Sông Đông êm đềm - Chương 154-155-156

Chương 154

Nhà chứa phân gia súc nặc mùi
phân khô, mùi rơm mục và mùi cỏ bò ngựa ăn thừa. Ban ngày chỉ có một ánh sáng
xám xám rỉ xuống qua cái mái lợp bằng hương bồ. Đôi khi cũng có lúc mặt trời
ngó qua cái cửa đan bằng cành cây khô như qua một cái rây. Ban đêm chung quanh
tối đen đến đau cả mắt. Chuột kêu chí chí. Bốn bề lặng tờ…

Mỗi ngày người vợ của chủ nhà lén
mang thức ăn đến cho Grigori một lần, vào buổi tối. Bên cạnh chàng có một bình
nước rất to vùi trong phân khô. Có lẽ mọi điều phải chịu đựng đều cũng chẳng
sao, nhưng lại hết thuốc lá. Mấy ngày đầu Grigori đau khổ ghê gớm, và không có
gì hút không chịu được, một buổi sáng chàng bò ra sàn đất, quơ một ít phân ngựa
khô vào trong lòng bàn tay, xát hai tay vào nhau cho phân nát ra rồi hút. Đến
tối người chủ nhà cho vợ mang tới hai tờ giấy mốc meo xé trong một cuốn Phúc
âm
, một bao diêm và một nắm vừa cỏ đôn-nhích khô vừa rễ thứ thuốc lá
"điu-bêch" nhà trồng lấy, còn quá non. Grigori sướng quá hút luôn một
mạch đến buồn nôn và lần đầu tiên đánh được một giấc li bì trên lớp phân khô
lồi lõm, tà áo phủ kín đầu, như con chim rúc đầu vào cánh.

Một buổi sáng người chủ nhà đánh
thức chàng dậy. Bác ta chạy vào trong gian chứa phân, gọi giật giọng:

- Vẫn còn ngủ cơ à? Dậy đi thôi!
sông Đông tan băng rồi? - Nói xong cười một tràng ròn tan.

Grigori nhảy từ trên chỗ chàng
đang nằm xuống, những tảng phân khô nặng hàng pút rơi theo bình bịch sau lưng
chàng như tuyết.

- Có chuyện gì thế?

- Anh em hai trấn Elanskaia và
Vosenskaia bên nầy sông đã nổi lên bạo động rồi. Fomin và tất cả cái chính
quyền ở Vosenskaia đã phải chuồn đi Tôkin. Hình như ở Kazanskaia, Sumilinskaia,
Migulinskaia cũng đều đã nổí dậy. Cậu đã hiểu là như thế nào chưa?

Các mạch máu trên trán và trên cổ
Grigori phồng cả lên, hai tròng con mắt của chàng lóe ra những tia xanh lè.
Chàng không thể ghìm nén niềm vui sướng được nữa: giọng nói của chàng run lên,
những ngón tay đen thủi đưa lên đưa xuống không mục đích theo hàng móc trên
chiếc áo ca-pốt.

- Thế ở chỗ bác… trong thôn nầy
ấy? Tình hình hiện nay như thế nào?

- Chẳng thấy động tĩnh gì cả. Tôi
có gặp thằng Chủ tịch, nó chỉ cười và bảo: "Đối với tôi thì đằng nào cũng
thế cả. Cầu nguyện vị thần nào cũng được, miễn là có một vị thần mà cầu
nguyện". Nhưng cậu hãy chui ra khỏi cái hang của cậu đã nào.

Hai người cùng lên nhà trên.
Grigori bước những bước rất dài. Người chủ nhà vừa chạy lon ton bên cạnh, vừa
kể luôn miệng:

- Ở trấn Elanskaia, thôn
Karanoiasky đã nổi lên trước nhất. Hôm kia có hai mươi thằng Cộng sản trên
Elanskaia về hai thôn Krivskoi và Plesakovk để bắt bà con Cô-dắc, nhưng anh em
ở Karanoiasky nghe tin có chuyện như thế bèn tập họp và quyết định: "Chúng
ta còn để cho chúng nó đè đầu cưỡi cổ đến bao giờ nữa? Chúng nó bắt cha chú
chúng ta, rồi sẽ đến lượt chúng ta. Thắng ngựa đi, chúng ta sẽ cướp lại các bà
con bị bắt". Họ đã tập hợp được chừng mười lăm anh em, toàn là những tay
sừng sỏ. Chỉ huy họ là Ailanov, một tay Cô-dắc chiến đấu rất cừ. Họ chỉ có hai
khẩu súng trường, còn thì người gươm, người giáo, người chàng nạng. Họ vượt
sông Đông, cho ngựa chạy tới Plesakov. Bọn Cộng sản đang nghỉ ngơi trong sân
gia súc của nhà Melnikov. Anh em Karanoiasky bèn tấn công trên lưng ngựa vào
trong sân, nhưng nhìn quanh sân lại có một bức tường đá. Họ đã xông tới rồi lại
phải rút lui. Bọn Cộng đã giết mất một tay trong bọn, cầu cho hắn được hưởng
phúc nơi thiên đường. Chúng nó bắn đuổi theo, hắn ngã ngựa, người mắc lại trên
hàng rào. Bà con Cô-dắc ở Plesakov bèn đem hắn về chuồng ngựa của trấn. Nhưng
hắn chết rồi mà vẫn còn nắm chắc cái roi ngựa trong tay, cái anh chàng thân mến
ấy… Phải giằng thật mạnh mới lấy ra được. Bây giờ thì đã đến ngày tận số của
cái chính quyền Xô viết rồi, mẹ nó chứ!

