thể giấu nó, nên tớ
sẽ cho nó vào lò vi sóng.” Phá RFID là một nghệ thuật hắc ám. Không một ông chủ
bà chủ nào muốn các khách hàng ác hiểm đi quanh cửa hàng và để lại một đống
hàng bị bóc tung tóe, mất cả mã vạch vô hình, vậy nên không nhà sản xuất nào
lại cung cấp thiết bị phát “tín hiệu chết” mà bạn có thể truyền đến một thẻ
RFID để tắt. Bạn có thể lập trình lại thẻ RFID bằng phương tiện thích hợp,
nhưng tôi ghét phải làm việc này với sách thư viện. Không hẳn là phải xé trang
sách ra, nhưng cũng chả hay ho gì, vì sách có thẻ bị lập trình lại thì không
thể xếp lên giá sách thư viện và không thể tìm ra được. Nó sẽ trở thành cái kim
ở đáy biển.
Nên tôi chỉ còn một lựa chọn duy
nhất: cho cuốn sách vào lò vi sóng. Theo đúng nghĩa đen. Ba mươi giây trong lò
vi sóng là quá đủ cho mọi thẻ RFID. Và bởi thẻ của thư viện không phản hồi tín
hiệu khi Darryl trả sách, họ sẽ in một thẻ mới và thiết lập mã mới với thông
tin của cuốn sách trong danh mục, rồi nó sẽ lại sạch sẽ ngăn nắp trên giá.
Tất cả những gì chúng tôi cần là
một lò vi sóng.
“Đợi thêm hai phút nữa là phòng
nghỉ của giáo viên sẽ trống không,” tôi nói.
Darryl giật lại cuốn sách và hướng
về phía cửa. “Quên đi, không bao giờ. Tớ vào lớp đây.”
Tôi giữ khuỷu tay nó kéo lại. “Thôi
đi, D, bình tĩnh nào. Sẽ ổn thôi.”
“Phòng nghỉ của giáo viên? Có lẽ
cậu chưa nghe rõ, Marcus. Nếu tớ bị bắt chỉ một lần nữa thôi, tớ sẽ bị đuổi
học. Cậu nghe rõ chưa? Bị đuổi học.”
“Cậu sẽ không bị bắt đâu,” tôi nói.
Nơi duy nhất mà các giáo viên không có mặt sau giờ nghỉ là phòng nghỉ. “Chúng
ta sẽ đi cửa sau.” Phòng nghỉ có khu bếp nhỏ ở một phía, với lối vào dành riêng
cho thầy cô nào chỉ muốn ghé qua pha một tách cà phê. Lò vi sóng - lúc nào cũng
thơm phức mùi bắp rang bơ hoặc xúp - ở ngay đó, trên nóc tủ lạnh mi ni.
Darryl rên rỉ. Tôi nghĩ thật nhanh.
“Nghe kìa, chuông kêu rồi. Nếu cậu tới phòng tự học giờ này, cậu sẽ bị trễ. Giờ
này thì thà không xuất hiện còn hơn. Tớ có thể lẻn ra lẻn vào bất cứ phòng nào
trong trường, D. Cậu đã thấy tớ làm thế rồi mà. Tớ sẽ đảm bảo an toàn cho cậu,
người anh em.”
Nó lại rên lên. Đó là một trong
những dấu hiệu riêng của Darryl: một khi nó rên rỉ tức là nó đã sẵn sàng đầu
hàng.
“Hành động thôi,” tôi nói và cả hai
rời đi.
Thật hoàn hảo. Chúng tôi men theo
các lớp học, đi cầu thang sau xuống tầng hầm, lên cầu thang trước vào phòng
nghỉ của giáo viên. Phía cửa không có tiếng động, tôi khẽ xoay tay nắm và kéo
Darryl vào rồi lặng lẽ khép cửa lại.
Cuốn sách vừa khít với cái lò vi
sóng trông thậm chí còn mất vệ sinh hơn lần gần đây nhất tôi lẻn vào và dùng
nhờ nó. Tôi cẩn thận bọc cuốn sách bằng khăn giấy trước khi đặt vào. “Trời ơi,
giáo viên đúng là những con heo,” tôi thì thào, còn Darryl, mặt trắng bệch và
căng thẳng, không nói gì cả.
