Sông Đông êm đềm - Chương 124-125
Chương 124
Đêm ấy, dưới những ngôi sao vàng
nhợt lấm tấm khắp trời như màu sữa, mọi người gần như không sao ngủ được trong
cái cửa hiệu nhỏ bé chật ních những người. Những lời trao đổi chỉ ngắn ngủi,
không thể nào kéo lại được. Ai nấy đều như nghẹt thở vì bầu không khí ngột ngạt
và những nỗi lo lắng canh cánh.
Từ tối đã có một đồng chí Xích vệ
xin ra sân:
- Mở hộ cửa, đồng chí ơi! Tôi cần
phải ra ngoài, phải ra ngoài để đi giải!
Chân không, đầu tóc rối như bòng
bong, chiếc áo sơ-mi lót bằng vải thô tuột ra ngoài chiếc quần đi ngựa, anh ta
áp khuôn mặt đen sạm vào lỗ khoá, nhắc lại:
- Mở hộ ra đi, đồng chí ơi!
- Con sói độc là đồng chí của
mày. - Cuối cùng có một thằng gác trả lời!
- Mở hộ cái, người anh em! -
Người hỏi xin bèn đổi cách xưng hô.
Tên gác đặt khẩu súng trường
xuống, lắng nghe trong bóng tối tiếng vỗ cánh ràn rạt của những con vịt trời
bay đi ăn đêm. Nó hút hết điếu thuốc rồi ghé miệng vào lỗ khoá:
- Cứ bĩnh ra quần cũng được, ông
bạn thân mến ạ. Một đêm cũng chẳng bục được quần đâu, rồi sáng mai người ta sẽ
mở cửa mời cậu lên thiên đàng với cái quần ẩm ấy.
- Chúng ta nguy mất rồi! - Anh
Xích vệ rời khỏi chỗ cửa phòng, nói một cách tuyệt vọng.
Mọi người ngồi kề vai nhau.
Pochenkov ngồi trong một góc phòng dốc tất cả các túi ra, rồi vừa lầu bầu chửi
một thôi một hồi, vừa xé vụn một đồng giấy bạc. Xong xuôi với chuyện số tiền
còn lại anh cởi giầy tất rồi đặt tay lên vai Krivoslykov nằm bên cạnh và nói:
- Hai năm rõ mười là bọn mình đã
bị chúng nó lừa rồi. Chúng nó đã đánh lừa mình, mẹ chúng nó chứ? Bực thật,
Mikhail ạ! Hồi còn nhỏ, mình thường xách khẩu súng cổ lỗ của ông cụ nhà mình
sang bên kia sông Đông đi săn. Vào trong rừng thì cứ như chui dưới một cái lều
vải xanh rờn ấy… Ra đến chỗ dòng sông uốn khúc là sẽ thấy những con vịt trời sà
xuống. Lần nào không bắt kịp là mình tức đến phát khóc lên được. Và lần nầy
mình lại cảm thấy tức cũng như thế: mình đã lỡ mất cơ hội. Nếu bọn mình ra khỏi
Rostov sớm hơn
được ba ngày thì đã không đến nỗi vác xác đến đây chịu chết. Tất cả bọn phản
cách mạng đã bị chúng ta đánh cho thất điên bát đảo rồi!
Krivoslykov ngồi trong bóng tối
nhe răng cười một cách đau khổ va nói:
- Quỷ dữ bắt chúng nó đi, cứ mặc
cho chúng nó giết. Bây giờ chết thì cũng chẳng có gì đáng sợ… Mình chỉ sợ một
điều là sang đến thế giới bên kia, chúng mình không còn nhận ra nhau nữa Fedor
ạ, sang đến thế giới bên kia, mình với cậu gặp nhau sẽ như người dưng nước lã…
Thật là khủng khiếp!
- Thôi đi! Pochenkov bực bội nói
to rồi đặt cả hai bàn tay vừa to vừa nặng lên vai người bạn nằm bên - Vấn đề
đâu phải ở chỗ đó.
Laguchin kể cho một đồng chí nào
đó nghe về thôn anh, về chuyện ông nội anh thường gọi đùa anh là "Cái
nêm" vì đầu anh dài và chính ông cụ đã có lần dùng roi ngựa đánh anh về
tội ăn cắp dưa của người khác.
Đêm ấy, mọi người nói với nhau
toàn những chuyện phiến đoạn, không đầu không đũa.
