Sông Đông êm đềm - Chương 119-120
Chương 119
Trời sắp hoàng hôn thì đoàn ngựa
đến Karginskaia. Trong trấn không còn có ai là cựu chiến binh nữa, họ đã đi
Migulinskaia cả rồi.
Petro cho đội quân của hắn xuống
ngựa trên cái bãi nhỏ bên cạnh cửa hiệu của lão lái buôn Levotkin, rồi đi đến
nhà viên atamantrấn. Một viên sĩ quan cao lớn, da ngăm ngăm, vẻ
người đầy sức mạnh, ra tiếp hắn. Viên sĩ quan nầy mặc một chiếc áo sơmi vừa dài
vừa rộng không đeo lon, lưng thắt một chiếc đây da kiểu Kavkaz, cái quần đi
ngựa Cô-dắc có nẹp, lồng vào trong đôi bít tất len trắng. Một cái píp thõng
xuống bên mép cặp môi mỏng dính. Hai con mắt màu nâu có tia nhìn cứ gườm gườm,
hiêng hiếng. Hắn đứng lại trên thềm, vừa hút thuốc vừa nhìn Petro bước tới. Cái
thân hình đồ sộ của hắn với bắp thịt rắn chắc như đúc bằng gang hằn rõ dưới áo
sơ- mi, trên ngực và hai cánh tay, tất cả thể hiện một sức mạnh khác người.
- Ngài là ngài ataman trấn?
Viên sĩ quan hà một hơi khói dưới
bộ ria chầy xệ, trả lời bằng giọng nam trung:
- Vâng, tôi là ataman trấn.
Không biết tôi có vinh dự hầu chuyện ai đây.
Petro tự giới thiệu. Viên ataman bắt
tay hắn và hơi nghiêng đầu:
- Likhovidov Fedor Mitrievich.
Fedor Likhovidov là một tên
Cô-dắc thôn Guxino - Likhovidovsky, một con người hoàn toàn không thuộc loại
bình thường. Hắn đã học qua trường Yunke, vừa tốt nghiệp xong là
biệt tăm một thời gian dài. Vài năm sau hắn đột nhiên về thôn. Được chính quyền
cấp trên cho phép, hắn tuyển mộ một đội tình nguyện gồm những tên Cô-dắc đã hết
hạn lính trở về. Trong khu vực trấn Karginskaia hiện nay, hắn đã tuyển được một
đại đội toàn thằng bạt mạng, trời đánh thánh vật để cùng với hắn sang Ba-tư.
Hắn ở bên ấy một năm cùng với đội quân của hắn, làm cận vệ cho tên quốc vương
Ba-tư. Trong những ngày cách mạng Ba-tư, hắn cùng quốc vương Ba-tư chạy trốn,
mất hết quân, rồi đùng một cái lại xuất hiện ở Kargin. Hắn có đưa về một số
những tên Cô-dắc cũ, ba con ngựa Ả rập thuần giống trong chuồng ngựa của tên
vua Ba-tư, và cơ man nào của cải: những tấm thảm quí, những đồ trang sức hiếm
lạ, những tấm lụa màu sắc hết sức lộng lẫy. Hắn chơi bời một tháng, móc trong
cáỉ túi chiếc quần đi ngựa của hắn ra tiêu một số tiền vàng Ba-tư không phải là
nhỏ. Hắn cưỡi mốt con ngựa tuyệt đẹp lông trắng như tuyết, chân rất thon, cổ
cong như cổ con thiên nga, rong chơi qua các thôn. Hắn thường cứ ngồi trên yên
ngựa, tiến qua ngưỡng cửa vào hiệu của lão Levotki, mua thứ hàng gì đó, trả
tiền, rồi cứ thế ra thẳng cửa bên kia. Fedor Likhovidov xuất hiện bất ngờ như
thế nào thì lại biệt tích biệt tăm cũng bất ngờ như thế. Cùng biến đi với hắn
có cả thằng bạn đường nối khố là tên hầu cận Panteliuska, một thằng Cô-dắc thôn
Guxinov, khiêu vũ rất giỏi. Cả mấy con ngựa cùng tất cả những gì hắn mang từ
Ba-tư về cũng biến theo hắn hết.
Nửa năm sau, Likhovidov xuất hiện
ở Anbani. Từ Duracho ở bên ấy, hắn gởi về Kargin cho những kẻ quen biết những
tấm bưu thiếp chụp những phong cảnh núi non xanh biếc của xứ Anbani với những
cái tên rất lạ. Sau đó hắn rời sang Ý, chu du khắp miền Balkan, có mặt ở
Rumani, ở Tây Âu và thiếu chút nữa thì sang tới Tây ban nha.