Grigori ngồi ở nhà trên ngốn lấy
ngốn để bữa sáng ăn thừa rồi cùng với người chủ nhà ra phố. Ở các đầu ngõ, dân
chúng Cô-dắc đứng túm tụm từng đám như trong một ngày hội. Grigori cùng người
chủ nhà đi tới chỗ một đám. Thấy hai người chào họ, bọn Cô-dắc đưa tay lên mũ
lông chào lại một cách dè dặt và cứ tò mò nhìn bộ mặt là lạ của Grigori như chờ
đợi điều gì?

- Đây cũng là anh em mình thôi,
các cụ và các bác Cô-dắc ạ! Bà con ta đừng sợ. Các cụ và các bác có nghe nói
đến nhà Melekhov ở thôn Tatarsky không? Đây là bác Grigori, con thứ của ông
Panteley đấy. Do những vụ xử bắn nên bác ấy phải đến trốn ở nhà tôi đấy. -
Người chủ nhà nói một cách kiêu hãnh.

Câu chuyện của nhóm nầy cũng vừa
bắt đầu, một gã Cô-dắc kể chuyện dân các thôn Resetovsky, Dubrovsky và
Chernovsky đánh bật Fomin ra khỏi Vosenskaia. Nhưng giữa lúc ấy có hai người
cưỡi ngựa xuất hiẽn ở cuối dãy phố dựa lưng vào khoảng sườn núi trắng lốp nom
như một cái trán mênh mông. Hai người ấy cho ngựa chạy dọc theo phố. Cứ tới mỗi
nhóm, họ lại dừng lại một lát, quay ngựa và hoa chân múa tay kêu lên không biết
những gì. Grigori chỉ mong họ mau chóng đến gần.

- Không phải là bà con thôn ta,
không phải là dân Ryvnyi đâu… Phái viên ở đâu cử đến đấy. - Gã Cô-dắc ngừng câu
chuyện về cuộc đánh chiếm Vosenskaia, nhìn kỹ một lát rồi nói.

Hai người kia cho ngựa chạy qua
cái ngõ gần nhất và đã đến nơi.

Người đầu tiên là một lão già mặc
chiếc áo choàng bằng dạ thô không cài cúc, đầu không mũ, mặt đỏ bừng, đẫm mỗ
hôi, vài món tóc bạc loăn xoăn xoã xuống trước trán. Lão kéo con ngựa lùi lại
coi bộ rất hùng dũng rồi ngửa hẳn người ra sau và giơ tay phải về phía trước:

- Sao thế nầy, các anh là tráng
đinh Cô-dắc mà lại ra ngõ đứng như đàn bà thế nầy hay sao? - Lão kêu lên, giọng
mếu máo. Những giọt nước mắt tức tối làm giọng lão phá ra, hai bên má đỏ rực
rung rung vì cảm động.

Lão cưỡi một con ngựa cái bốn
tuổi rất đẹp, chưa có con, lông đỏ, mũi trắng, đuôi to sợi, bốn chân khô chắc
như đúc bằng thép. Nó thở phì phì, cắn hàm thiếc, khuỵu hai chân sau rồi đứng
chồm hẳn lên, đòi thả dây cương để lại có thể tiếp tục chạy một nước đại rất
đẹp, để từ bốn vó nó lại vang ra những tiếng rầm rập, để gió lại bẻ cụp hai tai
nó xuống và rú vù vù trong bờm nó, để mặt đất giá băng và dội lại tiếng rên
siết dưới những cái móng nhẵn như vỏ ngao. Bên dưới làn da rất mỏng, thấy hiện
rõ từng đường gân, từng mạch máu đang giật giật. Những bắp thịt tròn nằm dọc
theo cổ nó nảy nảy, cái mũi hồng hồng trong trong run run, còn hai con mắt lồi
đỏ như hồng ngọc thì cứ long hai khoảng lòng trắng đầy những tia máu, tức tối
liếc nhìn chủ như đòi hỏi.

