Sông Đông êm đềm - Chương 191 phần 1
Chương 191
Ngày mười chín tháng năm, Miska
Kosevoi được Gumanovsky, trưởng ban tham mưu lữ đoàn tiễu phạt thuộc Tập đoàn
quân số 9 phái đi tìm ban chỉ huy của trung đoàn 32 để trao một công văn hoả
tốc. Theo những tin tức mà Gumanovsky nắm được thì trung đoàn nầy đang đóng ở
thôn Gorbanovsky.
Ngay hôm ấy, lúc trời đã về
chiều, Miska phóng ngựa tới thôn Gorbanovsky, nhưng ban chỉ huy trung đoàn 32
không có ở đấy.
Trong thôn rộn lên vô số những xe
cộ của đoàn vận tải tuyến hai của sư đoàn 23. Các xe nầy đang từ sông Dones
chạy về hướng Ust-Medvedicha, có hai đại đội bộ binh yểm hộ.
Miska lang thang trong thôn vài
tiếng đồng hồ, cố hỏi dò xem trung đoàn bộ kia đang đóng ở đâu. Cuối cùng có
một chiến sĩ kỵ binh Hồng quân cho anh biết rằng hôm qua ban chỉ huy trung đoàn
32 đã ở thôn Elanchevsky, gần thị trấn Bokovskaia.
Miska cho ngựa ăn rồi ngay đêm ấy
tới Elanchevsky, nhưng cả ở đấy anh cũng không gặp trung đoàn bộ. Lúc đã nửa
đêm, Miska đang trên đường trở về Gorbanovsky thì gặp một đội trinh sát của
Hồng quân trên đồng cỏ.
- Ai? - Từ xa họ đã hỏi Miska.
- Người mình đây.
- Nhưng anh là người mình như thế
nào mới được chứ? - Người đội trưởng cho ngựa tiến tới gần, khẽ hỏi giọng trầm
như phải cảm, anh ta đội chiếc mũ lông trắng kiểu Kuban
và mặc một cái áo kiểu trec-ket màu lam - Đơn vị nào?
- Lữ đoàn tiễu phạt thuộc Tập
đoàn quân số Chín.
- Có giấy tờ của đơn vị không?
Miska đưa trình giấy tờ chứng
minh. Người đội trưởng trinh sát xem giấy tờ dưới ánh trăng rồi hỏi vặn vẻ
không tin:
- Thế ai là lữ đoàn trưởng của
các anh?
- Đồng chí Lozovsky.
- Lữ đoàn ấy bây giờ ở đâu?
- Bên kia sông Đông. Nhưng còn
đồng chí, đồng chí thuộc đơn vị nào? Có phải trung đoàn Ba mươi hai không?
- Không. Chúng tôi thuộc sư đoàn
Ba mươi ba Kubanskaia.
- Thế anh ở đâu đến đây?
- Ở Elanchevsky.
- Thế đi đâu?
- Đi Gorbanovsky.
- Hừ! Hiện nay bọn Cô-dắc đã ở
thôn Gorbanovsky rồi.
- Không thể được! - Miska kinh
ngạc.
- Tôi bảo cho anh biết rằng ở đấy
đã có những thằng Cô-dắc phiến loạn rồi. Chúng tôi vừa trông thấy chúng nó đấy.
- Thế thì tôi đi Bobrovsky bằng
cách nào bây giờ? - Miska hốt hoảng nói.
- Ai làm thế nào biết được.
Người đội trưởng trinh sát thúc
con ngựa huyền mông xuôi bỏ đi, nhưng rồi anh ta quay lại nửa người trên yên,
khuyên Miska:
- Đi với chúng tôi thôi, nếu
không anh sẽ bị chúng nó "béng cái đầu" đi đấy!