Một làn khói bí mật bao trùm lên
cái tên Fedor Likhovidov. Trong các thôn xóm truyền lan những lời bàn tán và
những giả thuyết hết sức khác nhau về hành tung của hắn. Người ta chỉ biết rõ
một điều là hắn rất gần gũi với các giới trong hoàng tộc, kết giao với những
tên quan lại chóp bu ở Petrograd, có chân trong "Hội liên hiệp nhân dân
Nga"[217] giữ
trách nhiệm khá quan trọng trong tổ chức đó, nhưng về những nhiệm vụ mà hắn làm
ở nước ngoài thì chẳng ai biết.
[217] "Hội
liên hiệp nhân dân Nga" - một tổ chức bảo hoàng tàn bạo của nước Nga thời
Nga hoàng, cổ động bài Do thái, tổ chức những vụ giết hại dân Do-thái, ám sát
các đối thủ chính trị của chúng, được Chính phủ Nga hoàng trợ cấp những món
tiền rất lớn (Chú thích của bản tiếng Nga).
Sau khi lại ở nước ngoài về,
Fedor Likhovidov đến ở Penza
một thời gian dài và ở ngay nhà viên tướng tỉnh trưởng. Được xem tấm ảnh của
hắn, những người quen biết hắn ở Kargin cứ lắc đầu tặc lưỡi thán phục: "Ái
chà chà?", "Cuộc đời của Fedor Mitrievich lên dốc đến ghê!".
"Đi lại với những nhân vật như thế nầy cơ à?". Trên bức ảnh có thể
thấy Likhovidov đưa tay đỡ tỉnh trưởng phu nhân bước lên chiếc xe ngựa nhẹ bốn
bánh, một nụ cười trên khuôn mặt gãy mũi, đen như dân Serbi. Bản thân tỉnh
trưởng đại nhân âu yếm mỉm cười với hắn như với một người thân. Gã xà ích lưng
cánh phản duỗi hai bàn tay khẽ giật cương, và mấy con ngựa cắn hàm thiếc, sắp
sửa phi vụt lên. Likhovidov đưa một tay lên vành chiếc mũ lông xồm một cách rất
nịnh đầm, còn tay kia thì đỡ khuỷu tay tỉnh trưởng phu nhân, nhẹ nhàng như đỡ
một cái tách.
Sau vài năm mất hút, mãi đến cuối
năm 1917, Likhovidov mới lại mò về Kargin, lập cơ sở ở đấy, có vẻ như muốn sinh
cơ lập nghiệp lâu dài. Hắn đem về một người vợ không biết là dân Ukraina hay
dân Ba Lan và một đứa con nhỏ. Hắn ở một căn nhà nhỏ bốn buồng trên quảng
trường đã một mùa đông không hiểu để mưu đồ những kế hoạch bí mật gì. Suốt mùa
đông (mà mùa đông năm ấy rét ra rét, chẳng có vẻ khí hậu vùng sông Đông chút
nào), bao nhiêu cửa sổ nhà hắn đều mở toang làm bà con Cô-dắc đều lấy làm lạ:
hắn rèn luyện sức chịu đựng cho bản thân và cho vợ con.
Mùa xuân năm 1918, sau việc xảy
ra ở gần Setrakov, hắn được bầu làm ataman. Thế là các khả năng vô
hạn của Likhovidov tìm được đầy đủ đất dụng võ. Hai bàn tay sắt của hắn đã nắm
chặt lấy trấn nầy, chặt đến nỗi chỉ một tuần sau, ngay bọn bô lão cũng phải lắc
đầu thán phục. Hắn nghiêm khắc lên lớp bọn Cô-dắc, và sau lần hắn phát biểu tại
hội nghị dân chúng toàn trấn (Likhovidov nói năng rất giỏi, ông trời đã không
quên phú cho hắn cả sức khoẻ lẫn óc thông minh), bọn bô lão đã rống lên như một
đàn toàn bò mộng: "Bẩm quan lớn hay lắm! Xin quan lớn cứ thế làm
cho!", "Đúng lắm! "
Tên ataman mới
đã thẳng tay sử dụng quyền lực của hắn. Hôm trước ở Karginskaia vừa nhận được
tin về trận chiến đấu ờ gần Setrakov thì hôm sau trong trấn có bao nhiêu cựu
chiến binh đều bị điều đến. Dân ngụ cư (chiếm một phần ba dân số các điểm dân
cư trong trấn) đầu tiên không muốn đi, những tên cựu chiến binh bộ kinh khác
thì phản đối, nhưng khi ra hội nghị đại biểu dân chúng Likhovidov đã kiên quyết
giữ vững ý kiến, vì thế bọn bô lão đã ký một bản kiến nghị yêu cầu trục xuất
tất cả những người "mu-gích" không tham gia bảo vệ sông Đông. Thế là
ngay hôm sau hàng chục chiếc xe chở đầy lính đã kéo về hướng Napolov và làng
Cherneskaia trong tiếng accordeon và tiếng hát. Trong số dân
ngụ cư chỉ có vài người lính bộ binh trẻ theo Vaxiki Storozenko (trước kia
chiến đấu trong trung đoàn súng máy số 1, chạy sang hàng ngũ Xích vệ.