Buntruc ngồi ngay gần cánh cửa,
anh hé môi hít lấy ít để từng chút gió lọt qua kẽ cửa. Trong khi hồi tưởng lại
những chuyện đã qua, anh thoáng nghĩ đến mẹ, rồi như bị một mũi kim nóng bỏng
châm vào tim, anh cố xua ngay những ý nghĩ về bà cụ để chuyển sang những hồi ức
về Anna, về những ngày gần đây… Các hồi ức ấy đã làm anh nhẹ nhõm hẳn đi, trong
lòng tràn ngập một hạnh phúc lâng lâng. Những ý nghĩ về cái chết không làm anh
sợ hãi chút nào.
Không như những người khác, mỗi
khi nghĩ rằng tính mạng của mình sắp bị kẻ khác cướp đi, anh không hề cảm thấy
một cơn run bất giác chạy rân rân suốt dọc xương sống, không hề thấy một sự đau
khổ day dứt nào. Anh sẵn sàng tiếp nhận cái chết, như sắp sửa về tới một nơi
nghỉ ngơi chẳng có gì là vui thú sau một chặng đường đầy đắng cay và vất vả,
khi mà cái mệt mỏi đã choán hết tất cả, khi toàn thân đau như rần, cho nên
không còn gì có thể làm cho mình xao xuyến nữa.
Ngay gần bên Buntruc, anh em bàn
tán về đàn bà, về tình yêu, về những niềm vui lớn nhỏ vương vấn trong tâm khảm
từng người, câu chuyện khi vui khi buồn.
Người ta kể về gia đình, về bố
mẹ, về những người thân thuộc. Người ta bàn tán về chuyện năm nay lúa tốt:
những con quạ đen có thể lẩn vào trong những đám lúa mạch mà không bị trông
thấy.
Người ta than phiền là không
có vodka và mất tự do, người ta chửi Pochenkov. Song hàng ngàn
cái cánh đen ngòm của giấc ngủ đã trùm lên tất cả. Bị làm tình làm tội cả về
thể xác lẫn tinh thần, mọi người thiếp dần đi, ngủ ngồi cũng có, ngủ nằm cũng
có, ngủ đứng cũng có.
Mãi đến lúc trời sắp rạng mới có
một người không biết mê hay tỉnh oà lên khóc, tiếng khóc nghe sao mà ghê rợn,
đúng là tiếng khóc của những con người thô lỗ đã lớn tuổi, đã quên mất cái vị
mặn của nước mắt từ thời thơ ấu. Ngay lập tức nhiều người cũng kêu lên xua tan
bầu không khí yên lặng mơ màng:
- Có câm đi không, đồ khốn kiếp!
- Thật là đàn bà!
- Tao vặn hết răng bây giờ, câm
ngay!
- Làm bố trẻ con rồi mà còn chảy
nước mắt!
- Anh em còn đang ngủ mà nó…
chẳng biết xấu nữa?
Anh chàng vừa khóc hỉ mũi, sụt
sịt thêm vài tiếng rồi nín bặt.
Tất cả lại hoàn toàn chết lặng.
Góc nào cũng lốm đốm những ánh thuốc lá, nhưng chẳng ai nói gì nữa. Nồng nặc
mùi mồ hôi đàn ông, mùi những thân hình đầy sức khoẻ chen chúc nhau, và cái mũi
nhạt thếch nhưng ngây ngất của cả một đêm sương.
Gà trong thôn đã gáy sáng. Có
những tiếng chân bước và tiếng sắt đập vào nhau xoang xoảng.
- Ai? - Một tên gác khẽ hỏi:
Từ xa có tiếng húng hắng ho rồi
một giọng rất trẻ vui vẻ trả lời:
- Anh em mình đây. Bọn mình đi
đào hố chôn bọn đồng đảng của Pochenkov đây.
Trong hiệu tạp hoá lập tức nhốn
nháo hẳn lên…
Chương 125
Đội Cô-dắc thôn Tatarsky dưới
quyền chỉ huy của tên thiếu uý Petro Melekhov đến thôn Ponomariev ngày mười một
tháng năm lúc trời vừa rạng.
Bọn Cô-dắc vùng sông Tria đang
lăng xăng chạy tới chạy lui trong thôn. Chúng dắt ngựa đi uống nước, kéo đàn
kéo lũ ra đầu thôn. Petro cho chi đội của hắn đứng lại giữa thôn, ra lệnh xuống
ngựa. Vài gã Cô-dắc bước tới trước mặt hắn.
- Các bạn đồng hương từ đâu đến
đấy? - Một gã hỏi.
- Từ thôn Tatarsky.
- Các cậu đã muộn mất một chút…
Không có các cậu bọn mình cũng tóm cổ được thằng Pochenkov rồi.