Cái thẻ chết ngắc trong một cơn mưa
sóng, trông khá đẹp mắt (mặc dù không được đẹp bằng hiệu ứng khi cho một quả
nho bị đóng băng vào lò vi sóng, cảnh tượng mà phải tận mắt nhìn thấy mới tin
được).
Giờ thì bọn tôi phải lẻn ra khỏi
trường mà tuyệt đối không để lộ danh tính và tiến hành cuộc đào tẩu.
Darryl mở cửa đi ra, tôi theo sát
gót nó. Một giây sau, nó giẫm lên ngón chân tôi, khuỷu tay chèn vào ngực tôi
trong khi cố gắng bước lùi vào cái bếp rộng bằng một phòng để đồ mà chúng tôi
vừa rời khỏi.
“Quay lại,” nó thì thầm vẻ cấp
bách. “Nhanh lên - Charles đấy!”
Charles Walker và tôi không hợp
nhau. Bọn tôi học bằng lớp và đã biết nhau lâu như tôi biết Darryl, nhưng ngoài
ra không còn điểm chung nào nữa. Charles luôn to con hơn so với tuổi, giờ nó
chơi bóng đá và dùng thuốc Anabolic steroid(5) nên
càng bự hơn nữa. Nó có vấn đề với khả năng kiềm chế sự tức giận - tôi đã mất
một cái răng sữa vì nó năm lớp ba - và nó cố gắng tránh khỏi rắc rối bằng cách
trở thành kẻ mách lẻo nhiệt tình nhất trường.
(5)
Thuốc làm tăng khối lượng cơ bắp.
Thật là một sự kết hợp tồi tệ, một
kẻ hay bắt nạt lại còn lẻo mép, khoái trá với việc thưa giáo viên bất cứ vi
phạm nào mà nó phát hiện được. Thầy Benson rất cưng Charles. Charles thích làm
ra vẻ mình đang có một rắc rối to tướng vu vơ nào đó, nhờ thế lúc nào nó cũng
có lý do biện hộ cho việc lảng vảng khắp các hành lang lớp học ở Chavez kiếm
người để tố giác.
Lần cuối cùng thằng Charles chơi
xấu tôi đã khiến tôi phải từ bỏ trò LARP. Tôi không muốn dây vào nó nữa.
“Nó đang làm gì thế?”
“Nó đang làm cái việc là tiến vào
đây,” Darryl nói. Cu cậu đang run như cầy sấy.
“Okay,” tôi nói. “Okay, đến lúc áp
dụng những biện pháp đối phó khẩn cấp.” Tôi lấy điện thoại ra. Tôi đã lên kế
hoạch kỹ càng từ trước. Charles sẽ không thể nào tóm được tôi nữa. Tôi gửi
e-mail cho máy chủ ở nhà, và nó khởi động.
Vài giây sau, điện thoại của thằng
Charles đột ngột réo lên đầy ngoạn mục. Tôi đã làm cho hàng chục nghìn cuộc gọi
và tin nhắn ngẫu nhiên ập đến máy nó cùng một lúc, làm cho chuông nhỏ chuông to
gì cũng phải réo lên và cứ thế réo liên tục. Cuộc tấn công được thực hiện bởi
một hệ thống botnet, tôi cảm thấy như thế thật tệ, nhưng dù sao làm vậy cũng là
phục vụ cho một lý do đúng đắn.
Botnet là nơi máy tính bị nhiễm
virus sống tiếp cuộc đời còn lại của nó. Khi bị nhiễm sâu máy tính hay virus,
máy tính của bạn sẽ gửi một tin nhắn tới một kênh chat trên IRC - Internet
Relay Chat. Tin nhắn sẽ thông báo với chủ nhân của botnet - người đã triển khai
con sâu máy tính đó - rằng máy tính của bạn đã sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh của
anh ta. Các botnet cực kỳ mạnh, vì chúng có thể bao gồm hàng nghìn, thậm chí
hàng trăm nghìn máy tính, rải rác khắp mạng Internet, kết nối với các mạng tốc
độ cao và chạy trên các PC cấu hình cao ở nhà. Bình thường, những PC này hoạt
động thay mặt chủ nhân của mình, nhưng khi chủ nhân botnet gọi chúng, chúng sẽ
trỗi dậy như thây ma để thực hiện mệnh lệnh của anh ta.