Chỉ nhìn dáng điệu, tên ataman đã
biết ngay Petro là một sĩ quan ngoi lên từ những cấp dưới. Hắn không rời Petro
vào trong phòng mà cứ thế đứng nói, giọng có vẻ thân mật suồng sã.
- Không, ông bạn thân mến ạ, ngài
chẳng còn có việc gì mà làm ở Migulinskaia nữa đâu. Không có ngài, mọi việc
cũng đã xong xuôi cả rồi: tối qua chúng tôi đã nhận được điện. Ngài hãy cho anh
em trở về và chờ lệnh. Nhưng các ngài phải lắc cho bọn Cô-dắc động lên mới
được! Một thôn lớn như thế mà chỉ phái đi có bốn chục chiến binh à? Những cái
thằng khốn nạn ấy, ngài cứ xạc cho chúng nó một trận cẩn thận? Phải biết rằng
đây chính là chuyện sống còn của chúng nó? Chúc ngài khoẻ mạnh, mọi sự tốt
lành!
Hắn quay vào trong nhà, đế đôi
ủng ngắn hạng thường đập lộp cộp cái thân hình vạm vỡ của hắn di động nhẹ nhàng
một cách rất bất ngờ. Petro trở về chỗ bọn Cô-dắc đang chờ trên quảng trường.
Mọi người nhao nhao hỏi hắn:
- Thế nào hử?
- Ở đằng ấy tình hình như thế
nào?
- Chúng ta đi Migulin chứ?
Petro không giấu vẻ vui mừng, hắn
cười mát trả lời:
- Đánh nước mã hồi thôi! Không có
bọn mình đâu cũng đã vào đó cả rồi!
Bọn Cô-dắc mỉm cười lốc nhốc kéo
nhau về chỗ buộc ngựa bên hàng rào. Khristonhia thậm chí thở dài như vừa trút
được gánh nặng trên vai. Hắn vỗ vai Tomilin và nói:
- Thế là được về nhà rồi, cậu
pháo thủ ạ!
- Lúc nầy bọn đàn bà ở nhà đã bắt
đầu nhớ anh em mình rồi đấy!
- Chúng ta lên đường ngay thôi.
Mọi người bàn qua loa với nhau
rồi quyết định không ở lại nghỉ đêm mà lên ngựa về ngay. Thế là họ quân hồi vô
phèng, kéo nhau từng đám ra khỏi trấn. Lúc ở nhà lên Karginskaia, họ còn có
thái độ miễn cưỡng, ít khi chịu cho ngựa chạy nước kiệu. Nhưng trên đường về họ
đã thúc ngựa bạt mạng, cho chạy chết thôi. Thỉnh thoảng lại phi nước đại một
chặng. Mặt đất rắn lại vì không có mưa rên siết dưới vó ngựa. Sau những đường
sống gò đằng xa, một ánh chớp xanh lè loé lên ở một chỗ nào đó bên kia sông
Đông.
Mọi người về tới thôn lúc nửa
đêm. Trong khi cho ngựa chạy trên dốc xuống, Anikey giương khẩu súng áo của hắn
nã một phát, một loạt đạn nổ ra như sấm báo tin anh em đã trở về. Để trả lời,
những con chó trong thôn sủa lên oăng oẳng, một con ngựa không biết của anh chàng
nào, đánh hơi thấy đã gần về tới nhà, run bắn lên hí một tràng dài. Mọi người
tản ra mỗi người một ngả vào trong thôn.