- Hởi những người con của sông
Đông êm đềm, các người còn đứng ở đây làm gì hử? - Lão già chuyển cặp mắt từ
Grigori sang những người khác, kêu lên lần nữa. - Chúng nó bắn giết cha ông các
người, chúng nó cướp đoạt tài sản của các người, bọn chính uỷ Do Thái nhạo báng
tôn giáo của các người, thế mà các người cứ cắn hạt hướng dương, cứ ra bãi chơi
hay sao? Các người còn chờ cái vòng thòng lọng xít vào họng các người nữa hay
sao? Các người còn ôm lấy gấu váy vợ đến bao giờ nữa? Dân toàn trấn Elanskaia,
già trẻ lớn bé đều vùng dậy cả rồi. Bọn Đỏ đã bị tống cổ khỏi Vosenskaia rồi…
Thế còn các người, bà con Cô-dắc thôn Ryvnyi? Phải chăng đối với các người cuộc
đời không còn giá trị gì nữa? Phải chăng trong mạch máu của các người,
nước kvas[258] mu-gích đã chảy thay dòng máu Cô-dắc rồi? Hãy vùng
dậy đi! Hãy cầm lấy vũ khí! Thôn Kripskoi cử chúng tôi đi phát động các thôn.
Lên ngựa mau, anh em Cô-dắc kẻo muộn mất rồi? - Lão đưa cặp mắt như hoá điên,
nhìn chòng chọc vào mặt một lão già quen thuộc rồi quát lên bằng một giọng căm
uất. - Ông còn đứng đây làm gì nữa hử, ông Semion Khristoforovich? Bọn Đỏ chúng
nó chém chết con trai ông ở Filonov mà ông lại đứng núp bên bếp lò sao?

[258]  Một
đồ uống mát của người Nga, làm bằng bột mì hoặc hoa quả ngâm cho lên men. (N.D)

Grigori không chờ nghe xong, chạy
ngay về sân gia súc. Chàng vào nhà trấu, lôi nhanh con ngựa của chàng đứng
trong dó ra. Chàng bới đống phân khô, bật máu cả móng tay, kéo cái yên ngựa lên
rồi đánh ngựa phóng thẳng ra cổng như hoá ngộ.

- Tôi đi đây! Ơn Chúa cứu
thế
? - Chàng nhìn thấy người chủ nhà đã về gần tới cổng, chỉ kịp kêu lên
mấy tiếng là cúi rạp ngay xuống mũi yên, nằm soài trên cổ ngựa, quất roi vào cả
hai bên sườn nó, cho nó chạy hết tốc độ, để lại trên đường phố một làn bụi
tuyết trắng loá cuộn lên như gió lốc. Sau lưng chàng, đám bụi tuyết mù mịt dần
dần rơi xuống. Hai cái bàn đạp trượt trượt dưới hai bàn chân, cặp đùi cọ vào má
yên đến tê dại. Bên dưới bàn đạp, bốn vó ngựa đập rất nhanh xuống đất như kim
máy khâu. Chàng cảm thấy lòng mình tràn ngập một niềm vui cực lớn, một niềm vui
man rợ, chàng thấy mình rất dồi dào sức lực và quyết tâm. Bất giác trong họng
phát ra một tiếng thở mạnh nghe như một tiếng rít khàn khàn. Những tình cảm
thầm kín, trước đây bị trói buộc, đã được giải phóng trong tâm hồn chàng. Chàng
cảm thấy như từ nay con đường mình di sáng sủa như được rọi dưới một vầng
trăng.

Tất cả các mặt đã được cân nhắc,
được giải quyết dứt khoát trong những ngày đau khổ, những ngày chàng phải lẩn
trốn như một con thú trong cái ổ phân khô, và cũng như một con thú, chàng đã
phải lắng nghe từng tiếng động, từng lời nói bên ngoài. Sau lưng chàng tựa như
không hề có những ngày mày mò đi tìm chân lý, dao động, ngả nghiêng và đấu
tranh nội tâm nặng nề. Những ngày ấy đã quay lộn như những bóng mây và trong
lúc nầy trang chảm thấy như mọi sự tìm tòi trước kia của mình đều vô ích và
trống rỗng. Có cái gì mà phải suy nghĩ cơ chứ? Việc gì mà phải khuấy lộn tâm
hồn để giải quyết các mâu thuẫn, để tìm lối thoát như một con sói kinh hoàng
trước một cuộc vây bắt? Cuộc đời có vẻ buồn cười, giản đơn một cách lạ lùng.
Trong lúc nầy, chàng có cảm tưởng như từ xưa tới nay chưa từng bao giờ có cái
chân lý duy nhất để tất cả mọi người đều có thể nép mình bên dưới bộ cánh của
nó mà sưởi ấm. Chàng nổi nóng đến cực độ, bụng bảo dạ: người nào cũng có lẽ
phải của mình, cũng có cái luống cày cho mình đi theo.

