03. Áo

[ÁO]

Vienna và mối tình của cô gái xứ
Bavaria

TÔI ĐẶT CHÂN TỚI THỦ ĐÔ Vienna của nước Áo xinh
đẹp, quê hương của thần đồng âm nhạc Mozart vào những ngày tháng Ba khi trời
còn se lạnh. Anh bạn ở Sài Gòn nhắn tin sang dặn: “Thủ đô Vienna
tuyệt lắm, có dòng sông Danube, những quán cà
phê, những chiếc xe ngựa và điệu valse đầy quyến rũ. Nhớ ghé Nhà thờ Stephan em
nhé, đó thức sự là một tuyệt tác đấy!” Tôi mỉm cười và bắt đầu chuyến hành
trình thú vị của mình.

Đã từ lâu người ta biết đến Vienna không chỉ là thủ đô
âm nhạc của thế giới mà còn là thành phố của kiến trúc với những tòa lâu đài
tráng lệ và những công trình kiến trúc độc đáo bậc nhất châu Âu. Ấn tượng đầu
tiên của tôi khi tới Vienna
là những chiếc xe ngựa chạy thong dong trên đường phố, lẫn đâu đó là tiếng xe
điện và những chiếc xe hơi hiện đại. Vienna
khoác lên mình vẻ đẹp của một thành phố cổ nhưng cũng rất trẻ trung và hiện
đại.

Cung điện Schönbrunn

Tôi lang thang một mình trong cái
lạnh của thành phố với tấm bản đồ trên tay, địa điểm đầu tiên tôi đặt chân đến
là Cung điện Schönbrunn - một trong những cung điện được xây dựng theo kiến
trúc Baroque[1] lớn và tráng lệ nhất ở Trung Âu, nơi có một khu
vườn rộng lớn bao quanh và cũng là một trong những dinh thự quan trọng nhất ở
Áo. Schönbrunn dịch ra tiếng Việt có nghĩa là một giếng nước đẹp, tên gọi này
bắt nguồn từ một giếng phun nước để cung cấp cho triều đình. Cung điện này có
một hồ nước rất đẹp và ở phía bên trên hồ là đồi Gloriette cao chừng 60m. Đứng
ở đó, người ta có thể ngắm toàn bộ thành phố Vienna. Có lẽ không quá ngạc nhiên khi ngày
nay nơi này trở thành một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất của Áo và
cũng là nơi tổ chức các lễ hội quan trọng của người dân Vienna. Ban đầu, đây là nơi săn bắn cho các
gia đình quý tộc của Đế quốc Áo, sau đó một cung điện đã được dựng lên nhưng
phần lớn cung điện này chỉ là nơi nghỉ hè cho các bà quả phụ của Hoàng đế
Ferdinand II. Đến khi Hoàng đến Franz Joseph I lên ngôi, ông mới chọn nơi này
là nơi ở chính của mình, bởi thế nên khi dừng chân ở đây, người ta dễ dàng liên
tưởng tới câu chuyện tình giữa Hoàng đế Franz Joseph I và cô gái 16 tuổi xứ
Bavaria mang tên Elizabeth mà sau này nhiều người được biết đến qua bộ
phim Hoàng hậu Sissi do nữ tài tử điện ảnh quá cố Romy
Schneider thủ vai. Nàng Elizabeth xinh đẹp, quý phái này là một trong những
người phụ nữ đẹp nhất châu Âu thế kỷ XIX, có điều bà chưa bao giờ yêu Vienna. Lúc nào bà cũng
muốn thoát khỏi những ràng buộc của dòng họ Habsburg bởi bà cảm thấy cô độc khi
ở nơi đây. Là một người yêu tự do, thích du lịch và khám phá, bà luôn tìm mọi
cơ hội để thoát khỏi nơi “đè nén” cuộc đời bà, nhưng vì tình yêu dành cho Hoàng
đế Franz Joseph I nên bà đã ở lại Vienna.

