Sông Đông êm đềm - Chương 126
Chương 126
Mãi đến thứ hai Miska Kosevoi và
"Bồi" mới ra khỏi trấn Karginskaia. Sương mù sủi ngầu trên đồng cỏ,
cuộn lên trong các khe núi, luồn xuống các vùng đất trũng, phủ kín những chỗ
nhô ra từ các vách dốc đứng. Những nấm kurgan hiện lên mờ mờ
sau làn sương mù. Cun cút kêu ríu rít trong đám cỏ non. Mặt trăng bập bềnh trôi
trên bầu trời cao ngất như đoá hoa sen đã nở hết trong một cái đầm mọc đầy cỏ
lác và bàng tử.
Hai người đi đến khi trời rạng.
Chòm sao Đại tiểu hùng tinh đã mờ đi. Sương bắt đầu rơi. Đã gần tới thôn Hạ
Yablonovsky. Nhưng giữa lúc ấy, khi chỉ còn cách cái thôn nầy ba vec-xta,
bọn Cô-dắc đã đuổi kịp hai người trên đường xuống đồi. Sáu tên cưỡi ngựa đã lần
theo vết chân, đuổi theo. Miska và "Bồi" đã chạy lao sang bên cạnh
đường nhưng cỏ quá thấp, trăng lại sáng… Thế là hai người bị chúng tóm được và
giải trở về. Cả đám đi chừng một trăm xa-gien chẳng nói chẳng rằng. Sau đó đùng
lên một phát súng… "Bồi" loạng choạng, đi mỗi lúc một nghiêng sang
một bên, như con ngựa sợ cái bóng của nó. Rồi "Bồi" không ngả mà chỉ
như nằm xuống một cách vụng về, mặt rúc vào một đám ngải cứu xanh xanh xám xám.
Miska đi thêm chừng năm phút,
không còn cảm thấy cơ thể mình nữa, hai tai ù lên, như có tiếng chuông, chân
bước trên mặt đất khô mà cứ như thụt xuống bùn. Cuối cùng Miska hỏi:
- Sao chưa bắn đi, lũ chó đẻ? Còn
làm khổ người ta gì nữa?
- Đi đi đi đi. Nhưng im cái mồm!
- Một Cô-dắc nói giọng nhẹ nhàng. - Thằng mu-gích đã bị khử rồi, nhưng cậu thì
chúng tớ thương. Trong cuộc chiến tranh chống Đức cậu ở trung đoàn Mười hai à?
- Phải. Mười hai.
- Cậu sẽ lại về trung đoàn Mười
hai thôi. Cậu còn trẻ. Mới lầm lỡ một chút, chưa tai vạ gì lắm. Bọn mình sẽ
chữa cho!
Ba ngày sau toà án quân sự dã
chiến trấn Karginskaia đã "chữa" cho Miska thật. Hồi ấy toà án chỉ có
hai hình thức trừng phạt là xử bắn và đánh bằng roi. Đối với những người bị
tuyên án bắn thì ban đêm bọn Cô-dắc lôi họ ra ngoài trấn, tới sau nấm kurganPertranuri,
còn những người được coi là còn có hy vọng cải tạo thì chúng trừng trị bằng
cách lấy roi quật trước công chúng trên bãi họp.
Hôm chủ nhật ấy, từ lúc sáng sớm,
dân chúng vừa thấy một chiếc ghế dài được kê ra giữa bãi là họ bắt đầu đổ tới.
Không những trên bãi đông nghịt mà người ta còn đứng đầy các quầy hàng, trên
những tấm ván kê bên các nhà kho, trên nóc các ngôi nhà và các cửa hiệu.
Kẻ đầu tiên bị đánh đòn là
Alexandrov, con trai lão cố đạo ở Grachevskaia. Anh chàng nổi tiếng là một tay
Bolsevich rất hăng, luận tội đáng bị xử bắn, nhưng bố lại là một lão cố đạo
tốt, được mọi người kính trọng, vì thế toà án chỉ quyết định đánh thằng con hai
chục roi thôi. Người ta lột quần Alexandrov, rồi đặt anh chàng không quần không
khố như thế nằm sấp trên chiếc ghế dài, hai tay bị trói bên dưới chiếc ghế. Một
gã Cô-dắc ngồi lên chân Alexandrov, hai gã nữa cầm hai bó nhánh liễu đứng hai
bên. Bị đánh xong, Alexandrov phủ bụi bẩn trên người, kéo quần lên vái tứ
phương, rồi mừng rơn vì thấy mình không bị đem xử bắn lại cúi đầu chào lấy chào
để và cám ơn:
- Xin cám ơn các cụ bô lão?
- Mặc quần lại cho cẩn thận đi! -
Một người trả lời.
Tiếng cười rộ lên khắp cái bãi
họp, đến nỗi mấy anh chàng bị bắt ngồi ngay gần đấy, trong một nhà kho, cũng
phải cười.