Con người bao giờ cũng đã đấu
tranh với nhau vì mẩu bánh, vì mảnh đất, vì quyền sống và sẽ còn chiến đấu mãi
mãi chừng nào mặt trời còn toả ánh sáng và máu nóng còn chảy trong cơ thể. Phải
chiến đấu chống lại những kẻ muốn cướp quyền sống, cướp đời sống của mình; phải
đấu tranh kiên quyết, không dao động, đấu tranh như một kẻ đã bị dồn vào vách,
và cuộc đấu tranh sẽ tôi luyện lòng căm hờn, sẽ làm cho ý chí được kiên định.
Chỉ cần đừng trói buộc tình cảm, mặc cho tình cảm tự do phát triển một cách
điên cuồng.

Con đường của người Cô-dắc đã bị
cắt ngang bởi con đường của người mu-gích Nga, con đường của những con người
trong các nhà máy. Phải chiến đấu một sống một chết với họ. Phải dành lại vùng
đất sông Đông màu mỡ dưới chân họ, vùng đất đã được tưới bằng máu của dân
Cô-dắc. Phải đuổi họ như đuổi dân Tarta[259] ra
khỏi địa giới Quân khu? Phải đánh cho Moskva run sợ, bắt Moskva phải ký một hoà
ước nhục nhã! Đã chạm trán với nhau trên một con đường hẻm thì không thể nào
nhường bước; dù là ai đánh gục ai, nhưng phải có một kẻ bị đánh gục. Kể ra cũng
đã có một lần thử nghiệm rồi đấy, các trung đoàn Đỏ đã được mở đường vào đất
đai Quân khu, thử nghiệm như thế liệu đã đủ chưa? Bây giờ thì hãy cầm chắc cán
gươm!

[259]  Xưa
kia dân Cô-dắc đã nhiều lần đánh bật được những cuộc xâm lăng của dân Tarta.
(N.D)

Grigori đã suy nghĩ như thế,
trong lòng bừng bừng một mối căm hờn mù quáng, trong khi con ngựa đưa chàng qua
sông Đông lồm xồm và trắng loá như bờm một con ngựa trắng. Tuy nhiên trong
khoảnh khắc, một ý nghĩ ngược lại vẫn còn lởn vởn trong đầu óc chàng:
"Người giàu và người nghèo chứ không phải người dân Cô-dắc và nước Nga…
Miska Kosevoi và Kotliarov cũng là dân Cô-dắc nhưng hai người vẫn một lòng đi
theo bọn Đỏ…". Song chàng lại bực bội xua đuổi những ý nghĩ ấy đi ngay.

Thôn Tatarsky đã hiện ra trước
mặt. Grigori nới lỏng dây cương.

Con ngựa chuyển sang nước kiệu
nhỏ, mồ hồ sủi lên trên mình nó như bọt xà phòng. Đến đầu phố chàng lại giật
cương, cho ức con ngựa hích vào cửa hàng rào, rồi vào thẳng trong sân.

Chương 155

Đến khi trời bình minh, Miska đã
vào tới trong thôn Bolsoi của trấn Ust-Khopeskaia, khắp người đau như dần. Anh
bị một vọng gác của trung đoàn số 4 Damurskaia bắt giữ. Hai chiến sĩ Hồng quân
giải anh về trung đoàn bộ. Một sĩ quan tham mưu không tin lời anh nói, cứ hỏỉ
dồn anh rất lâu, cố làm cho anh bí với những câu hỏi đại loại như: "Ở chỗ
các anh, ai là chủ tịch Uỷ ban cách mạng? Tại sao anh không có giấy chứng
minh?" vân vân. Miska chán ngấy không muốn trả lời những câu hỏi ngớ ngẩn
ấy nữa.

- Thôi đồng chí ạ, đồng chí đừng
truy tôi nữa. Bọn Cô-dắc không phải chỉ truy tôi như thế, mà chúng nó cũng
chẳng mò ra được gì đâu.

Anh lật áo sơ-mi cho anh chàng
kia xem chỗ sườn bị đinh ba đâm và cả phần dưới bụng. Anh còn định nói thêm vài
lời sâu cay nữa và doạ người cán bộ tham mưu, nhưng giữa lúc ấy Stokman bước
vào.

- À, đứa con phóng đãng đây rồi?
Thằng quỉ oắt con đây rồi! - Stokman đưa hai tay ôm lấy lưng Miska, cái giọng
trầm trầm của anh phá ra. - Nầy đồng chí ạ, đồng chí làm gì mà phải tra hỏi nó
mãi như thế? Đây chính là cái anh chàng của chúng mình đây mà! Đồng chí vất vả
một cách đúng là ngu xuẩn! Bảo đi tìm tôi hay Kotliarov có xong ngay không? Đỡ
phải hỏi han… Thôi ta đi đi, Miska! Nhưng cậu làm thế nào mà còn sống sót được
thế? Làm thế nào mà còn sống được thế, kể cho mình nghe với! Chúng mình đã gạch
tên cậu khỏi danh sách những anh em con sống rồi đấy! Chúng mình cứ nghĩ rằng
cậu đã hy sinh anh dũng rồi.