- Thế chúng nó đâu cả rồi? Đã
giải đi chưa?
- Còn kia kìa! - Gã Cô-dắc khoát
tay chỉ cái mái thoai thoải của hiệu tạp hoá, phá lên cười - Lốc nhốc một lũ
như đàn gà trong chuồng ấy.
Khristonhia, Grigori Melekhov và vài
người nữa bước tới.
- Nhưng bây giờ sẽ giải chúng nó
đi đâu? - Khristonhia hỏi…
- Cho về với ông bà ông vải.
- Sao lại thế… Cậu nói bậy nói bạ
cái gì thế? - Grigori nắm lấy tà áo ca-pôt của gã Cô-dắc.
- Bẩm quan lớn, ngài còn nói bậy
nói bạ cừ hơn tôi nhiều! - Gã Cô-dắc trả lời ngạo nghễ rồi khẽ giật áo khỏi
những ngón tay nắm rất chắc của Grigori. - Xem đấy, người ta đã sửa soạn phương
tiện giao thông cho chúng nó rồi đấy. - Gã giơ tay chỉ cái giá treo cổ dựng
giữa hai cây liễu khẳng khiu.
- Cho ngựa phân tán vào các nhà!
- Petro ra lệnh.
Mây đen che kín bầu trời. Mưa rơi
thưa thớt rất vang. Đàn ông đàn bà Cô-dắc lũ lượt kéo nhau ra đầu thôn. Dân
chúng Ponomariev đã được báo tin là đến sáu giờ sẽ chấp hành án tử hình. Họ vui
vẻ đến nơi như để xem một trò vui hiếm có. Đàn bà con gái Cô-dắc đều quần lành
áo tốt như ngày hội, nhiều người còn đưa cả con đi. Đám người vây quanh bãi
chăn công cộng, họ chen chúc quanh cái giá treo cổ và cái hố dài, sâu chừng
một ác-sin. Bọn trẻ con dẫm loạn trên cái ụ đất sét ẩm chừng một
ác-sin. Bọn trẻ con dẫm loạn trên cái ụ đất sét ẩm đắp ở một bên hố. Bọn đàn
ông đứng túm tụm một chỗ, bàn tán sôi nổi về cuộc hành quyết sắp diễn ra. Bọn
đàn bà xì xào một cách chua xót.
Tên đại uý Popop bước tới. Hắn
ngủ đã đẫy giấc, mặt mày nghiêm nghị, điếu thuốc nhai nhai trong miệng cho thấy
những cái răng thô chắc. Hắn ra lệnh cho bọn Cô-dắc trong đội canh gác giọng
khàn khàn:
- Đuổi hết dân chúng ra khỏi cái
hố! Bác Spiridorov giải tốp thứ nhất ra! Hắn xem đồng hồ lùi sang một bên nhìn
đám dân chúng bị bọn canh gác dồn đuổi, lùi khỏi chỗ hành hình, cuối cùng vây
lấp pháp trường thành một hình bán nguyệt sặc sỡ.
Spiridonov cùng một nhóm Cô-dắc
đi nhanh đến tiệm tạp hoá. Đến giữa đường hắn gặp Petro Melekhov.
- Thôn ngài có ai tình nguyện không?
- Tình nguyện làm gì cơ chứ?
- Chấp hành bản án.
- Không có và không thể có đâu? -
Petro trả lời gay gắt và đi vòng qua chỗ Spiridonov đứng ngáng đường.
Nhưng vẫn có những kẻ tình
nguyện: Mitka Korsunov vuốt những sợi tóc mượt xoã xuống dưới cái lưỡi chai
mũ cát-két, ngật ngưỡng bước tới trước mặt Petro. Hắn nheo hai con
mắt long lanh, xanh như lá lau và nói;
- Tôi sẽ bắn. Sao lại bảo
"không". Tôi nhận lời, - nói đến đây hắn đưa mắt nhìn xuống, mỉm cười
- Nhưng cho tôi đạn. Tôi chỉ còn một kẹp thôi.
Tự nguyện xung vào đội xử bắn có
nó, gã Andrey Kasulin với bộ mặt nhọt nhạt hết sức hung hãn và gã Fedot
Bodovskov mặt như dân Kalmys.
Những tiếng thì thầm và xôn xao
cố ghìm nén lan ra trong đám người rất đông đứng xen vai thích cánh khi tốp thứ
nhất những người bị kết án bắt đầu rời khỏi tiệm tạp hoá.