Có rất nhiều máy tính bị nhiễm
virút trên mạng và giá thuê một botnet trong một hoặc hai tiếng đồng hồ đã giảm
mạnh. Hầu hết những thứ này làm việc cho những người chuyên gửi thư rác như một
phần mềm spambot(6) rẻ tiền được phân bố khắp
nơi, nhấn chìm hộp thư của bạn bằng những lời chào mời quyến rũ các loại thuốc
kích thích, hoặc bằng các virus mới có thể xâm nhập máy tính của bạn và chiêu
mộ nó vào hàng ngũ botnet.
(6)
Là một chương trình máy tính tự động được thiết kế hỗ trợ cho việc gửi thư rác.
Trong mười giây, tôi vừa thuê ba nghìn
máy tính khác nhau gửi tin nhắn hoặc cuộc gọi VoIP(7) tới
điện thoại của Charles, tôi moi được số điện thoại của nó từ một mẩu giấy nhớ
dính trên bàn của thầy Benson trong một cuộc gặp định mệnh ở văn phòng.
(7)
. Voice-over-Internet Protocol: cho phép truyền tiếng nói qua Internet tới
mọi nơi trên thế giới mà không phải trả cước viễn thông.
Khỏi phải nói, điện thoại của
Charles không hề được trang bị để đối phó với tình huống này. Đầu tiên là những
tin nhắn SMS đổ đầy bộ nhớ máy, khiến nó bắt đầu tắc nghẽn với các hoạt động
bình thường như kiểm soát chuông điện thoại và ghi lại tất cả các cuộc gọi đến
bằng số ảo (bạn có biết rằng rất dễ làm giả một con số gọi đến không? Có khoảng
năm mươi cách khác nhau để làm được điều này - chỉ cần gõ từ khóa “spoof caller
id” lên Google).
Thằng Charles đứng chết trân nhìn
chằm chằm vào cái điện thoại, đập ầm ầm đầy tức tối, cặp lông mày rậm của nó
nhíu chặt lại và ngọ nguậy trong lúc chiến đấu với những con quỷ đã chiếm được
thiết bị riêng tư nhất của nó. Cho đến lúc này, kế hoạch đang diễn ra tốt đẹp,
nhưng Charles không làm cái việc mà đáng lẽ nó phải làm tiếp theo - đáng lẽ nó
phải tìm một chỗ ngồi xuống và cố gắng tìm cách để điện thoại trở lại bình
thường.
Darryl lắc vai tôi và tôi rời mắt
khỏi khe nứt trên cửa.
“Nó làm gì vậy?” Darryl thì thầm.
“Tớ phá cái điện thoại của nó,
nhưng giờ nó cứ nhìn chằm chằm vào đó chứ không cuốn xéo đi.” Không dễ để khởi
động lại cái máy ấy. Một khi bộ nhớ đầy ứ, sẽ cần nhiều thời gian nạp lại những
đoạn mã cần thiết để xóa những tin nhắn ma này - mà điện thoại của nó không có
chức năng xóa toàn bộ tin nhắn, nên nó sẽ phải dùng tay xóa tất cả hàng nghìn
cái tin đó.
Darryl đẩy tôi ra và dán mắt vào
cửa. Một lúc sau, vai nó run lên. Tôi hơi sợ, tưởng nó bị hoảng loạn, nhưng khi
nó quay đầu lại, tôi thấy nó đang cười nhiều đến nỗi nước mắt giàn giụa hai bên
má.
“Cô Galvez vừa tóm nó vì tội lảng
vảng ở hành lang trong giờ học và tội sử dụng điện thoại ở trường - cậu phải
nhìn cô ấy phạt nó cơ. Cô ấy thực sự thích thú.”