Miska nhớ lại cái cảnh mình bị
địch bắt mà không chống cự được chút nào, nhớ tới khẩu súng trường để lại trên
chiếc xe trượt tuyết, ức quá chảy cả nước mắt, mặt đỏ như gấc.

Chương 156

Hôm Grigori trở về, thôn Tatarsky
đã tổ chức được hai đại hội Cô-dắc. Đại đội toàn thôn quyết định động viên tất
cả những người có thể cầm vũ khí từ mười sáu đến bảy mươi. Nhiều người cũng cảm
thấy rằng tình hình không thể nào cứu vãn được nữa: phía Bắc là tỉnh Vosenskaia
thì địch đã đi theo người Bolsevich và Quân khu Khopesky cũng đã là một khu đỏ,
còn phía Nam là mặt trận, mặt trận nầy lộn ngược trở lại sẽ có thể đè bẹp ngay
những kẻ phiến loạn như một trận tuyết lở. Một số người Cô-dắc đặc biệt thận
trọng không muốn cầm vũ khí, nhưng bọn kia đã dùng vũ lực bắt họ phải theo.
Stepan từ chối thẳng thừng không chịu đi đánh nhau.

- Tôi không đi. Các anh cứ bắt
ngựa, làm gì tôi thì làm, nhưng tôi không muốn cầm súng đâu! - Anh ta đã nói rõ
ràng như thế.

Sáng hôm Grigori, Khristonhia và
Anikey bước vào nhà anh ta.

- Sao lại không muốn? - Grigori
hỏi, lỗ mũi phập phồng.

- Không muốn là không muốn, chỉ
có thế thôi.

- Nhưng nếu bọn Đỏ chiếm được
thôn thì anh sẽ trốn đi đâu? Đi với chúng tôi hay ở lại?

Stepan long lanh hai con mắt,
nhìn chằm chằm hết Grigori lại đến Acxinhia. Anh ta nín lặng một lát rồi trả
lời:

- Đến lúc đó hẵng hay.

- Nếu thế thì ra ngoài kia?
Khristonhia, bắt lấy nó! Chúng tôi sẽ lập tức xử bắn anh ngay? - Grigori cố
tránh không nhìn Acxinhia lúc nầy đang đứng nép vào bếp lò, chàng nắm lấy tay
áo quân phục của Stepan, kéo lại gần mình. - Ra ngoài kia, không ở đây làm gì
nữa?

- Grigori, chớ có bậy… Buông ra!
- Stepan tái mặt, chống cự một cách yếu ớt.

Khristonhia ôm lấy sau lưng
Stepan, lầu bầu:

- Nếu đầu óc anh đã thế thì đi ra
ngoài kia?

- Anh em?

- Chúng tôi không anh em với anh?
Đi, đã bảo kia!

- Buông tôi ra, tôi sẽ ghi tên
vào đại đội. Tôi bị bệnh thương hàn, còn yêu…

Grigori cười gằn, buông tay áo
Stepan ra.

- Đi mà lĩnh súng. Sớm nói như
thế có hơn không?

Rồi không chào ai cả, chàng khép
tà áo ca-pốt bước ra ngoài.

Khristonhia thì chẳng ngần ngại
gì cả, hỏi xin ngay Stepan thuốc lá để cuốn một điếu và còn ngồi nán lại để nói
chuyện rất lâu, tựa như giữa hai người chẳng có việc gì xảy ra.

Đến tối thì có hai chiếc xe chở
vũ khí từ Vosenskaia về thôn: tám mươi tư khẩu súng trường và hơn một trăm
thanh kiếm. Nhiều người lấy ra các vũ khí mà họ đã cất giấu. Trong thôn ghi tên
được hai trăm mười một chiến binh. Một trăm năm mươi người là kỵ binh, số còn
lại là bộ binh.

Quân phiến loạn còn chưa có một
tổ chức thống nhất. Tạm thời các thôn còn hoạt động riêng lẻ, họ tự động tổ
chức những đại hội, đại hội toàn dân bầu ra những chỉ huy trong số những gã
Cô-dắc chiến đấu giỏi nhất, không tính đến cấp bậc mà chỉ xét đến công trạng.
Chúng chưa phát động những trận tấn công mà chỉ đặt liên lạc với các thôn lân
cận và phái trinh sát cưỡi ngựa đi sục sạo các vùng chung quanh.

Cũng như năm Một nghìn chín trăm
mười tám, Petro Melekhov được đưa lên làm đội trưởng đại đội kỵ binh của thôn
Tatarsky ngay trước khi Grigori trở về. Latysev nắm quyền chỉ huy đại đội bộ
binh.

Một số lính pháo binh do Ivan
Tomilin dẫn đầu đi Batki. Trên đó có một khẩu pháo Hồng quân bỏ lại đã gần nát
hỏng, không có máy nhắm, bánh xe cũng gãy. Bọn lính pháo binh lên đó chính là
để sửa chữa khẩu pháo ấy.