Lúc chia tay với Petro, Marchin
Samin thở dài nhẹ nhõm:
- Chuyện đánh đấm thế là xong
rồi! May đến là may!
Petro mỉm cười trong bóng tối,
cho ngựa chạy về sân nhà.
Ông Panteley Prokofievich ra tiếp
lấy con ngựa. Ông tháo yên cho nó rồi dắt vào tầu ngựa. Hai bố con cùng đi vào
trong nhà.
- Thôi không đi đánh nữa à?
- Vâng.
- Chà, ơn Chúa! Chỉ mong sao suốt
đời không phải nghe nói tới những chuyện ấy nữa.
Daria đang ngủ mê mệt cũng trở
dậy. Ả ra dọn bữa tối cho chồng ăn. Grigori ở nhà trong bước ra, quần áo phong
phanh. Chàng vừa gãi gãi bộ ngực đầy lông đen, vừa nheo mắt một cách châm biếm
vừa hỏi anh:
- Quân ta đại thắng chứ?
- Tao đang tiêu diệt nốt cái món
súp củ cải còn lại đây.
- Không lo, nó chẳng đi đâu mà
sợ. Gì chứ món súp nầy thì nhất định chúng ta sẽ trị được nó, nhất là khi có
tôi xông tới chi viện.
Cho tới lễ Phục sinh vẫn chẳng
thấy ai đả động gì đến chuyện chiến tranh. Nhưng hôm thứ bảy tuần thánh có một
tên sĩ quan đặc phái từ Vosenskaia phi ngựa lới thôn. Hắn quẳng con ngựa mồ hôi
đầm đìa ở cổng nhà Korsunov, chạy lên thềm, gươm đập lách cách vào ngưỡng cửa.
- Có tin tức gì thế! - Miron
Grigorievich chạy ra đón hắn ở ngưỡng cửa - Tôi cần gặp ông ataman.
Có phải ông không?
- Tôi đây.
- Ông cho anh em Cô-dắc sửa soạn
vũ trang ngay. Pochenkov đang dẫn bọn Xích vệ tiến qua làng Nagolinskaia. Mệnh
lệnh đây. - Hắn lật lần lót mũ đẫm mồ hôi, lấy ra một chiếc phong bì đựng công
văn.
Cụ Grisaka cũng đeo kính ra tiếp
chuyện. Mitka từ sân gia súc chạy vào. Mọi người cùng đọc bản mệnh lệnh của
tên ataman quân khu. Tên sĩ quan đặc phái dựa vào dãy lan can
chạm trổ, đưa tay áo lên chùi những đám bụi trên khuôn mặt dãi dầu nắng gió.
Ngày thứ nhất lễ Phục sinh, sau
khi ăn bữa chấm dứt tuần chay, bọn Cô-dắc bắt đầu rời khỏi thôn lên đường. Mệnh
lệnh của tên tướng Alferov rất nghiêm. Hắn doạ ai không đi sẽ bị tước danh hiệu
Cô-dắc, vì thế trong trận đi đánh Pochenkov, không chỉ có bốn mươi người như
lần đầu mà có một trăm tám mươi. Trong số đó có cả những tên bô lão muốn được
dịp ra tay cho quân Đỏ một trận.
Lão Matvey Kasulin có cái mũi bị
khí trời quá lạnh làm hỏng cũng lên ngựa ra đi cùng với thằng con. Lão Apdeit
"Vua nói phét" nghênh ngáo trên hàng đầu với con ngựa cái hạng
bét. Suốt chặng đường, lão đã mua vui cho bọn Cô-dắc bằng những câu chuyện bịa
quái đản nhất. Lão Macxaev cùng vài lão già râu tóc bạc phơ khác cũng tham gia.
Bọn trẻ ra đi một cách miễn cưỡng, nhưng mấy lão già lại rất hăng hái.
Grigori Melekhov cưỡi ngựa đi
hàng cuối, mũ áo mưa trùm bên ngoài mũ cát-két. Mưa rơi đều đều như
được rây từ trên bầu trời u ám xuống đất. Những đám mây đen trôi trên cánh đồng
xanh rờn.
Một con đại bàng bay chập chờn
rất cao, ngay bên dưới những đám mây. Nó vươn rộng đôi cánh, thỉnh thoảng mới
vỗ vỗ vài cái, rồi khi bị một luồng gió cuốn đi, nó nghiêng nghiêng mình, tạt
dần về hướng đông mỗi lúc một xa, mỗi lúc một nhỏ, bộ lông nâu nâu ánh lên bệch
bệch.