[1] Kiến trúc Baroque: Là thuật
ngữ dùng để mô tả phong cách xây dựng của thời kì Baroque, Ý, bắt đầu vào cuối
thế kỷ XVII, tận dụng những ngôn ngữ của kiến trúc Phục Hưng theo một cách thức
mới, với sự vận động liên tục của những bức tường uốn lượn.

Lâu đài Hoàng Gia

Rời Cung điện, tôi tới Lâu đài
Hoàng gia (Hofburg)- biểu tượng của nền di sản văn hóa Vienna - được xây dựng từ
năm 1275. Toàn bộ các công trình của cung điện này nằm trên một diện tích khá
rộng với những vườn hoa, đài phun nước và những tòa nhà dành cho Hoàng gia.
Trước đây, Lâu đài Hofburg là Cung điện Mùa đông của hoàng tộc Áo nhưng hiện
nay, nơi đây một phần đã trở thành Thư viện Quốc gia, một phần thành Bảo tàng
dân tộc và một phần nữa thành phủ Tổng thống. Phía trước lâu đài có rất nhiều
xe ngựa làm tôi liên tưởng đến cuộc sống ngày xưa ở Áo. Trong cung điện Hofburg
là viện bảo tàng của Hoàng hậu Sissi và phòng ở của Hoàng đế. Vốn rất mê bà
hoàng hậu của nước Áo nên khi tới đây tôi đã dành cả buổi chiều để ngắm nhìn
mọi bức hình, đồ vật và tất cả những gì liên quan đến cuộc sống của bà thời xa
xưa. Tôi cứ ngỡ như mình đang lạc vào chính nơi bà từng sống…

Giữa trưa, ánh mặt trời len lỏi vào
trong thành phố. Tôi hòa vào dòng người đi trên phố và bách bộ ra
Heldenplatz (còn gọi là Quảng trường Anh hùng) - biểu tượng
của sự thống nhất và độc lập của Áo. Đây là một quảng trường khá lớn, thu hút
được rất nhiều khách du lịch. Quả là một nơi lý tưởng để chiêm ngưỡng những vẻ
đẹp tiềm ẩn của Vienna.
Ngày trước, khi học lịch sử của Đức và Áo, tôi đã được nghe thầy giáo kể về
Hoàng tử Eugène của xứ Savoie, người đã đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ để mang lại
vinh quang cho nước Áo. Thế nên, khi đến Vienna,
tôi đã muốn tới bằng được quảng trường này. Ngoài bức tượng của hoảng tử
Eugène, trên quảng trường còn có bức tượng người anh hùng Archduke Karl đang
cưỡi ngựa khoe chiến thắng của mình trong trận Aspern - Essling năm 1809.

Từ đây, người ta có thể đi xe buýt
về hướng ga phía Đông để tới Cung điện Belvedere. Nếu như người ta đến Vienna và yêu thích
Schönbrunn thì tôi lại thích Belvedere hơn. Tôi không lý giải được vì sao
nhưng tôi thích cái cảm giác lang thang từ “cung điện trên” xuống “cung điện
dưới”, thích ngồi bên chiếc ghế đá ngắm những chiếc vòi phun nước và những
luống hoa đủ sắc màu. Thích đứng ở “cung điện trên” nhìn xuống “cung điện dưới”
và có cảm giác như mình đang được ngắm một bức tranh thiên nhiên thơ mộng.
Những bức tượng, vườn hoa được chăm tỉa rất kĩ lưỡng. Lác đác xung quanh là
những bạn trẻ ngồi đọc sách, nghe nhạc và tận hưởng “vùng trời bình yên” của
riêng họ.