Chúng tôi bắt tay một cách trang
nghiêm và len lén chuồn khỏi hành lang, xuống cầu thang, đi qua cổng sau, ra
khỏi cửa, vượt qua hàng rào và đứng giữa ánh mặt trời rực rỡ của buổi chiều
ởMission. Phố Valencia chưa
bao giờ đẹp như hôm nay. Tôi xem giờ và kêu lên:
“Đi thôi! Mọi người hẹn chúng ta ở
chỗ cáp treo sau hai mươi phút nữa!”
Van nhận ra chúng tôi đầu tiên. Cô
đang nhập vào một nhóm khách du lịch Hàn Quốc, một trong những cách mà cô rất
thích dùng để ngụy trang khi cúp học. Từ khi có sự xuất hiện moblog(8) cúp
cua, thế giới của chúng tôi trở nên đầy rẫy những người bán hàng và những kẻ
giả nhân giả nghĩa thọc mạch chụp ảnh chúng tôi để cho lên mạng, nơi các nhà
quản lý trường học có thể xem xét và nhận dạng.
Van bước khỏi đám đông, đi về phía chúng
tôi. Darryl thích cô từ lâu lắm rồi, và cô thì đủ ngọt ngào để vờ như không
biết gì về việc đó. Cô ôm tôi và rồi quay sang Darryl, hôn nó một nụ hôn kiểu
chị em rất nhanh vào má khiến mặt nó đỏ bừng đến tận tai.
(8)
Từ kết hợp giữa “mobile” và “blog”, là một trang mạng xã hội bao gồm những
thông tin được đăng tải bằng điện thoại đi động hoặc các thiết bị di động
khác.
Hai người bọn họ làm thành một cặp
khá ngộ nghĩnh: Darryl hơi nặng một chút, tuy vậy nó ăn mặc rất ổn, và nó có
nước da trắng hồng thường ửng đỏ khi nó chạy hay phấn khích. Nó mọc râu từ khi
chúng tôi mười bốn tuổi, nhưng ơn Chúa là nó đã cạo râu sau một thời gian ngắn
được biết đến trong nhóm với biệt danh “Thời Lincoln”. Và nó cao. Rất, rất cao.
Cao như vận động viên bóng rổ.
Trong khi đó, Van thấp hơn tôi nửa
cái đầu và mảnh dẻ, với mái tóc đen thẳng tết theo một kiểu cầu kỳ, điên khùng
mà cô tìm được trên mạng. Nước da cô màu đồng và đôi mắt đen huyền, cô thích
những chiếc nhẫn thủy tinh lớn kích cỡ như những củ cải đập vào nhau lách ca
lách cách khi cô nhảy múa.
“Jolu đâu?” cô hỏi.
“Cậu khỏe chứ, Van?” Darryl hỏi
bằng một giọng nghèn nghẹn. Nó luôn luôn chậm một bước khi nói chuyện với Van.
“Mình khỏe, D. Những thứ nhỏ bé của
cậu thế nào?” Ôi, cô nàng thật là tệ. Darryl suýt nữa thì ngất.
Đúng lúc đó nó được giải thoát khỏi
sự xấu hổ nhờ Jolu xuất hiện trong một chiếc áo khoác da quá cỡ của dân chơi
bóng rổ, đi giày thể thao nhanh nhẹn, đội một chiếc mũ lưỡi trai quảng cáo cho
tay đô vật bịt mặt yêu thích của chúng tôi, El Santo Junior. Tên đầy đủ của
Jolu là Jose-Luis Torrez, người còn lại trong nhóm bốn người chúng tôi. Nó học
trong một trường dòng siêu nghiêm khắc ở Outer Richmond nên không dễ gì trốn
được ra ngoài. Nhưng nó chưa một lần thất bại: không ai có thể khéo léo như
Jolu của chúng tôi. Jolu rất thích cái áo khoác của mình vì nó trễ xuống rất thấp
- trông khá sành điệu ở một vài nơi trong thành phố - và có thể che hết mấy thứ
tào lao của trường dòng, những thứ dễ trở thành điểm ngắm của bọn người thóc
mách có trang moblog được đánh dấu trong điện thoại.