Chiều theo lời tuyên án. Miska bị
nện hai mươi roi. Nhưng cái đau vì bị làm nhục còn rát hơn cái đau vì ăn roi
nhiều. Nhân dân cả trấn, già trẻ lớn bé đều giương mắt nhìn mình. Miska xốc
chiếc quần đi ngựa, thiếu chút nữa thì oà lên khóc. Anh bảo gã Cô-dắc vừa đánh
mình:
- Thật chẳng còn ra thể thống gì
nữa.
- Nhưng sao vậy?
- Đầu làm đít chịu. Nhục nhã suốt
một đời.
- Không sao, cái nhục không phải
là khó, nó không làm cay mắt đâu - Gã Cô-dắc kia an ủi Miska rồi như muốn làm
vui lòng người bị trừng phạt, gã nói thêm - Kể ra cậu cũng là một thằng cứng
rắn đấy chứ: đã hai lần mình quật thẳng tay, định bắt cậu phải kêu lên… Nhưng
sao mình cũng thấy rằng một thằng thế nầy thì không thể nào bắt nó kêu được.
Hôm nọ bọn mình quật một thằng, con ông cụ bĩnh cả ra quần. Cái thằng đến là
yếu bụng yếu dạ.
Ngay hôm sau, chiếu theo lời
tuyên án, Miska bị tống ra mặt trận.
Sau đó hai ngày, xác
"Bồi" mới được chôn cất. Hai gã Cô-dắc bị tên ataman phái
đi đào một cái huyệt nông hoen hoẻn rồi thõng chân xuống huyệt ngồi nghỉ, hút
thuốc rất lâu.
- Đất chỗ nầy rắn khiếp, - một gã
nói.
- Rắn như thép ấy! Xưa nay có cày
bao giờ đâu, lâu ngày lại càng rắn.
- Phải… cái thằng nầy được một
chỗ thật là đắc địa, ngay trên đỉnh… Gió lồng lộng, khô ráo, quang đãng… Chắc
hẳn cũng lâu mới rữa đấy.
"Bồi" nằm áp mặt xuống
lớp cỏ. Hai gã đưa mắt nhìn anh rồi đứng dậy:
- Lột ủng nó chứ?
- Còn sao nữa, đôi ủng của nó còn
tốt đấy.
Hai gã đặt "Bồi" xuống
huyệt theo đúng ghi thức của đạo Thiên chúa: đầu quay về hướng tây, rồi lấp
chất đất đen chắc quánh lên.
- Dẫm thêm cho chặt nhé? - Gã còn
trẻ thấy đắp đã được ngang huyệt bèn hỏi - Chẳng cần, thế nầy cũng được rồi, -
Gã kia thở dài. - Khi nào các thiên sứ thổi kèn báo ngày phán xét cuối cùng, nó
sẽ đứng dậy nhanh hơn.
Nửa tháng sau cỏ sa tiền và ngải
cứu non đã mọc trên nấm mồ nhỏ xíu. Yến mạch dại đã kết bông trên đó, sơn giới
cũng nở những đám hoa vàng xum xuê ngay bên cạnh. Cỏ sông Đông rủ những đám lá
mung lung như khói thuốc lá. Bạc hà, đại tái và châu quả toả hương thơm phức.
Chẳng bao lâu từ cái thôn gần đấy có một ông cụ đến bới một cái hố trên đầu
ngôi mộ, trồng một cái cột bằng gỗ sồi mới bào và đặt lên đó một cái bàn thờ
nhỏ có mái. Bên dưới cái mái che hình tam giác thấy hiện ra trong bóng tối nét
mặt hiền hậu đầy đau khổ của Đức mẹ và trên thành gỗ của cái mái có dòng chữ
đen kẻ không trau chuốt lắm bằng chữ Slavơ:
Năm loạn lạc con người đồi
trụy,
Anh em nhà chớ xử án nhau.
Ông cụ không còn nữa nhưng cái
miếu nhỏ vẫn còn lại trên đồng cỏ. Cái vẻ đau thương của nó mãi mãi còn đập vào
mắt những người đi bộ hay cưỡi ngựa qua, gây trong lòng họ một nỗi buồn man
mác.
Và sau đó, đến tháng Năm, có mấy
con gà nước đến đánh nhau bên cái miếu, dẫm phẳng một khoảng ngải cứu xanh lơ,
làm nát cả đám cỏ mao rất dày đang chín bông: chúng đánh nhau để tranh nhau con
mái, vì quyền sống, vì ái tình, vì sự sinh con đẻ cái. Nhưng chỉ ít lâu sau,
cũng gần cái miếu ấy, dưới một nấm đất, dưới một bụi ngải cứu già lờm xờm, một
con gà nước cái đẻ chín quả trứng màu xanh lốm đốm, đẻ xong nó đem cả hơi ấm
của mình ra ấp và xoè đôi cánh bóng nhoáng bảo vệ chín quả trứng ấy.