Pochenkov đi đầu, chân không, với
chiếc quần đi ngựa bằng dạ đen rộng thùng thình và cái áo da ngắn mở phanh. Anh
đặt hai bàn chân vừa to vừa trắng xuống bùn một cách vững vàng, chợt trượt chân
một cái, bèn hơi giơ tay trái ra để lấy lại thăng bằng.
Krivoslykov lê bước khó khăn bên
cạnh Pochenkov, mặt nhợt nhạt như xác chết. Hai con mắt anh long lanh ráo
hoảnh, miệng giật giật một cách đau khổ. Anh hất hất vai để sửa lại chiếc
áo ca-pôt khoác trên lưng, có vẻ như đang lên một cơn lạnh
khủng khiếp. Không hiểu sao hai người không bị lột áo ngoài trong khi các anh
em khác chỉ còn có áo lót. Buntruc bước thình thịch, Laguchin chạy lon ton bên
cạnh anh. Cả hai đều đi chân không. Chiếc quần lót của Laguchin bị rách hở một
bắp chân với làn da vàng ệch, lông mọc lơ thơ. Anh vừa đi vừa ngượng nghịu xốc
bên ống quần rách, môi run lập bập.
Buntruc ngó qua đầu mấy tên áp
giải, nhìn về phía trời xa mây xám mịt mùng. Hai con mắt tỉnh táo và lạnh lùng
của anh hấp háy một cách căng thẳng như chờ đợi điều gì, anh luồn bàn tay to bè
bè vào cổ chiếc sơ-mi mở phanh, gãi bộ ngực lông lá rậm rì, mặt có vẻ như đang
chờ cái gì rất thú vị nhưng không thể nào thực hiện được…
Một số người còn giữ được trên
nét mặt một vẻ tựa như phớt lạnh. Orlov người chiến sĩ Bolsevich râu tóc bạc
phơ hiên ngang nhổ xuống chân bọn Cô-dắc. Song cũng có hai ba người cho thấy
tất cả nỗi đau buồn âm ỉ trong con mắt và một sự kinh hoàng không bờ bến trên
những khuôn mặt méo xệch, làm những tên áp giải cũng phải quay đi không dám
nhìn mỗi khi bắt gặp con mắt của họ.
Đoàn người đi khá nhanh.
Krivoslykov chốc chốc lại trượt chân, Pochenkov phải đỡ anh. Họ đi mỗi lúc một
gần tới đám đông.
Những chiếc khăn bịt đầu trắng
trắng hiện lên lốm đốm giữa cả một cái biển những mũ cát-két xanh
xanh đỏ đỏ. Pochenkov gườm gườm nhìn đám người, vặc một câu hết sức tục tĩu,
nhưng bỗng nhiên anh bắt gặp cặp mắt Laguchin liếc nhìn mình bèn hỏi:
- Cậu nhìn gì thế?
- Có mấy hôm nay mà tóc cậu bạc
phơ… Bọn chó má chúng nó đã cắn xé cậu xơ xác như thế nầy rồi…
- Tất nhiên tóc phải bạc ra chứ
còn gì nữa, - Pochenkov thở một cách nặng nề, anh lau mồ hôi trên vừng trán
hẹp, nhắc lại. - Gặp chuyện thú vị thế nầy thì tóc phải bạc ra chớ còn gì nữa.
Con chó sói mất tự do, lông nó còn trắng ra, huống chi mình lại là con người.
Hai người không nói thêm gì nữa.
Đã tiến tới sát đám đông. Ở bên phải, anh em đã nhìn thấy màu đất sét vàng vàng
của cái rãnh đào làm huyệt. Spiridonov ra lệnh:
- Đứng lại!
Pochenkov tiến ngay thêm một
bước, đưa cặp mắt mệt mỏi nhìn một lượt mấy hàng đầu của đám dân chúng: phần
lớn là những kẻ râu bạc phơ hoặc đã hoa râm. Bọn cựu chiến binh đứng lui cả về
phía sau: lương tâm chúng cũng có cắn rứt. Hai hàng ria chảy xễ của Pochenkov
rung rung, anh nói giọng âm thầm nhưng rõ ràng:
- Thưa các cụ bô lão! Xin các cụ
cho phép tôi và Krivoslykov được xem anh em đồng chí của chúng tôi tiếp nhận
cái chết như thế nào, rồi sẽ treo cổ hai chúng tôi lên sau cũng được. Trong lúc
nầy chúng tôi muốn nhìn thấy anh em đồng chí của mình lần cuối cùng và khuyến
khích nâng đỡ những người tinh thần yếu đuối.