“Ai sẵn sàng đi rồi nào?” tôi hỏi
khi cả nhóm đã xong màn chào hỏi. Tôi rút điện thoại ra và chỉ cho mọi người
bản đồ tôi tải xuống từ BART. “Theo như tớ tính toán, chúng ta phải quay lại Nikko, và đi qua một khu
nhà về phía O’Farrell, rồi đi về phía trái lên hướng Van Ness. Đâu đó ở đấy
chúng ta sẽ tìm thấy tín hiệu không dây.”
Van nhăn mặt. “Đó là khu vực khó
chịu của Tenderloin.” Tôi không thể tranh cãi gì với cô. Khu vực này của San Francisco là một
trong những nơi kỳ quái nhất - đi qua cổng chính khách sạn Hilton, bạn sẽ bước
vào thế giới của dân du lịch với những thứ như xe cáp chạy vòng quanh và các
nhà hàng gia đình. Và đi về phía bên kia bạn sẽ ở khu ‘Loin, mọi gái điếm cải
trang, bọn ma cô, đám mua bán thuốc phiện và những kẻ vô gia cư khốn khổ trong
thành phố đều tập trung ở đây. Những gì họ mua bán, trao đổi, không ai trong số
chúng tôi đủ tuổi tham gia vào (dù cũng có rất nhiều gái điếm bằng tuổi chúng
tôi miệt mài với công việc của họ ở khu ‘Loin).
“Hãy nhìn vào mặt tốt của nó,” tôi
nói. “Khoảng thời gian duy nhất mà một người muốn lảng vảng ở đây là vào ban
ngày. Và chí ít thì từ giờ tới mai sẽ không có người chơi game nào khác đến gần
chỗ này đâu. Và đây là điều mà dân chơi ARG chúng ta gọi là một khởi đầu tuyệt
đỉnh.”
Jolu nhe răng cười với tôi. “Cậu
làm như ngon ăn lắm không bằng,” nó nói.
“Ngon hơn ăn món uni là cái chắc,”
tôi nói.
“Chúng ta định tán dóc hay định
chiến thắng nào?” Van nói. Sau tôi, cô là người chơi rắn nhất trong nhóm. Cô
cực kỳ, cực kỳ coi trọng chiến thắng.
Chúng tôi khởi hành, bốn người bạn
tốt, trên đường giải mã một manh mối, giành được chiến thắng trong trò chơi -
và bỏ qua tất cả những gì chúng tôi quan ngại, mãi mãi.
Phần thực tế của lời gợi ý hôm nay
là một hệ tọa độ GPS(9) - có tọa độ của tất cả những
thành phố lớn nơi diễn ra trò Harajuku Fun Madness - ở đấy chúng tôi sẽ tìm
thấy tín hiệu của một điểm truy cập WiFi. Tín hiệu này bị chèn một cách có chủ
ý bởi tín hiệu khác phát ra từ những nơi gần điểm WiFi bị giấu, cốt để nó không
thể bị phát hiện bởi thiết bị dò WiFi thông thường, các khóa điều khiển nhỏ sẽ
báo cho bạn biết khi bạn ở trong vùng truy cập WiFi mở mà bạn có thể sử dụng
miễn phí.
(9)
Global Positioning System: Hệ thống định vị toàn cầu.
Chúng tôi phải tìm ra vị trí của
điểm truy cập “ẩn” này bằng cách đo độ mạnh của những điểm truy cập “hữu hình”,
tìm ra điểm sóng yếu nhất một cách bí hiểm nhất. Tại đó chúng tôi sẽ tìm ra
manh mối tiếp theo - lần trước nó nằm trong món ăn đặc biệt của Anzu, cửa hàng
sushi phô trương trong khách sạn Nikko ở
Tenderloin. Nikko thuộc quyền sở hữu của Japan Airlines, một trong những nhà
tài trợ của Harajuku Fun Madness, và nhân viên ở đó đã làm mọi chuyện rối lung
tung beng khi chúng tôi cuối cùng cũng lần ra được manh mối. Họ đưa cho chúng
tôi những bát súp miso và cho chúng tôi thử món uni, là sushi làm từ nhím biển,
trên bề mặt có pho mát chảy và có mùi giống như phân lỏng của chó. Nhưng nó
thực sự ngon. Hay đúng ra là Darryl nói vậy với tôi. Tôi không định ăn cái thứ
đó.