Nói đến Vienna thì không thể không tới nhà
Hundertwasserhaus do nghệ sỹ người Áo Friedenreich Hundertwasser thiết kế. Bởi đây
không đơn thuần là một khu căn hộ mà là một tác phẩm nghệ thuật sinh động góp
phần tôn vinh thêm vẻ đẹp cho thành phố vốn đã nổi tiếng về văn hóa, nghệ thuật
và kiến trúc như Vienna.
Cũng như người ta không thể bỏ qua Stephandom với cái chóp cao chót vót và được
người dân Áo gọi với cái tên trìu mến là “Steffl”. Với độ cao 137m, Stephandom
cũng là thánh đường cao nhất ở châu Âu đồng thời cũng là biểu tượng của thủ đô Vienna. Tôi thích những
buổi chiều khi nắng vừa tắt và những ánh đèn điện bắt đầu được bật lên, xung
quanh là tiếng nhạc của người nghệ sĩ đường phố, là hò reo của những người đang
đứng xem ảo thuật, là tiếng xuýt xoa của các em nhỏ khi nhìn những bức hình của
những người họa sỹ vẽ “y như thật”, là những tiếng cười của những đôi tình nhân
nắm chặt tay nhau. Dường như khi màn đêm bắt đầu buông xuống, xung quanh
Stephandom là nơi lý tưởng để gặp gỡ, hẹn hò. Tự nhiên tôi ước giá như mình
cũng có một người để… hẹn hò ở đấy, để học lại cách nắm tay một người, điều mà
đã từ lâu rồi tôi không còn làm nữa.

Dọc theo con đường Ringstraße - nơi
tập trung những địa danh nổi tiếng của thành phố như Tòa nhà Quốc hội, Lâu đài
Hofburg, Bảo tàng Mỹ thuật, tôi lang thang trên những con đường, có rất nhiều
nhạc sĩ đường phố với những bản nhạc không tên hoặc cũng có thể là những bản
nhạc bất hủ của Mozart, của Strauss được vang lên. Đã từ lâu, Vienna được mệnh
danh là chiếc nôi âm nhạc cổ điển của châu Âu, có lẽ vì thế nên tới đây, tôi
cũng không quá ngạc nhiên khi thấy ngay cả trên những con hẻm nhỏ bé nhất ở Vienna,
những điệu nhạc vẫn được vang lên. Ở nơi đây, người ta dễ dàng thấy những quán
cà phê xinh đẹp, thu hút rất nhiều khách du lịch. Dường như đối với người dân Vienna, những quán cà phê
ấy là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Bước vào các quán cà
phê, du khách như lạc vào một thế giới khác. Hình thức các quán cà phê cũng rất
bắt mắt, những bức tường thường được chạm trổ rất kì công và trên trần nhà còn
treo những chùm đèn pha lê lơ lửng.

Tới Vienna, người ta không thể
không ghé thăm Nhà hát Vienna Opera House - một trong những nhà hát lớn và đẹp
nhất thế giới được xây dựng từ năm 1861 tới năm 1869. Nhà hát này được mệnh
danh là Trung tâm ca kịch của thế giới bởi công trình kiến trúc hùng vĩ mang
phong cách La Mã này gồm sáu tầng với 1.600 chỗ ngồi, riêng tầng sáu có sức
chứa hơn 500 khán giả. Mỗi năm, nhà hát có khoảng 300 buổi biểu diễn.

Trước khi đến Vienna,
tôi tự nhủ là phải đến bằng được Naschmarkt - khu chợ lớn nhất của Vienna. Tôi đi từ đầu chợ
tới cuối chợ và đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Ở đây cái gì cũng có,
nhất là các món ăn, đặc biệt là pho mát và ô liu. Mùi thơm của các loại trái
cây như mít, sầu riêng và cả mùi phở làm tôi nhớ đến những ngày còn ở Việt Nam. Khi đi hết
con đường, tôi vòng lại và dừng chân ở một quán ăn Việt Nam, mùi bún bò Huế
thơm lừng khiến tôi thấy mình đang sống những khoảnh khắc thật đặc biệt ở một
nơi không phải quê hương mình.