Khắp đồng cỏ tràn ngập một màu
xanh ướt át. Chỉ vài chỗ nổi bật lên những đám ngải cứu năm ngoái, những bụi
hoàng thử lang đỏ tía, và trên ngọn gò thấy xám xám vài nấm kurgan xưa
kia dùng làm địa điểm canh gác.
Trong khi đi theo đoạn đường dốc
xuống Karginskaia, đoàn Cô-dắc gặp một thằng bé đánh bò đi ăn rong. Nó vung cái
roi, hai bàn chân không giầy vừa đi vừa tượt. Nhìn thấy đoàn người ngựa, nó
đứng lại chăm chú nhìn những người cưỡi ngựa và những con ngựa buộc đuôi bùn
lấm bê bết.
- Em người đâu ta? - Ivan Tomilin
hỏi nó.
- Kargin - Thằng bé mỉm cười dưới
cái áo trùm đầu, trả lời rất lanh lợi.
- Các chú các bác Cô-dắc chỗ em
đã ra đi chưa?
- Ra đi rồi. Đi đánh đuổi bọn
Xích vệ rồi. Thế các bác có thuốc lá cho cháu cuốn một điếu không? Bác có không
bác?
- Cháu xin thuốc lá à? - Grigori
ghìm ngựa lại hỏi.
Thằng bé Cô-dắc bước tới gần
chàng. Cái quần đi ngựa của nó xắn lên, ướt đẫm, nẹp quần đỏ loé. Grigori thọc
tay vào túi lấy túi thuốc. Nó mạnh dạn nhìn vào mắt chàng và nói bằng một giọng
nam cao rất lưu loát:
- Các bác cứ xuống dốc là thấy
ngay những người bị giết đấy. Hôm qua bọn tù binh đỏ bị giải đi Vosenskaia, các
bác Cô-dắc chỗ cháu đã giết sạch… Bác ạ, lúc ấy cháu đang chăn bò gần kurganPextranyi.
Cháu đứng ở đấy, bọn tù binh bị chém như thế nào, cháu nhìn thấy rõ cả. Chao
ôi, sợ chết khiếp được! Các bác ấy vừa vung gươm lên là họ gào rú, họ chạy tán
loạn… Sau đó cháu có lại xem… Một người bị chém sả vai vẫn còn thở lấy thở để,
quả tim đầm đìa những máu ở giữa ngực vẫn còn đập, cái gan thì xanh lè lè… Thật
là khủng khiếp? - Nó nhắc lại và rất lấy làm lạ vì mấy người Cô-dắc nghe câu
chuyện nó kể chẳng có vẻ khiếp sợ gì cả, hay ít nhất nó cũng kết luận như thế
khi nhìn ba khuôn mặt gan lì và lãnh đạm của Grigori, Khristonhia và Tomilin.
Nó hút một hơi, rồi vuốt cái cổ
ướt đẫm của con ngựa Grigori, nói: "Cám ơn bác!" và chạy về với mấy
con bò.
Bên cạnh đường, xác của các chiến
sĩ Xích vệ bị chém chết nằm ngổn ngang trên một bờ dốc không sâu lắm được nước
mưa xuân rửa sạch, bên trên chỉ được phủ bằng một lớp đất mỏng. Còn có thể nhìn
thấy một bộ mặt xanh sẫm như đúc bằng thiếc, với cặp môi đầy máu đọng. Một cái
chân thòi lên đen sì trong cái ống quần bông màu lam.
- Chúng nó tởm lợm không muốn dọn
dẹp chôn cất… Lũ khốn kiếp! Khristonhia lầu bầu, giọng âm thầm rồi bất thình
lình hắn quất một roi cho con ngựa chạy xuống dốc, đuổi theo Grigori.
- Thôi thế là ngay trên vùng đất
sông Đông đã được thấy đổ máu rồi - Tomilin mỉm cười, một bên má giật giật.