Tôi bắt được tín hiệu WiFi bằng bộ
phận dò WiFi trong điện thoại của mình, cách O’Farrell khoảng ba lô, chưa đến
phố Hyde, trước cửa hiệu “Mát xa kiểu châu Á” với cái biển ĐÓNG CỬA màu đỏ nhấp
nháy trên cửa sổ. Tên của mạng này là Harajuku Fun Madnees, vậy là chúng tôi
biết mình đã dò trúng điểm phát.
“Nếu nó ở trong đó, tớ không vào
đâu,” Darryl nói.
“Các cậu đều có máy dò WiFi rồi
chứ?” tôi hỏi.
Darryl và Van đều có điện thoại cài
sẵn chức năng bắt WiFi, trong khi Jolu, quá sành điệu nên không chịu mang bất
cứ cái điện thoại nào to hơn ngón tay mình. Nó có một chiếc khóa định hướng nhỏ
riêng biệt.
“Được rồi, hãy tản ra xem chúng ta
tìm được gì. Các cậu đang tìm một tín hiệu rất nhạy nhưng lại yếu dần đi mỗi
khi tới gần nó.”
Tôi lùi lại một bước và giẫm phải
chân ai đó. Tiếng con gái kêu lên “Ối”, tôi quay lại và lo một ả gái điếm sẽ
đấm cho tôi một cú vì làm gãy gót giày của ả.
Thay vào đó, tôi thấy mình đang đối
diện với một con nhóc bằng tuổi tôi. Nó có bộ tóc hồng chóe gây sốc và khuôn
mặt sắc sảo, giống một loài gặm nhấm, đeo một cái kính râm to cộ, đích thị là
kính lồi kiểu phi công. Nó mặc quần bó sọc dưới một cái váy đen kiểu bà già,
trên đó đính nhiều hình đồ trang trí nhỏ xíu của Nhật - các nhân vật anime(10),
nhân vật lãnh đạo thế giới già nua, logo các nhãn hiệu đồ uống nước ngoài.
(10)
Phim hoạt hình Nhật.
Nó cầm một chiếc máy ảnh và chụp
tôi cùng cả nhóm.
“Chúc mừng,” nó nói. “Các ngươi đã
được lên máy ảnh phát hiện trốn học.”
“Không đời nào,” tôi nói. “Cậu sẽ
không...”
“Tôi sẽ làm chứ,” nó nói. “Tôi sẽ
gửi tấm ảnh này cho hệ thống kiểm soát việc cúp cua của học sinh sau ba mươi
giây nữa trừ khi bốn người các cậu rút lui khỏi manh mối này để tôi và các bạn
tôi ở đây kiểm soát nó. Các cậu có thể quay lại sau một tiếng nữa và nó sẽ
thuộc về các cậu. Tôi nghĩ như vậy là rất hợp tình hợp lý rồi.”
Tôi nhìn đằng sau nó và thấy thêm
ba đứa con gái nữa ăn mặc giống nhau - một đứa tóc xanh lam, một đứa tóc xanh
lá cây và một đứa tóc tím. “Các cậu đóng giả ai vậy, Đội Quân Kem Que à?”
“Chúng tôi là đội sẽ đá đít đội cậu
trong trò Harajuku Fun Madness,” nó đáp trả. “Và tôi là người ngay bây giờ sẽ
đăng ảnh của cậu lên và khiến cậu gặp vô số rắc rối...”
Đằng sau lưng, tôi cảm giác Van
đang tiến lên. Trường nữ sinh của cô nàng khét tiếng vì những vụ đánh nhau, và
tôi chắc rằng cô đã sẵn sàng cho con nhỏ này một trận.
Và rồi thế giới thay đổi vĩnh viễn.