Có lẽ đến với Vienna
cũng là một cách để yêu và hiểu thêm về dòng sông Danube.
Dòng sông dài thứ hai của châu Âu này khi tôi đặt chân tới này vẫn xanh và hiền
hòa như tôi từng tưởng tượng. Mùa hè ở đây luôn tấp nập khách du lịch, những
quán cà phê và nhà hàng mọc lên ở khắp nơi. Trên dòng sông, có rất nhiều đôi
tình nhân rủ nhau đi chèo thuyền. Biết bao nhiêu người từng ao ước được ngắm
dòng sông ấy một lần, còn tôi đứng giữa nơi này, chợt nhớ về câu chuyện tình
đẹp và buồn của Sissi - người mà sau này từng nói rằng trở thành Hoàng hậu của
nước Áo là điều bà vô cùng hối tiếc.

Tôi tới Vienna
vào một buổi tối mùa đông se lạnh và rời Vienna
vài ngày sau đó vào một sáng sớm tinh mơ buốt giá. Anh đưa tôi ra ga mà tôi
thấy lòng mình trĩu nặng. Dù chưa một lần vào một quán cà phê để ngồi nghe
những bản nhạc cổ điển, dù chưa ngồi lên xe ngựa để dạo quanh thành phố như
người ta vẫn thường làm khi tới Vienna,
nhưng kỉ niệm về thành phố này có lẽ sẽ còn đi theo tôi trên suốt những chặng
đường phía trước.

Salzburg - Giai điệu tình yêu

TỪ MUNICH, TÔI ĐẾN Salzburg vào những ngày đầu tháng Ba cùng một
chị bạn khi những bông tuyết còn sót lại trên pháo đài Hohensalzburg hòa cùng
tiếng nhạc của Mozart vang lên trên những góc đường và những con phố nhỏ dẫn
vào lòng thành phố.

Trước đây, khi nghe đến Salzburg, tôi chỉ biết đó là quê hương của nhà soạn nhạc
nổi tiếng, đồng thời cũng là đứa con cưng của Salzburg: Wolfgang Amadeus Mozart. Nhưng khi
tới Salzburg
rồi, tôi mới biết, nơi này không chỉ có âm nhạc mà còn có cả sự thơ mộng, trữ
tình và một vẻ đẹp cổ kính mà người ta khó có thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào
khác trên thế giới.

Chúng tôi lái xe vào trung tâm
thành phố, tìm chỗ đậu xe, rồi dừng chân tại ngôi nhà của Mozart - bây giờ đã
trở thành viện bảo tàng. Chị Bình mua hai chiếc vé và chúng tôi bước vào một
căn nhà chứa đầy những kỉ vật thời xa xưa của người nghệ sĩ tài hoa này: những
bản nhạc viết tay, những bức hình theo dấu thời gian vẫn chưa ngả màu. Tôi có
cảm giác như mình đang lạc vào căn phòng của Mozart thuở xưa với những tiếng
nhạc đang vang lên đâu đó xung quanh mình.

Rời viện bảo tàng, chúng tôi đi qua
cây cầu bắc ngang dòng sông Salzach và bước vào khu phố cổ. Dù thời tiết còn se
lạnh nhưng người ta vẫn cảm nhận được sự ấm áp của thành phố nhỏ bé này. Bên
trong những quán cà phê, tôi đang tưởng tượng ra khung cảnh những cặp tình nhân
đang ngồi nhâm nhi ly cà phê và nghe nhạc Mozart, tận hưởng sự bình yên của
cuộc sống.