Chương 120
Một xạ thủ súng máy ở chỗ Buntruc
là dân Cô-dắc thôn Tatarsky, tên là Maxim Griatnov. Từ ngày bị mất con ngựa
trong trận chiến đấu với quân Kutepov, hắn bắt đầu rượu chè không còn chừng mực
gì nữa và lao đầu vào cờ bạc. Con ngựa của Maxim có bộ lông đỏ như lông bò,
sống lưng có một dải trắng như bạc. Hắn đang cưỡi thì con ngựa bị bắn chết. Hắn
bèn tháo lấy bộ yên, khiểng đi bốn vec-ta. Đến khi thấy mình khó lòng sống sót
trước trận tấn công hung dữ của quân Trắng, hắn đành giựt đứt cái đai ngựa rất
đẹp tháo lấy bộ dây hàm thiếc, rồi tự ý rút khỏi trận chiến đấu. Về tới Rostov mới lại thấy mặt
Maxim. Nhưng chẳng bao lâu hắn chơi bài tính điểm bị thua phải gán thanh gươm
bằng bạc tước được trên thây một tên đại uý bị hắn chém chết, nướng thêm mấy
thứ đồ thắng ngựa còn lại trong tay, rồi đến cái quần đi ngựa cùng đôi ủng bằng
da hoẵng hắn cũng cho đi nốt, và cuối cùng đầu không khăn đít không khố, hắn mò
tới đội súng máy của Buntruc. Buntruc lấy quần áo cho hắn mặc, lên lớp cho hắn
một trận và chưa biết chừng Maxim dần dần cũng có thể hối cải. Nhưng trong trận
chiến đấu vừa mở màn trên con đường tiến vào Rostov, hắn đã bị một viên đạn bắn thủng đầu.
Một con mắt màu xanh da trời của Maxim rơi tuột xuống áo sơ-mi, máu tuôn ra như
suối từ trong cái sọ mở hoác ra như một cái vỏ đồ hộp. Thế là trên đời nầy tựa
như chưa từng bao giờ có anh chàng Cô-dắc Giratnov người trấn Vosenskaia với
cái quá khứ ăn cắp ngựa và mới gần đây còn là một con sâu rượu đau khổ
Buntruc nhìn cái thân hình của
Maxim quằn quại trong cơn ngoắc ngoải rồi lau rất kỹ những chỗ máu trên nòng
súng máy phọt ra từ lỗ đạn trên đầu Maxim.
Vừa lúc đó phải rút lui ngay.
Buntruc kéo khẩu súng máy đi.
Maxim nằm lại đấy và lạnh dần
trên mảnh đất nóng rực, với cái lưng đen thui phơi ra dưới nắng và cái áo sơ-mi
kéo ngược lên đầu (lúc hấp hối, hắn đau quá, cứ kéo ngược cái áo lên).
Trung đội Xích vệ gồm toàn những
chàng bộ binh vừa ở mặt trận Thổ Nhĩ Kỳ về. Họ lui đến ngã tư đầu tiên thì
chiếm lĩnh trận địa.
Một anh chàng đội chiếc mũ lông
cháy gần hết, hở cả trán, giúp Buntruc bố trí khẩu súng máy, những người khác
dựng đại khái như một cái ụ chiến đấu chặn ngang cái ngõ.
- Thấy chúng nó kia rồi! - Một
anh chàng râu ria xồm xoàm mỉm cười nhìn đoạn đường gờ hình vòng cung rất gần
sau ngọn gò.
- Bây giờ thì chúng mình sẽ cho
bọn nó ăn một trận mưa đạn!
- Bẻ gãy đi thôi, Xamara? - Vài
người gọi một chiến sĩ còn trẻ, rất vạm vỡ, đang tháo một mảnh ván trên dãy
hàng rào.
- Chúng nó kia rồi! Đang xông tới
đấy! - Anh chàng đội mũ hở trán leo lên mái một kho rượu quan sát rồi kêu lên.
Anna nằm xuống bên cạnh Buntruc.
Anh em Xích vệ bố trí dầy đặc sau công sự tạm thời.
Giữa lúc ấy, có chừng chín mười
chiến sĩ Xích vệ chạy theo cái ngõ bên cạnh, tới bức tường ngôi nhà góc phố,
nom cứ như những con gà gô chạy theo bờ ruộng. Một người kịp hô:
- Chúng nó phi ngừa tới đấy! Bắn
đi!
Trong nháy mắt, chỗ ngã tư đã
vắng tanh, bốn bề lặng như tờ.
Một phút sau có một tên Cô-dắc
phi ngựa tới, kéo theo cả một đám bụi mù. Hắn đội mũ cát-két buộc
băng trắng, khẩu các-bin kẹp cạnh sườn. Hắn kéo ngoặt dây cương mạnh quá, làm
con ngựa khuỵu hai chân sau. Buntruc kịp bắn theo một phát Nagan.