Để trang bị cho hai trăm mười một
chiến binh có một trăm linh tám khẩu súng trường, kể cả số đem ở Vosenskaia về
lẫn số thu thập được trong thôn, một trăm bốn mươi thanh gươm và mười bốn khẩu
súng săn. Ông Panteley Prokofievich được thả trong hầm nhà Mokhov ra cùng với
mấy lão già khác đã đào khẩu súng máy lên, nhưng vì không có băng đạn nên khẩu
súng đã không được nhận để trang bị cho đại đội.

Hôm sau, lúc trời sắp hoàng hôn
có tin một đội tiễu phạt của Hồng quân đang tiến từ Karginskaia tới trấn áp
cuộc bạo động. Đội tiễu phạt nầy gồm ba trăm tay súng dưới quyền chỉ huy của
Likhachev, có bảy khẩu pháo và mười hai cỗ súng máy. Petro quyết định cử một
đội trinh sát thật mạnh sục sạo về hướng thôn Tokin, đồng thời báo cáo lên
Vosenskaia.

Đội trinh sát xuất phát lúc hoàng
hôn. Grigori chỉ huy ba mươi gã Cô-dắc thôn Tatarsky ra đi. Vừa ở thôn ra, đoàn
ngựa đã phi nước đại và cứ thế chạy gần tới thôn Tokin. Khi còn cách Tokin
chừng hai ki-lô-mét, Grigori cho bọn Cô-dắc xuống ngựa trên con đường cái, bên
cạnh một bờ dốc đứng không sâu lắm. Chàng cho bố trí dưới bờ dốc. Bọn giữ ngựa
dắt ngựa xuống một cái khe. Tuyết dưới đó rất sâu. Những con ngựa thụt đến bụng
trong lớp tuyết xốp. Một con ngựa giống động đực lúc trời sắp sang xuân, lồng
lộn hí rầm lên. Một gã Cô-dắc được cắt riêng để coi nó.

Grigori phái ba gã Cô-dắc Anikey,
Marchin Samin và Prokho Zykov tới sát cái thôn. Ba gã cho ngựa đi bước một. Xa
xa, những cánh rừng chung quanh thôn Tokin chạy chữ chi thành một dải xanh xanh
rất rộng theo sườn núi lan dần về phía đông - nam. Đêm đã xuống, những đám mây
thấp sà xuống đồng cỏ. Bọn Cô-dắc ngồi nín lặng dưới bờ vách. Grigori nhìn theo
hình ba tên cưỡi ngựa xuống dốc, hoà lẫn với đường sống trâu đen đen nằm giữa
con đường. Chẳng mấy chốc không còn nhìn thấy những con ngựa nữa mà chỉ còn ba
cái đầu ngật ngưỡng. Rồi cả ba cái đầu cũng khuất nốt. Một phút sau từ đó vang
tới tiếng súng máy nặng tặc tặc rất to. Rồi lại có tiếng một khẩu nữa, nghe cao
hơn, có lẽ là trung liên. Khẩu trung liên nã hết một đĩa đạn thì lặng đi, còn
khẩu kia chỉ ngừng một lát rồi lại bắn rất nhanh hết thêm một băng đạn. Nhưng
loạt đạn bay qua phía trên bờ vách tới một chỗ nào đó khá cao trong bóng tối.
Tiếng súng máy rộn rã, vui vẻ và rất thanh làm mọi người phấn chấn lên. Ba gã
trinh sát phi ngựa trở về.

- Vừa chạm trán với một vọng
tiêu! - Từ xa Prokho Zykov đã kêu lên. Giọng hắn bị những tiếng chân ngựa chạy
rầm rập át đi.

- Bảo các cậu giữ ngựa sẵn sàng!
- Grigori ra lệnh.

Chàng nhảy lên bờ vách như nhảy
lên ụ chiến hào, rồi không để ý tới những viên đạn viu víu cắm xuống tuyết, đi
thẳng ra đón ba gã Cô-dắc đang cho ngựa đi tới.

- Không nhìn thấy gì à?

- Có nghe thấy tiếng chúng nó làm
ầm ầm trong đó. Nghe những tiếng người nói thì có lẽ đông đấy. - Anikey vừa thở
hổn hển vừa nói.

Hắn nhảy trên ngựa xuống, nhưng
mũi ủng mắc vào bàn đạp, bèn chửi rầm lên, vừa lò cò và đưa tay gỡ chân.

Trong lúc Grigori hỏi han Anikey,
tám gã Cô-dắc đã tụt từ bờ vách xuống khe, lấy ngựa phóng về nhà.

- Ngày mai sẽ đem chúng nó ra xử
bắn. - Grigori lắng nghe tiếng vó ngựa xa dần của những ten chạy trốn, khẽ nói.

Những gã Cô-dắc còn ở lại ngồi
thêm chừng một giờ dưới bờ vách. Chúng hết sức yên lặng lắng nghe. Cuối cùng có
gã nghe thấy tiếng vó ngựa.