Miska sẵn lòng đi theo đội trinh
sát. Ngay đêm ấy, anh đã cùng các chiến sĩ Hồng quân tới thôn Krugilin, nơi
trung đoàn 294 Taranrocsky đóng quân. Anh trao bức công văn cho trung đoàn
trưởng, trình bày rõ lý do vì sao mình không đem được công văn tới địa điểm rồi
xin phép ở lại trung đoàn, gia nhập đội trinh sát kỵ binh.
Sư đoàn 33 Kubanskaia mới được
biên chế gần đây gồm một số đơn vị thuộc Tập đoàn quân Tamanskaia và những
chiến sĩ tình nguyện vùng Kuban. Sư đoàn nầy
đã được điều từ Astrakhan
về khu vực Voronez - Lisky. Một lữ của sư đoàn nầy, gồm ba trung đoàn
Taranrocsky, Derbensky và Vaxinkovsky, đã được điều đi đánh quân phiến loạn.
Chính nó đã tấn công và đánh bật sư đoàn của Grigori Melekhov sang bên kia sông
Đông.
Lữ đoàn vừa chiến đấu vừa hành
quân cấp tốc tiến theo bờ bên phải sông Đông từ khu du mục của trấn Kazanskaia
đến những thôn đầu tiên về phía tây của trấn Ust-Khopesky. Mãi sau khi cánh bên
phải của nó chiếm được những thôn ven sông Tria, lữ đoàn mới lộn trở về, sau
khi nán lại chừng hai tuần ở vùng ven sông Đông.
Miska tham gia các trận chiến đấu
đánh chiếm thị trấn Karginskaia là một loạt thôn trên sông Tria. Sáng ngày 27,
đại đội trưởng trung đoàn 294 Taranrocsky tập hợp các chiến sĩ Hồng quân bên
cạnh đường, ngay trên đồng cỏ, ở gần thôn Hạ Grusinsky, để đọc bản mệnh lệnh
vừa nhận được. Và Miska Kosevoi đã ghi sâu vào trong lòng mấy câu: "… Phải
phá tan sào huyệt của bọn phản bội và nghịch thù vô liêm sỉ. Phải diệt cho hết
bọn Cain…" và "Đối với những thằng tay chân của Koltrak và Denikin
thì chỉ có chì, thép và lửa!".
Sau khi Stokman bị giết, sau khi
Miska được nghe tin về cái chết của Kotliarov cùng các đồng chí đảng viên cộng
sản trấn Elanskaia thì niềm căm hờn đối với bọn Cô-dắc luôn luôn thiêu đốt trái
tim Miska. Mỗi khi có tên tù binh là quân phiến loạn Cô-dắc rơi vào tay anh,
Miska không còn đắn đo gì nữa, không còn lắng nghe tiếng nói mơ hồ của lòng
thương nữa. Từ ngày ấy anh không hề đối xử khoan dung đối với một tên nào trong
số đó. Anh cứ đưa cặp mắt xanh biếc và lạnh buốt như băng nhìn những tên đồng
hương và hỏi: "Mày chống lại Chính quyền Xô viết à?", rồi không chờ
trả lời, không nhìn vào khuôn mặt biến sắc như mặt người chết của tên tù binh,
vung gươm chém luôn. Chém không thương tiếc? Và anh không những chỉ chém mà còn
thả "con gà trống đỏ"[294] cho
nó bay lên mái những ngôi nhà trong các thôn mà quân phiến loạn đã rút bỏ. Rồi
khi những con bò đực, bò cái hoảng sợ đến phát điên phá hàng rào các sân nhà
cháy, kêu rống lên chạy ra ngõ, thì Miska dùng súng trường nhằm thẳng vào chúng
mà bắn.
Miska tiến hành một cuộc chiến
tranh không thoả hiệp, một cuộc chiến tranh tàn khốc chống lại tầng lớp Cô-dắc
sung sướng phè phỡn, chống lại sự bội tín tráo trở của dân Cô-dắc, chống lại
các nếp sống thủ cựu, th trệ, chưa gì phá vỡ được, nó đã mọc rễ sâu sắc bao
nhiêu thế kỷ nay dưới các mái ngôi nhà sung túc. Cái chết của Stokman và
Kotliarov đã nuôi dưỡng chí căm thù của Miska, và những lời trong bản mệnh lệnh
chỉ diễn đạt rành rọt đến cùng cực các tình cảm mà anh chưa biết cách nói ra.