Tên Cô-dắc ôm cổ ngựa, phi trở lại. Các chiến sĩ bộ binh có mặt bên cạnh khẩu
súng máy có vẻ do dự. Hai người chạy dọc theo dãy hàng rào rồi nằm xuống bên
cạnh một cái cổng.
Rõ ràng là mọi người đã dao động
và sắp sửa bỏ chạy đến nơi.
Không khí chết lặng và căng thẳng
đến cực độ, những cặp mắt hốt hoảng không thể hứa hẹn một tinh thần kiên định…
Sau nầy Buntruc chỉ còn nhớ một điều cụ thể nhất, rõ ràng nhất là hình ảnh Anna
nhảy chồm lên, khẩu súng trường cầm ngang tay, chiếc khăn trật ra sau đầu, làn
tóc bay tán loạn, khuôn mặt nhợt nhạt, xúc động đến lạ hẳn đi. Anna quay mặt
lại, chỉ tay về phía ngôi nhà có bọn Cô-dắc đang núp sau đó và hô lên bằng một
giọng ngắc ra, nghe cũng không nhận ra được ngữa: "Theo tôi!", hô
xong Anna xông lên, chân bước chập chững, chốc chốc lại vấp.
Buntruc chồm dậy, miệng anh méo
đi trong một tiếng hô không rõ tiếng gì. Anh chộp lấy khẩu súng trường của
người chiến sĩ bộ binh nằm bên cạnh, chạy bổ theo Anna. Anh thở hổn hển, cảm
thấy hai chân run một cách khủng khiếp, mặt xạm đi trong cố gắng ghê gớm và bất
lực để gào lên, gọi Anna quay trở lại. Phía sau nghe có tiếng thở hổn hển của
vài người chạy theo. Từng đường gân thớ thịt trên cơ thể anh đã cảm thấy trước
một cái gì khủng khiếp, không sao cứu vãn được, một kết cục rùng rợn đang ập
tới. Trong nháy mắt đó, anh đã hiểu rằng hành động của Anna là vô nghĩa lý, là
mất trí, và chỉ đưa tới chỗ chết chứ không thể nào lôi kéo được người khác.
Mới chạy đến góc phố thì có một
toán Cô-dắc phi ngựa xông thẳng tới. Chúng bắn một loạt đạn. Đạn kêu víu víu.
Anna kêu lên một tiếng thảm thương như một con thỏ, rồi ngồi phịch xuống đất,
hai tay vươn ra, mắt như người hoá rồ. Buntruc không nhìn thấy bọn Cô-dắc quay
ngựa bỏ chạy, không nhìn thấy các chiến sĩ bộ binh trong số mười tám người lúc
nãy bố trí bên cạnh khẩu súng máy bị lôi cuốn theo nhiệt tình của Anna đang
xông lên truy kích. Trước mặt anh chỉ thấy có Anna, một mình Anna, chỉ thấy
Anna đang giãy dụa dưới chân mình. Tuy không còn cảm thấy hai tay mình nữa,
Buntruc vẫn lật được Anna nằm nghiêng, và cố bế Anna lên để đưa đến một chỗ nào
đó. Anh nhìn thấy một dòng máu chảy đầm đìa ở dưới sườn trái và những miếng
rách của cái áo ngắn màu lam lủng lẳng lầy nhầy quanh vết thương, biết ngay
rằng đây là một vết thương do đạn đum đum [218],
biết rằng Anna sắp chết và cái chết đó anh đã nhìn thấy trong hai con mắt ngầu
đục của Anna.
[218] Một
thứ đạn cắm sâu vào mục tiẽu rồi mới nổ, khi nổ nghe có tiếng "đum
đum".
Có người đẩy Buntruc ra. Anna
được khiêng tới một ngôi nhà gần đấy, đặt vào một chỗ mát dưới cái hiên nhà
kho.
Người chiến sĩ bộ binh đội mũ hở
trán nhét những nắm bông vào vết thương, đến khi thấy những nắm bông ấy trương
lên, đen sịt những máu lại vứt đi. Buntruc đã trấn tĩnh lại được, anh cởi khuy
cổ cái áo trong của Anna, rồi xé một mảnh áo sơ-mi của mình, vo tròn lại ấn lên
vết thương. Anh thấy máu trong vết thương sủi lên, hơi thở phì ra qua lỗ hổng,
anh thấy mặt Anna trắng bệch ra, sạm lại, cặp môi thâm tím run rẩy lập bập
trong cơn đau đớn. Miệng Anna thở lấy thở để, nhưng phổi vẫn bị ngạt vì hơi thở
phì ra cả đằng miệng lẫn qua vết thương. Buntruc không còn ngượng gì nữa, anh
xé cái áo lót của Anna, lột trần cái thân hình đầm đìa mồ hôi trước khi lọt vào
tay Thần chết. Cuối cùng đại khái cũng dùng nút gạt bịt được miệng vết thương.