- Chúng nó từ Tokin lại đấy…

- Trinh sát!

- Không có lẽ!

Cả bọn thì thầm trao đổi ý kiến.
Chúng vươn cổ, cố giương mắt nhìn thấy được một cái gì đó trong bóng đêm dày
đặc như không có gì xuyên thủng nổi, nhưng chẳng thấy gì hết. Cuối cùng hai con
mắt tinh như mắt dân Kalmys của Fedot Bodovskov nhận ra trước tiên.

- Chúng nó tới rồi đấy. - Hắn hạ
cây súng trường trên cổ xuống, nói chắc chắn như đinh đóng cột.

Hắn đeo súng một cách rất kỳ
quặc: dây đeo súng lồng sau gáy như dây thánh giá, còn khẩu súng thì nằm chéo
lủng lẳng trước ngực. Dù đi bộ hay cưỡi ngựa cũng đều như thế, một tay trên
nòng, một tay dưới báng, tựa như đàn bà quảy đòn gánh.

Chừng mười người cưỡi ngựa đang
lặng lẽ đi trên đường, không ra đội hình gì cả. Đi đâu là một người dáng điệu
đường bệ, quần áo rất ấm, tách ra chừng nửa thân ngựa. Con ngựa đuôi ngắn thân
dài bước vững vàng và kiêu hãnh. Grigori ngồi bên dưới nhìn lên nền trời xám
xịt thấy rõ những đường nét trên các hình người ngựa, thậm chí thấy rõ cả cái
mũ lông kiểu Kuban đỉnh phẳng của người đi đầu.

Đoàn người ngựa đi cách bờ vách
chừng mười xa-gien. Khoảng cách giữa họ và bọn Cô-dắc nhỏ đến nỗi có cảm tưởng
như họ phải nghe thấy cả những tiếng thở khàn khàn và tiếng tim đập dồn dập của
bọn Cô-dắc.

Grigori đã dặn trước rằng chưa có
lệnh của chàng thì không được nổ súng. Như một con thú rình mồi, chàng chờ thời
cơ một cách thận trọng và chính xác. Trong lòng chàng đã chín muồi một quyết
tâm: chàng sẽ lên tiếng gọi đám người đang đi tới và đến khi họ bối rối đứng tụ
lại một đám thì sẽ nổ súng.

Tiếng tuyết lạo xạo trên đường
nghe thật là hoà bình. Một vó ngựa đập xuống làm nảy ra những tia sáng vàng
vàng: có lẽ cái cá sắt bị trượt trên một mặt đá nhô lên khỏi tuyết.

- Ai?

Grigori nhẹ nhàng nhảy từ dưới bờ
vách lên như một con mèo.

Những tên Cô-dắc khác xông lên
theo với những tiếng loạt soạt trầm trầm.

Sự việc đã diễn ra hoàn toàn
không như Grigori chờ đợi.

- Nhưng các anh muốn hỏi ai? -
Người đi đầu hỏi bằng một giọng trầm khàn đặc, không thoáng một chút sợ hãi hay
ngạc nhiên gì cả. Người đó kéo cương cho con ngựa tiến thẳng tới trước mặt
Grigori.

- Anh là ai? - Grigori giật giọng
quát lo nhưng vẫn không động đậy, nòng khẩu Nagan chỉ hơi
ngổng lên một chút ở đầu cánh tay cong cong.

Vẫn cái giọng trầm lúc nãy nổ ra
giận dữ, ồm ồm như tiếng sấm:

- Anh là ai mà dám quát lác như
thế? Ta là chi đội trưởng chi đội tiễu phạt. Được bộ tư lệnh Tập đoàn Hồng quân
số tám trao cho toàn quyền đi dẹp quân phiến loạn đây? Ai là đội trưởng của các
anh? Bảo hắn ra đây cho ta?

- Tao là đội trưởng.

- Mày? Á-à-à…

Grigori nhìn thấy tay người cưỡi
ngựa giơ lên cùng với một vật đen như lông quạ. Trước khi phát súng nổ, chàng
đã kịp nằm xuống và hô lên:

- Bắn!

Viên đạn đầu tròn của khẩu
Browning rít qua đầu Grigori. Cả hai bên đều nổ súng ầm ầm. Bodovskov ghì chặt
lấy dây cương con ngựa của người chỉ huy không biết sợ. Grigori vươn tay qua
đầu Bodovskov nắm chắc lấy tay người đó, chém sống gươm lên cái mũ kiểu Kuban
rồi lôi cả cái thân hình nặng nề của anh ta từ trên yên xuống. Trận chiến đấu
giáp lá cà kết thúc trong hai phút. Ba chiến sĩ Hồng quân phi ngựa tháo chạy,
hai người bị giết, số còn lại bị tước vũ khí

Grigori chọc cái nòng súng của
khẩu Nagan vào cái miệng sây sứt của người chỉ huy đội mũ kiểu
Kuban bị bắt làm tù binh, hỏi qua loa:

- Mày họ gì, đồ sâu bọ?