Ngay hôm ấy anh đã cùng ba đồng chí đốt chừng trăm rưởi ngôi nhà ở trấn
Karginskaia. Không biết ở chỗ nào anh thấy trong nhà kho một tiệm buôn có một
thùng dầu hoả, bèn đem ra quảng trường. Bàn tay đen sì của anh đã đánh hết một
bao diêm và chân anh bước đến đâu là khói hắc và lửa hồng trùm lên các ngôi nhà
ốp ván, sơn vẽ, trang trí đẹp đẽ của bọn lái buôn, cố đạo, của những tên Cô-dắc
giàu có, những kẻ "đã có những hành vi quỷ quyệt xô đẩy đám quần chúng
Cô-dắc tối tăm ngu dốt nổi lên bạo động".
[294] Ý
nói "châm lửa đốt". (N.D)
Đội trinh sát kỵ binh thường là
những chiến sĩ đầu tiên tiến vào các thôn mà quân địch rút bỏ. Bộ binh kéo tới
thì Miska đã cho gió lửa hoành hành trên các ngôi nhà có của nhất. Anh muốn
rằng dù sao cũng phải về thôn Tatarsky một lần để trả thù những người đồng
hương của mình về cái chết của Kotliarov cùng các đảng viên người trấn Elanskaia,
để đốt cháy nửa thôn. Anh đã lập sẵn trong óc danh sách các ngôi nhà cần phải
đốt, và đã quyết định rằng nếu đơn vị anh tiến quân từ vùng sông Tria qua bên
trái trấn Vosenskaia, anh sẽ nhân lúc đêm tối tự ý rời đơn vị để tạt về thôn
nhà cho kỳ được.
Nhưng cũng còn một nguyên nhân
nữa thúc đẩy Miska phải về thôn Tatarsky… Hai năm gần đây, qua những lần anh
cùng Dunhiaska nhà Melekhov thỉnh thoảng gặp nhau, một tình cảm chưa nói ra lời
đã gắn bó hai người. Chính những ngón tay ngăm ngăm của Dunhiaska đã dùng những
sợi len tươi thắm thêu cái túi đựng thuốc tặng Miska. Chính Dunhiaska đã giấu
mọi người trong gia đình đem đến cho Miska một đôi găng làm bằng lòng dê màu
xám khói vào một ngày mùa đông. Và chiếc khăn thêu mà Miska trân trọng giữ
trong túi áo ngực quân phục binh sĩ của anh trước kia vốn là của Dunhiaska. Và
Miska cảm thấy không có gì quý bằng chiếc khăn thêu nhỏ xíu ba tháng nay vẫn
còn lưu trong các nếp nhăn của nó mùi hương của thân hình người con gái, thoang
thoảng như hương cỏ khô! Mỗi khi anh ngồi một mình, lấy chiếc khăn ra thì những
hồi ức rạo rực tự nhiên ập tới: cây tiêu huyền đầy sương muối bên bờ giếng, cơn
bão tuyết đổ xuống như trút từ màn trời tối đen, cặp môi mọng chắc run run của
Dunhiaska và những cái ánh tinh thể lóng lánh trong những miếng tuyết nhỏ đang
tan trên hai hàng mi cong của cô gái.