Từ năm 1997, khu phố cổ ở Salzburg
đã được công nhận là Di sản văn hóa thế giới, bởi thế nên khi đi qua những con
phố nhỏ như Getreidegasse, Judengasse, Goldgasse, người ta có thể chiêm ngưỡng
nhiều công trình kiến trúc cổ, đan xen nhiều nét hiện đại. Tôi thích nhất là
được ngắm nhìn những đồ lưu niệm bé nhỏ xinh xắn có in hình Mozart và cách bày
biện của người dân Salzburg để “níu chân” khách du lịch khi đặt chân tới đây,
khiến họ không thể “về không”.

Hầu hết những địa điểm tham quan
trong thành phố này đều nằm rất sát nhau nên mọi con đường đều dẫn đến những
nơi chúng tôi muốn tới thăm. Chị Bình và tôi dừng lại trước một tiệm Imbiss[1] nhỏ
và mua xúc xích ăn tạm, tôi chọn xúc xích trắng, chị chọn xúc xích màu và hai
chị em đứng ăn ngon lành giữa mùi xúc xích nóng và cái lạnh căm căm ở ngoài
trời, dù đeo găng tay nhưng tôi vẫn thấy cái lạnh đang tìm cách len lỏi vào
từng thớ thịt trong người mình. Chúng tôi dừng chân ở Nhà thờ Dom uy nghi và
lộng lẫy. Khi bước vào, chị Bình xuýt xoa: “Nếu được cưới lại một lần nữa, chị
sẽ làm lễ cưới tại nhà thờ này!” Tôi bật cười và mường tượng ra cảnh chị xúng
xính trong chiếc váy cô dâu bước vào nhà thờ. Đúng lúc đó, tôi nhận được tin
nhắn từ một người đặc biệt: “Em đang ở đâu đấy?” Tôi cầm điện thoại và nhắn
lại: “Em đang ở trong Nhà thờ Salzburger Dom ở Salzburg, anh có muốn em nguyện cầu điều gì
không?” Tin nhắn trả lời chỉ vẻn vẹn dòng chữ: “Hãy cầu nguyện cho chúng ta, em
nhé?”

[1] Quán ăn nhanh không có chỗ
ngồi và không có nhà vệ sinh.

Tôi quan sát nhà thờ - nơi ngày xưa
từng làm lễ rửa tội cho cậu bé Mozart. Nhà thờ này được khánh thành vào ngày 24
tháng 9 năm 774 và cũng là nhà thờ lớn nhất ở Salzburg. Kể từ ngày ra đời, nhà
thờ này đã bị cháy vài lần và sau đó liên tục được tu sửa và nâng cấp, nếu để ý
kĩ ở phía bên ngoài, bạn sẽ nhìn thấy những con số: 774, 1628 và 1959 - đây là
ba thời điểm đánh dấu sự hoạt động trở lại của nhà thờ sau mỗi lần bị hủy hoại.