Chúng tôi cảm thấy điều đó đầu
tiên, sự lắc lư khủng khiếp của xi măng dưới chân mà bất cứ người California nào cũng
nhận ra ngay theo bản năng - động đất. Điều đầu tiên tôi muốn làm, như mọi khi,
là bỏ chạy: “Khi gặp rắc rối hay nghi ngờ điều gì, hãy chạy vòng tròn, hét to
lên.” Nhưng thực tế là, chúng tôi đang ở nơi an toàn nhất có thể, không phải ở
trong một tòa nhà có thể đổ sụp lên chúng tôi, không phải ở giữa đường nơi
những mảng bê tông có thể rơi trúng đầu.
Những trận động đất thường yên tĩnh
một cách quái gở - lúc nó bắt đầu, tất nhiên - nhưng thứ này thì không hề yên
tĩnh. Nó ồn ào, một âm thanh lạ kỳ rống lên to hơn bất cứ âm thanh nào tôi từng
nghe thấy trước đây. Âm thanh đó khiến tôi quỵ gối xuống, và tôi không phải là
người duy nhất. Darryl lắc tay tôi chỉ qua những tòa nhà và chúng tôi thấy nó: một
đám mây đen khổng lồ nổi lên từ phía Đông Bắc, từ hướng Vịnh.
Thêm một tiếng đùng nữa, và đám mây
khói lan ra, cái hình thù màu đen mỗi lúc một phình to mà chúng ta hay thấy
trên phim. Ai đó vừa mới thổi một cái gì đó với quy mô rất lớn.
Có thêm nhiều tiếng ầm ầm và nhiều
đợt chấn động nữa. Những cái đầu xuất hiện ở các cửa sổ từ cao xuống thấp trên
phố. Tất cả chúng tôi đều nhìn đám mây hình nấm trong yên lặng.
Và còi báo động rú lên.
Trước đây, tôi đã nghe thấy những
tiếng báo động như thế này - họ kiểm tra còi của tổ dân quân tự vệ vào trưa thứ
Ba hàng tuần. Nhưng tôi mới chỉ nghe thấy chúng kêu lên đột ngột trong những bộ
phim chiến tranh cũ và trò chơi điện tử, cảnh mà một ai đó đánh bom người khác
từ trên cao. Còi báo động có máy bay oanh tạc. Âm thanh uuuuuuu khiến nó ít
giống thật hơn.
“Báo về hầm trú ngay lập tức.” Nó
giống như giọng nói của Chúa, phát ra từ nhiều nơi cùng một lúc. Có loa phát
thanh trên một vài cột điện, những thứ mà tôi chưa bao giờ chú ý tới, và tất cả
đồng loạt bật lên.
“Báo về hầm trú ngay lập tức.” Hầm
trú? Chúng tôi nhìn nhau bối rối. Hầm trú nào? Đám mây vẫn từ từ nổi lên, tỏa
dần ra. Liệu đó có phải là bom hạt nhân không? Liệu có phải chúng tôi đang hít
những hơi thở cuối cùng không?
Đứa con gái có bộ tóc màu hồng kéo
đám bạn của nó rồi bọn họ lao xuống dưới đồi, quay về hướng ga BART dưới chân
đồi.
“TẬP TRUNG VỀ HẦM TRÚ NGAY LẬP
TỨC.” Có một tiếng hét vang lên, và rất nhiều người chạy nháo nhào. Khách du
lịch - bạn luôn có thể nhận ngay ra họ, họ là những người nghĩ rằng CALIFORNIA = NẮNG ẤM rồi trải qua kỳ nghỉ lạnh cóng
ở San Francisco với
quần soóc và áo phông - rải rác ở mọi hướng.
“Chúng ta nên đi thôi!” Darryl hét
vào tai tôi, tiếng nó nghe yếu ớt giữa rừng tiếng rú của còi báo động, giờ lại
cộng thêm tiếng rít quen thuộc của còi xe cảnh sát. Hàng tá xe cảnh sát San Francisco hét vào mặt
chúng tôi.
“TẬP TRUNG VỀ HẦM TRÚ NGAY LẬP
TỨC.”
“Xuống ga BART đi,” tôi hét lên.
Các bạn tôi gật đầu. Chúng tôi xếp hàng và bắt đầu di chuyển nhanh chóng xuống
dưới đồi.