Miska đã sửa soạn rất chu đáo cho
chuyến về nhà. Trên bức tường trong ngôi nhà của một lão lái buôn ở trấn
Karginskaia, anh đã giật xuống một tấm thảm hoa nhỏ để dùng làm áo ngựa, và anh
đã có một cái áo ngựa đẹp là lùng từ những màu sắc tươi thắm, những đường hoa
rất đẹp, nhìn từ xa đã thấy vui mắt. Anh lục trong một chiếc hòm Cô-dắc, lấy
được một chiếc quần đi ngựa có nẹp gần như còn mới và nửa tá khăn bịt đầu của
đàn bà có thể dùng làm ba đôi vải bọc chân. Còn đôi găng tay đan bằng sợi của
đàn bà thì anh cất vào trong túi yên, vì anh không đeo ngay bây giờ, trong
những ngày chiến tranh rầu rĩ, mà sẽ chờ đến lúc lên đến ngọn gò, sắp sửa cho
ngựa tiến vào thôn Tatarsky mới dùng đến.
Từ cổ tới nay, đã có tập quán là
anh lính Cô-dắc trở về thôn nhà bao giờ cũng phải ăn vận thật diện. Vì thế dù
đã tham gia Hồng quân, một anh chàng chưa được giải phóng khỏi các truyền thống
Cô-dắc cũ như Miska vẫn gìn giữ thiêng liêng tập quán cổ truyền đó.
Miska cưỡi một con ngựa rất khá
lông mầu hạt dẻ sẫm, mũi trắng. Chủ cũ của nó là một gã Cô-dắc trấn
Ust-Khopeskaia, đã bị Miska chém chết trong một trận xung phong. Ngoài chuyện
là một chiến lợi phẩm, con ngựa nầy còn có những điểm khác có thể đem ra khoe:
cơ thể nó đẹp, nước chạy hăng nhanh, dáng vẻ hiên ngang, nom đúng là một con
ngựa chiến. Nhưng cái yên Kosevoi cưỡi lại nhỏ bé, tầm thường. Đệm yên đã mòn,
có những chỗ vá, đai bụng phía sau làm bằng da dầu, bàn đạp cũ kỹ, bị rỉ bám
dầy cốc không biết từ bao giờ, mài cọ thế nào cũng không sạch. Cả hàm thiếc
cũng rất tầm thường, không có một đồ trang sức nào cả. Vì thế cần phải làm một
việc gì đó, dù chỉ trang hoàng cho bộ hàm thiếc thôi cũng được. Miska đã đau
khổ nặn óc không biết bao nhiêu ngày để tìm cách giải quyết vấn đề nầy, và cuối
cùng anh chàng đã có được một giải pháp hết sức tài tình. Cạnh nhà một tên lái
buôn, ngay trước quảng trưởng, có một chiếc giường mạ kền trắng loá mà những
người làm công của lão đã lôi ra khỏi ngôi nhà cháy. Bốn góc giường có bốn quả
cầu trắng, nắng chiếu vào nhấp nhoáng đến loá mắt. Chỉ cần tháo hay bẻ mấy quả
cầu ấy, đeo vào dây hàm thiếc là bộ hàm giá thiếc nom sẽ hoàn toàn khác hẳn
trước đây. Miska đã làm đúng như thế, anh vặn vít, lấy ra bốn quả cầu rỗng trên
bốn góc giường, rồi dùng dây tơ đeo hai quả vào vòng hàm thiếc, hai quả hai bên
dây mõm, thế là trên đầu con ngựa có bốn quả cầu sáng rực như mặt trời giữa
trưa. Những khi phản chiếu ánh nắng thì lại càng choáng lộn không thể nào nhìn
được. Ánh kền loá lên đến nỗi hễ con ngựa đi về hướng mặt trời là mắt nó nhíu
lại, chân chốc chốc lại vấp, bước đi chẳng vững vàng chút nào. Mặc cho con ngựa
nhìn không rõ vì mấy quả cầu, mặc cho nó chảy nước mắt do ánh sáng phản chiếu,
Miska vẫn không tháo một quả cầu nào khỏi bộ hàm thiếc. Nhưng chẳng bao lâu đã
đến ngày Miska phải rời bỏ cái trấn Karginskaia cháy dở, nồng nặc mùi tro và
gạch hun. Trung đoàn có nhiệm vụ tiến về sông Đông, về hướng Vosenskaia. Vì thế
Miska không khó khăn gì lắm cũng xin được đội trưởng trinh sát cho mình một ngày
nghỉ phép để về thăm gia đình.