Tất cả lặng đi, nghe thấy cả
tiếng những giọt mưa rơi xuống những chiếc mũ cát-két.
Tên đại uý Popop đứng phía sau
mỉm cười, nhe hai hàm răng vàng khè vì khói thuốc lá. Hắn không phản đối. Bọn bô
lão hò hét loạn lên:
- Chúng tôi cho phép!
- Cho hai đứa sống thêm vài phút!
- Lôi chúng nó ra khỏi cái hố!
Krivoslykov và Pochenkov bước tới
chỗ đám người, bọn bô lão lánh ra, dành một lối đi nhỏ trước mặt hai người. Hai
người đứng lại ở một chỗ không xa lắm và bị lèn như nêm giữa những con người
đứng quanh từ phía với hàng trăm cặp mắt nhìn chằm chằm đầy vẻ thăm dò. Hai
người nhìn bọn Cô-dắc lúng túng bắt anh em Xích vệ đứng quay lưng vào cái hố.
Pochenkov nhìn thấy rất rõ.
Krivoslykov cứ phải kiễng chân
vươn cái cổ ngẳng chưa cạo râu ra nhìn.
Buntruc đứng ở cuối hàng bên
trái. Anh gù gù lưng, thở nặng nề, mắt dán xuống đất, mãi chẳng thấy ngửng đầu
lên. Bên cạnh Buntruc, Laguchin khom người cố kéo vạt áo sơ-mi xuống che chỗ
quần rách. Người thứ ba là anh chàng Ichnát người trấn Tambobskaia, rồi đến
Vanca Bondyrev thay đổi đến không nhận ra được nữa vì có vẻ như già đi ít nhất
hai mươi tuổi. Pochenkov đăm đăm nhìn người thứ năm: anh nhận ra rất khó khăn
Matvey Sarcmatov, chàng Cô-dắc trấn Kazanskaia đã cùng anh chia xẻ mọi nỗi buồn
từ hồi ở Kamenskaia. Thêm hai người nữa bước tới miệng hố rồi quay lưng lại
Petro Luxikov cười một cách rất khiêu khích, rất ngang ngược, thét lên chửi
những lời rất tục tĩu và giơ nắm tay bẩn thỉu lên đe đám dân chúng lúc nầy đã
lặng đi. Koretkov thì cứ ngậm tăm. Người cuối cùng thì bọn kia phải xốc tay lôi
đi. Anh ta ưỡn người ra, hai bàn chân không có sức sống thõng xuống kéo trên
mặt đất, hai tay bám chắc lấy những tên Cô-dắc đang lôi mình đi, anh ta lắc đi
lắc lại khuôn mặt đầm đìa nước mắt, vừa cố giằng ra, vừa kêu lên khàn khàn:
- Tha cho tôi, anh em ơi! Tha cho
tôi, hãy vì Chúa mà tha cho tôi!
- Anh em ơi! Anh em thân mến ơi?
Anh em làm gì thế nầy? Tôi đã được thưởng bốn huân chương trong trận chiến
tranh chống Đức!
- Tôi còn mấy đứa con nhỏ? Lạy
chúa tôi, tôi làm gì nên tội? Lạy Chúa tôi, sao mà anh em lại thế?
Một gã Cô-dắc cao lớn trước kia ở
trung đoàn Atamansky đưa đầu gối huých vào ngực anh ta, đẩy anh ta tới miệng
hố. Mãi lúc nầy Pochenkov mới nhận ra người vừa giằng nhau với bọn kia và bất
giác thất kinh: đó là một trong những chiến sĩ Xích vệ gan dạ nhất, người trấn
Migulinskaia, tuyên thệ vào lính năm 1910, đã được thưởng huân chương thánh
Gioóc cả bốn hạng. Bọn kia xốc anh ta đứng lên, nhưng anh ta lại ngã lăn ra, bò
lết dưới chân bọn Cô-dắc, và vừa áp cặp môi khô nẻ vào những chiếc ủng của
chúng, những chiếc ủng đá vào mặt mình, vừa khẩn khoản van lơn bằng một giọng
khàn khàn nghe đến là khủng khiếp:
- Anh em đừng giết tôi! Hãy rủ
lòng thương lấy tôi! Tôi còn ba đứa, còn ba đứa con nhỏ… một đứa con gái nhỏ…
Các anh em ruột thịt của tôi ơi!