- Likhachev.

- Mầy đi với chín thằng hộ vệ như
thế thì mong giở được cái trò gì hử? Mầy tưởng người Cô-dắc sẽ quì gối đấy
phỏng? Sẽ xin tha tội đấy phỏng?

- Chúng mầy giết tao đi!

- Chuyện ấy thì còn kịp chán, -
Grigori an ủi anh ta. - Giấy tờ đâu?

- Trong cái túi dết. Cầm lấy,
quân cướp đường! Đồ cho đẻ!

Grigori không để ý gì đến những
lời chửi bới, cứ tự tay lục soát Likhachev. Chàng móc trong túi chiếc áo lông
ngắn của Likhachev ra một khẩu Browning thứ hai, tháo lấy khẩu Mauser hộp gỗ và
cái túi dết dã chiến. Trong túi bên, chàng tìm thấy một cái ví nhỏ bọc da thú
lằn vằn trong đựng giấy và một cái bót thuốc lá.

Likhachev luôn miệng chửi rủa,
anh đau quá thỉnh thoảng phải rên lên. Vai bên phải của anh bị một viên đạn
xuyên qua. Thanh gươm của Grigori chém vào đầu cũng rất mạnh. Likhachev to lớn,
cao hơn Grigori, nặng cân và có vẻ khoẻ lắm. Trên khuôn mặt ngăm ngăm râu ria
cạo nhẵn nhụi, hai hàng lông mày đen, rộng nhưng ngắn vươn ra một cách phóng khoáng
và gặp nhau ở chỗ tinh mũi, nom rất oai. Miệng Likhachev rộng, cằm vuông. Anh
mặc một chiếc áo lông ngắn chếp nếp, đầu đội một chiếc mũ lông đen kiểu Kuban
đã bị nhát gươm chém rách. Bên dưới cái áo lông còn có một chiếc áo quân phục
cổ đứng màu cứt ngựa rất vừa người, cái quần đi ngựa rộng thùng thình. Nhưng
chân anh lại nhỏ nhắn, đẹp, đi đôi ủng bằng da véc-ni rất diện.

- Cởi áo lông ra, thằng chính uỷ
nầy! - Grigori ra lệnh. - Mày trơn lông đỏ da lắm. Tọng bánh mì Cô-dắc vào phì
nộn như thế nầy, không chết cóng được đâu.

Mấy người tù binh bị trói tay
bằng dây lưng, dây cương rồi cho ngồi lên ngựa.

- Nước kiệu theo ta! - Grigori ra
lệnh rồi sửa lại trên người mình khẩu Mauser hộp gỗ của Likhachev.

Mọi người nghỉ đêm ở Batki.
Likhachev lăn lộn trên cái ổ rơm trải dưới đất bên cạnh bếp lò, luôn luôn
nghiến răng rên rỉ. Grigori soi đèn rửa và bằng vết thương ở vai cho anh nhưng
không tra hỏi thêm gì nữa. Chàng ngồi giờ lâu ở bàn, xem các giấy uỷ nhiệm của
Likhachev, bản danh sách các tên Cô-dắc phản cách mạng trấn Vosenskaia mà Toà
án cách mạng lưu vong đã trao cho Likhachev, cuốn sổ tay, vài bức thư và những
chỗ đánh dấu trên bản đồ. Thỉnh thoảng chàng lại đưa mắt nhìn Likhachev, bắt
gặp hai con mắt sắc như hai lưỡi dao của anh. Bọn Cô-dắc nghỉ trong ngôi nhà
lục đục suốt đêm, hết ra sân thăm ngựa lại vào phòng ngoài hút thuốc và nằm
chuyện gẫu với nhau.

Đến khi trời rạng, Grigori ngủ
thiếp đi lúc nào không biết. Nhưng chẳng mấy chốc chàng đã tỉnh dậy và ngẩng
cái đầu nặng chì lên khỏi bàn. Likhachev ngồi trên đệm rơm dùng răng cắn xé chỗ
băng bó và cứ nhìn Grigori bằng cặp mắt hung dữ đỏ ngầu những máu, hai hàm răng
trắng loá nhe ra một cách đau khổ như trong khi hấp hối, cặp mắt long lanh một
ánh buồn bực đầy tử khí làm cho cơn ngái ngủ của Grigori như có bàn tay ai xua
đi hết.

- Mầy làm sao thế? - Grigori hỏi.

- Mầy… cần hỏi làm gì hử? Tao
muốn chết! - Likhachev gầm lên, mặt tái đi và nằm vật đầu xuống rơm.

Có một đêm mà Likhachev uống hết
nửa thùng nước. Cho đến sáng anh không chợp mắt một lúc nào.

Sáng hôm ấy Grigori cho Likhachev
lên một chiếc xe hai ngựa đi Vosenskaia cùng một bản báo cáo vắn tắt và tất cả
các tài liệu thu lượm được.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3