Đồng chí đội trưởng không những
cho anh nghỉ phép mà còn giúp đỡ thêm:
- Cậu đã lấy vợ chưa? - Anh hỏi
Miska.
- Chưa.
- Nhưng có lẽ cũng có mẻng rồi
chứ gì?
- Cái gì? Mẻng là cái gì? - Miska
ngạc nhiên hỏi.
- Chà nhân tình ấy mà!
- À à à. Cái chuyện ấy thì không
có. Nhưng có một người yêu con nhà tử tế.
- Thế là cậu đã có đồng hồ và dây
đeo chưa?
- Chưa có đồng chí ạ.
- Chà cái cậu nầy! - Đội trưởng
trinh sát, người Xinvrovol, trước kia vốn là một hạ sĩ tái đăng. Hồi ở quân đội
cũ, bản thân anh ta cũng nhiều lần nghỉ phép, vì thế kinh nghiệm đã cho anh ta
biết rằng ở đơn vị về mà rách rưới lam lũ thì cực như thế nào. Anh ta bèn tháo
trên bộ ngực nở nang một chiếc đồng hồ có sợi dây đeo to không thể tưởng tượng
được và nói - Cậu là một chiến sĩ tốt! Nầy, cậu hãy đeo mà về nhà, cho bọn con
gái chúng nó hoa mắt, và cậu hãy nhớ tới mình ở trung đội ba. Chính mình cũng
đã sống qua thời trai trẻ, phá đời của bọn con gái cũng có, bòn của bọn đàn bà
cũng có mình biết lắm… Cái dây nầy làm bằng vàng Mỹ mới đấy. Nếu có thằng nào
hỏi thì cứ trả lời như thế. Nhưng nếu gặp thằng nào hỗn xược muốn hỏi dấu hiệu[295] ở
đâu thì cậu cứ quạng thẳng vào mõm nó! Thường vẫn có những thằng mặt dày vô sỉ
như thế, đối với chúng nó thì không cần nói năng gì cả, cứ nện vào mõm chúng nó
là xong.
[295] Hình
khắc tên hiệu kim hoàn trên đồ vàng để chứng thực là không phải của giả. (N.D)
Trước kia đã có lần, không nhớ là
trong một tiệm ăn hay ở một nơi công cộng nào đó, có một thằng văn sĩ nào đó
xuất thân không biết là quản lý hay thơ lại, tự nhiên vác mẹ nó mặt đến định
làm nhục mình ngay trước công chúng: "Ngài phô cái dây đồng hồ trên bụng,
làm cứ như bằng vàng thật… Nhưng dấu hiệu của nó ở chỗ nào, xin ngài làm ơn cho
biết?" Hôm ấy mình đã không để cho nó kịp hoàn hồn: "Dấu hiệu ấy à?
Nầy thì dấu hiệu!" Rồi người đội trưởng tốt bụng của Miska nắm bàn tay nâu
xịt, to bằng đầu đứa con nít, đấm ra với một sức mạnh khủng khiếp.
Miska đeo chiếc đồng hồ, rồi ngay
đêm ấy anh cạo râu dưới ánh lửa và thắng ngựa ra đi. Đến khi trời rạng anh vào
thôn Tatarsky.
Thôn xóm vẫn hoàn toàn như xưa.
Cái gác chuông không cao lắm của toà nhà thờ xây bằng gạch vẫn vươn lên bầu
trời xanh ngắt cây thánh giá mạ vàng bạc phếch. Những ngôi nhà kiên cố của bọn
cố đạo và lái buôn vẫn nằm sát sin sít quanh bãi thôn. Cây tiêu huyền che bóng
cho căn nhà nhỏ gần đổ dụi của Miska vẫn rì rầm với cái giọng thân thiết như
xưa…