Anh ta ôm lấy đầu gối tên lính
trung đoàn Atamansky, những tên nầy vùng ra, nhảy lui lại rồi vung chân đá cái
đế ủng đóng cá sắt vào tai anh ta. Như từ trong một cái ống, máu ở tai bên kia
toé ra, chảy lênh láng xuống cái cổ áo trắng.
- Lôi nó đứng dậy! Spiridonov
điên tiết quát lên.
Cuối cùng bọn Cô-dắc cũng đại
khái lôi được anh dậy, đỡ cho đứng thẳng rồi bỏ chạy ra chỗ khác. Trong hàng
trước mặt, những tên tình nguyện làm đao phủ đã giương súng sẵn sàng. Đám dân
chúng ồ lên một tiếng rồi nín lặng. Có người đàn bà rú lên một tiếng rùng rợn…
Buntruc còn muốn nhìn lại gần nữa
màn mây mù xám xịt trên trời và mảnh đất sáu thảm trên đó anh đã rong ruổi hai
mươi chín năm ròng. Nhưng anh vừa ngửng đầu lên thì thấy cách mình năm mươi
bước có một hàng những tên Cô-dắc đứng sát nhau và một thằng to lớn có hai con
mắt xanh lè nheo nheo và món tóc xoã dưới lưỡi chai xuống vừng trán hẹp trắng,
đang ngả người về phía trước, mím chặt môi, nhằm vào anh, vào Buntruc, vào đúng
ngực. Trước khi phát súng nổ, một tiếng rú kéo dài xé mang tai Buntruc. Anh kịp
quay đầu nhìn thấy một người đàn bà còn trẻ, mặt đầy tàn hương, nhảy ra khỏi
đám người để vùng chạy về thôn, một tay áp chặt đứa con vào ngực, còn tay kia
bịt mắt nó.
Sau khi loạt súng nổ loạn xạ, khi
tám người đứng trên miệng hố đã ngã vật xuống, những tên vừa nổ súng chạy tới
bên cái hố.
Mitka Korsunov nhìn thấy người
chiến sĩ Xích vệ vừa bị hắn bắn còn cố vùng lên, tự cắn vào vai mình, bèn bồi thêm
cho anh ta một phát và khẽ bảo Andrey Kasulin:
- Cậu xem cái thằng quỷ sứ nầy,
nó cắn vào vai nó đến chảy máu và chết như một con sói, không một tiếng kêu.
Thêm mười người bị kết án nữa bị
báng súng thúc vào lưng phải đi tới miệng hố…
Sau loạt súng thứ hai bọn đàn bà
đều kêu thét lên, len ra khỏi đám đông, xô nhau dắt con bỏ chạy. Có cả những
tên đàn ông cũng bắt đầu bỏ về. Cái cảnh giết chóc đáng kinh tởm ấy, tiếng kêu
rên của những người ngắc ngoải, tiếng la thét của những người chờ chết, tất cả
cái cảnh tượng thê thảm và gớm ghiếc ấy đã làm cho người ta không thể nào ở lại
được nữa. Những kẻ còn nán lại chỉ là những tên cựu chiến binh đã chứng kiến
quá nhiều chết chóc cùng những tên bô lão hung hăng điên cuồng nhất.
Những nhóm chiến sĩ Xích vệ khác
bị dẫn tới, chân không, quần áo ngoài bị lột hết. Bọn đao phủ tình nguyện cũng
được thay thế.
Những loạt súng nổ lên ầm ầm,
những phát súng lẻ đì đẹt khô khan.
Những người chưa chết bị bắn thêm
cho chết hẳn. Trong giờ nghỉ, đống xác chết đầu tiên được đổ đất lấp quàng
quấy.
Pochenkov và Krivoslykov đi đến
chỗ những người đang chờ lượt, định tìm lời khuyến khích, những lời nói không
còn ý nghĩa như ngày thường nữa rồi. Trong giây phút nầy, khi mà chỉ một phút
nữa tính mạng của họ sẽ bị đứt đoạn như cái lá gãy cuống trên cây, thì con
người chịu quyền chi phối của những cái gì khác.
Grigori Melekhov đang len qua đám
người bắt đầu tan tác, định về thôn thì bất ngờ chạm trán với Pochenkov. Hai
người mặt giáp mặt. Pochenkov lùi một bước, nheo mắt hỏi:
- Cả cậu cũng ở đây à, Melekhov?
Grigori đứng lại, mặt tái xám đi.
- Có ở đây! Như anh thấy đấy…
- Tôi thấy… - Pochenkov nhếch mép
cười, nhìn thẳng vào bộ mặt nhợt nhạt của Grigori với cả một lòng căm hờn bất
thần nổ bùng ra.