Vài phút sau Anna tỉnh lại. Cặp mắt sâu hoắm mở ra nhìn Buntruc giữa hai cái
quầng thâm đen vì máu chảy bên trong, rồi hai hàng mi lại run run nhắm lại.
- Nước! Nóng quá! - Anna gào lên
rồi vừa giãy giụa, vừa nức nở - Em muốn sống! Ilia-a-a! Anh yêu! A-a- a!
Buntruc gắn cặp môi sưng mọng của
anh lên hai cái má nóng chảy như lửa của Anna và đổ nước trong cái ca lên ngực
Anna. Nước chảy vào đầy hai chỗ hõm ở xương đòn gánh, nhưng lại ráo hoảnh ngay.
Ngọn lửa của cái chết đang thiêu đốt Anna. Buntruc đổ đến bao nhiêu nước, Anna
vẫn vùng vẫy, trườn ra khỏi tay anh.
- Nóng quá! Lửa đâu thế nầy?
Sau khi đã kiệt sức, người có
phần lạnh đi, Anna nói rành rọt.
- Anh Buntruc, tại sao thế nhỉ?
Chao ôi, anh thấy không, tất cả sao mà đơn giản! Anh quả là kỳ quặc… Đơn giản
một cách khủng khiếp Anh Ilia… Anh yêu của em, thể nào anh cũng nói với mẹ nhé…
Anh có biết… - Anna hé mở hai con mắt nheo nheo như muốn cười rồi cố nén cả cái
đau lẫn cái sợ, nói líu nhíu khó hiểu, tựa như vừa nói vừa bị nghẹn vì cái gì -
Đầu tiên chỉ có cảm giác… Bị va mạnh và bị cháy bỏng… Bây giờ thì khắp người em
nóng rực… Em cảm thấy em sắp chết rồi… - Anna thấy Buntruc xua tay một cách đau
khổ như muốn bảo không phải thế, bèn nhăn mặt. - Thôi đi anh! Chao ôi, tức thở
quá!
Những lúc bớt đau, Anna nói luôn
miệng, nói rất nhiều như cố thổ lộ cho hết những điều đè nặng trong lòng mình.
Buntruc rất đỗi kinh hoàng khi thấy mặt Anna sáng bừng lên, hai bên thái dương
trở nên trong bóng, vàng ệch. Anh đưa mắt nhìn xuống hai tay Anna lúc nầy đã
buông thõng hai bên sườn, không còn sức sống nữa, thấy những móng tay đã biến
thành màu hồng hồng xanh xanh như những quả mận chín dở.
- Nước… Lên ngực… Nóng quá!
Buntruc chạy bổ vào trong nhà lấy
nước. Lúc quay ra thì không còn nghe thấy tiếng Anna rên khò khè dưới mái nhà
kho nữa. Mặt trời đã xuống thấp chiếu lên cái miệng méo xệch trong cơn giãy
chết cuối cùng, lên bàn tay còn ấm áp chặn vào vết thương, nom cứ như cái mô
hình nặn bằng sáp ong chứ không phải tay thật. Buntruc từ từ ôm lấy vai Anna,
nâng Anna dậy, nhìn một phút cái mũi có phần nhọn thêm ra và những điểm tàn
hương nhỏ đã đen lại ở chỗ tinh mũi, cố vót vát chút ánh sáng còn ngưng đọng
trong đồng tử của cặp mắt he hé dưới hai hàng lông mày đen vươn rộng một cách
phóng khoáng. Đầu Anna lật ngửa ra bất lực, rũ xuống mỗi lúc một thấp trên cái
cổ thon nhỏ của một người con gái với mạch máu hằn lên xanh xanh đã đập nhịp
cuối cùng.
Buntruc áp đôi môi anh lên một
bên mi mắt tím quầng chưa nhắm nghiền hẳn, gọi thất thanh:
- Em ơi? Anna ơi! - Gọi xong anh
đứng dậy, quay ngoắt bỏ đi, người rướn thẳng một cách rất không tự nhiên, hai
tay áp chặt vào đùi không động đậy.