- Sao thế, bắn vào anh em mình à?
Thay lòng đổi dạ rồi à? Té ra cậu là con người như thế đấy… Pochenkov tiến sát
tới trước mặt Grigori, khẽ nói - Làm cho cả bên nầy lẫn bên kia à? Chà, cái
thằng!
Grigori nắm lấy tay áo Pochenkov,
vừa thở hổn hển vừa hỏi:
- Anh còn nhớ trận đấu ở gần
Glubokaia không? Có còn nhớ cuộc bắn giết bọn sĩ quan không… Họ đã bị giết
chính là theo lệnh của anh. Có đúng không? Bây giờ thì phải chịu lấy hậu quả!
Thôi đừng đau khổ làm gì! Thế là không còn giở được trò gì nữa nhé, ông chủ
tịch Uỷ ban quân sự cách mạng sông Đông ạ! Đồ khốn kiếp, mày đã đem người
Cô-dắc bán rẻ cho bọn Do thái! Đã hiểu chưa? Còn muốn nói gì nữa không?
Grigori như hoá điên hoá ngộ,
Khristonhia ôm lấy chàng lôi ra chỗ khác.
- Đi lấy ngựa thôi. Đi đi! Mình
với cậu chẳng ở đây làm gì nữa.
Lạy Chúa tôi, cũng là con người,
sao lại làm như thế…
Hai người đã bỏ đi, nhưng chợt
nghe thấy tiếng Pochenkov nói, bèn đứng lại. Đứng giữa những tên cựu chiến binh
và bô lão vây kín chung quanh, Pochenkov thốt lên sang sảng, giọng đầy nhiệt
tình:
- Các người tăm tối… các người mù
quáng! Các người mù cả rồi! Bọn sĩ quan đã lừa dối các người, chúng nó đã bắt
các người giết hại anh em ruột thịt của mình? Các người tưởng rằng giết được
chúng tôi là mọi việc đều chấm dứt phải không? Không đâu! Hôm nay các người
chiếm được phần thắng, nhưng chỉ ngày mai người ta sẽ đem các người ra xử bắn
thôi! Chính quyền Xô viết sẽ được thành lập trên khắp nước Nga. Các người hãy
nhớ lấy lời tôi nói! Các người đang làm đổ máu đồng bào mình một cách vô ích!
Các người thật là một bọn ngu xuẩn~
- Đối với những thằng như chúng
mày thì chúng tao phải làm như thế mới được? - Một lão già nhảy chồm lên.
- Nầy ông bô ơi, bắn sao được tất
cả mọi người? - Pochenkov mỉm cười - Không thể treo cổ được hết nhân dân Nga
đâu. Liệu liệu mà giữ lấy cái đầu! Sau nầy các người hối lại thì đã quá muộn!
- Mày chớ có doạ chúng tao?
- Tôi không doạ đâu. Tôi chỉ vạch
cho các người thấy con đường phải đi thôi.
- Nầy Pochenkov, chính anh mới là
thằng mù! Moskva đã làm cho hai con mắt anh mù mất rồi.
Không chờ nghe hết những lời qua
tiếng lại, Grigori gần như chạy tế về cái sân buộc con ngựa đang cuống lên vì
nghe thấy những tiếng súng nổ. Grigori và Khristonhia, buộc chặt đai bụng ngựa,
cho phi nước đại ra khỏi thôn, vượt qua ngọn gò, không ngoái đầu lại nữa.
Trong khi đó ở Ponomariev, khói
đạn vẫn cứ tuôn ra theo từng phát súng: những người Cô-dắc ở Vosenskaia,
Karginskaia, Bokovskaia, Krasnokurskaia, Miliuchinskaia bắn giết những người
Cô-dắc ở Kazanskaia, Migulinskaia, Radorcskaia, Kumsakaia, Baklanovskaia.
Cái hố đã đầy đến miệng. Bọn
Cô-dắc lấp đất lên rồi lấy chân giậm. Hai tên sĩ quan đeo mặt nạ đen nắm lấy
Pochenkov và Krivoslykov, đẩy đến trước cái giá treo cổ.
Pochenkov dũng cảm và kiêu hãnh
ngửng cao đầu, bước lên chiếc ghế đẩu, cởi khuy áo sơ-mi, phanh cái cổ ngăm ngăm
to đần đẫn, rồi tự tay lồng cái vòng thòng lọng có bôi xà phòng vào cổ, không
một bắp thịt nào trên người anh run. Krivoslykov bị chúng kéo đi, một tên sĩ
quan đỡ anh leo lên chiếc ghế đẩu, và anh cũng tự tay lồng cái vòng thòng lọng.
- Xin cho phép tôi nói một lời
trước khi chết! - Pochenkov đề nghị.
- Cứ nói đi!
- Xin mời! - Bọn cựu chiến binh
kêu lên.
Pochenkov khoát tay chỉ đám người
đã thưa nhiều:
- Các người hãy trông, những
người muốn ở lại xem chúng tôi chết còn được bao nhiêu? Lương tâm cắn rứt mà!
Chúng tôi đã vì nhân dân lao động, vì quyền lợi của nhân dân lao động mà chiến
đấu với bè lũ tướng tá chó má, không ngại hy sinh tính mạng, thế mà bây giờ sắp
phải chết dưới bàn tay các người đây! Nhưng chúng tôi không nguyền rủa các
người! Các người là những kẻ bị lừa dối một cách cay đắng? Cho đến khi chính
quyền cách mạng được thiết lập, các người sẽ thấy rõ chân lý ở về bên nào. Các
người đã đem những con người ưu tú nhất cả vùng sông Đông vùi dưới cái hố nầy…
Những tiếng lao xao mỗi lúc một
to, những lời Pochenkov nói không rõ nữa. Một tên sĩ quan lợi dụng tình thế đó
đạp một cái rất lẹ chiếc ghế đẩu dưới chân Pochenkov bắn ra. Cả cái thân hình
hộ pháp nặng như đá của anh ngả nghiêng rồi rơi thõng xuống, nhưng hai chân văn
còn chạm đất. Cái vòng thòng lọng thít vào cổ làm Pochenkov tức thở, bắt anh
phải dướn người lên. Anh ấn mười ngón chân to tướng của hai bàn chân không giầy
không tất lên lớp đất ẩm đã bị dẫm nát, cố kiễng lên để hít lấy chút không khí,
rồi đưa cặp mắt lồi hẳn ra ngoài nhìn đám người đứng im thin thít, khẽ nói:
- Chúng nó còn chưa học được cách
treo cổ người ta… Nầy Spiridop, nếu tao treo cổ mầy, thì chân mầy không chạm
tới đất đâu.
Rớt rãi chảy ra đầm đìa từ miệng
Pochenkov. Hai tên sĩ quan đeo mặt nạ và mấy gã Cô-dắc đứng gần đấy bấn cả lên,
hì hục mãi mới nâng được cái thân hình nặng chịch và đã hoàn toàn kiệt sức của
Pochenkov lên chiếc ghế đẩu.
Krivoslykov cũng không được chúng
để cho nói hết lời: chiếc ghế đẩu văng ra khỏi chân anh, đập vào một cái xẻng
không biết có tên nào ném lại đấy. Cái thân hình khô đứt, không chút mỡ thừa
của anh đung đưa rất lâu, hết co rúm lại như con tôm, đầu gối chạm vào cằm, lại
duỗi thẳng ra trong cơn giãy chết. Trong lúc Krivoslykov còn co giật, cái lưỡi
đen sịt thè lè sang một bên mép còn ngọ nguậy thì chiếc ghế dưới chân Pochenkov
lại bị đá bật ra lần thứ hai. Cái thân hình nặng nề của anh lại rơi thõng
xuống, đường chỉ trên vai bục ra, và đầu ngón chân anh lại chạm đất. Đám Cô-dắc
đồng thanh khẽ kêu lên. Một số vừa làm dấn phép vừa bỏ đi. Tất cả số còn lại
đều bối rối hoảng hốt đến nỗi cứ đứng đực ra một lát như bị mạ ám, và cứ nhìn
bộ mặt xạm lại như màu gang của Pochenkov với một tâm trạng không phải không
khiếp hãi.
Có người chợt nghĩ ra một cách là
lấy xẻng bới, bèn vội vã xúc đi những cục đất dưới chân Pochenkov, và sau mỗi
nhát xẻng, người anh chàng thõng xuống thẳng hơn, cổ anh càng vươn ra dài hơn,
và cái đầu có bộ tóc hơi xoăn của anh càng ngật ra sau lưng. Sợi chão khó nhọc
lắm mới chịu nổi cái trọng lượng sáu pút. Cái giá kêu răng rắc, hơi đưa đi đưa
lại và theo nhịp lắc đều đặn của cái giá, Pochenkov từ từ quay ra tứ phía, tựa
như muốn giơ cho bọn sát nhân xem bộ mặt tím đen và bộ ngực đầm đìa những dòng
nước dãi và nước mắt nóng hổi của mình.