Đứng trước Nhà thờ Salzburger Dom,
tôi đã nhìn thấy Pháo đài Hohensalzburg ở trên cao, lúc đầu tôi bảo chị Bình:
“Mình trèo thang bộ lên đó nhé, trèo cho lãng mạn, ngắm được nhiều cảnh hơn”
nhưng cuối cùng, chúng tôi cũng phải đầu hàng vì chẳng thấy ai lãng mạn như
mình cả, có lẽ bởi nó dốc và phải trèo quá nhiều bậc thang mới lên được đến
đỉnh nên cả hai chị em ngậm ngùi mua vé để “đi thang máy”. Ở phía trên nhìn
xuống, chị Bình xuýt xoa: “May mà chị không nghe lời em đi bộ lên đây, chứ nếu
không chắc chị phải mất ba ngày mới lên được đến đây mất!” Pháo đài Honhensalzburg
nằm trên đỉnh núi sát bờ sông và cũng là biểu tượng của thành phố Salzburg. Pháo đài này
được hình thành vào năm 1077 và sau đó liên tục được mở rộng thêm. Ngày nay,
pháo đài là Viện Bảo tàng Nghệ thuật Quân sự của Áo. Với hơn 900 năm tuổi, pháo
đài này được xem là pháo đài cổ và nguyên vẹn nhất Trung Âu. Nghe nói nguyên
nhân của việc xây pháo đài này bắt nguồn từ một cuộc xung đột giữa nhà thờ với
triều đình và pháo đài này được xây dựng để chống lại sự tấn công của lính
triều đình. Đi dạo ở phía bên trong pháo đài, người ta có thể chiêm ngưỡng các
căn phòng từ thuở xa xưa và đời sống thời Trung cổ với những hiện vật còn được
trưng bày và lưu trữ trong các ngăn tủ kính. Không biết pháo đài có tất cả bao
nhiêu căn phòng nhưng tôi thầm nghĩ nếu được chơi trốn tìm ở đây thì có lẽ thật
khó mà tìm ra nhau. Từ trên pháo đài, người ta có thể nhìn thấy những khu phố
cổ, thấy dòng sông Salzach thơ mộng và ở phía xa là những dãy núi trùng trùng
điệp điệp phủ đầy tuyết trắng. Tôi đoán rằng chắc chắn ở trên núi cao kia sẽ là
một trong những khu trượt tuyết nổi tiếng nhất của nước Áo. Đã từ lâu, không
chỉ khách du lịch từ nước Đức láng giềng mới khăn gói sang Áo trượt tuyết mà
người dân ở các nước Trung Âu khác cũng đua nhau tới nơi này trong mùa đông khi
tuyết bắt đầu rơi.

Có lẽ Salzburg nổi tiếng không chỉ bởi Pháo đài
Hohensalzburg và ngôi nhà của Mozart mà còn bởi vô số những lâu đài khác. Trước
khi quay trở lại bãi đỗ xe, chúng tôi đi dạo một vòng quanh Lâu đài Mirabell.
Lâu đài này được tổng giám mục Wolf Dietrich von Raitenau cho xây dựng vào năm
1606 cho người tình của ông là Salome AIt. Bà đã sinh cho ông 15 người con và
là mối tình lớn nhất của ông. Ông đã xây dựng lâu đài này cho bà và các con của
mình. Những khu vườn rất rộng với những vòi phun nước thật đẹp, tôi thầm tiếc
vì đã tới thăm lâu đài này khi trời vẫn còn quá lạnh và hoa chưa kịp nở dù giờ
đã là gần nửa tháng Ba. Có lẽ nếu đến đây vào mùa xuân, khi hoa nở rộ khắp khu
vườn, người ta sẽ dễ dàng cảm nhận được sự bình yên và thư thái khi đi bộ xung
quanh đó. Ngày nay, lâu đài đã trở thành trụ sở làm việc của thành phố và tòa
thị chính.

Trước khi rời Salzburg
để trở về Munich,
tôi và chị Bình bằng mọi giá phải ghé thăm lâu đài Hellbrunn. Tôi đã nhìn thấy
bảng hướng dẫn chỉ đường trên phố nên cứ nghĩ là nó cũng nằm đâu đó xung quanh
đây nhưng đi mãi mà vẫn không thấy, trong khi trên biển bảo ngoài đường đã chỉ
hướng về Munich.
Chúng tôi dừng lại hỏi một người đi đường và cô gái người Áo ấy đã chỉ sang
phía bên kia đường, thì ra từ trung tâm thành phố lái xe tới đây cũng phải mất
hơn 30 phút. Lâu đài này đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới
với rất nhiều hang động và nhiều hình thức trình diễn bằng sức nước. Ngoài ra,
còn có cả sở thú trong khuôn viên lâu đài này, nhưng khi chúng tôi tới thì phần
lớn những loài thú vẫn còn ngủ đông, nên chỉ có một số ít con vật người ta vẫn
để ở bên ngoài cho du khách tới chiêm ngưỡng.

Rời Salzburg, nơi được mệnh danh là
thiên đường nhỏ bé của nước Áo, tôi cứ nghĩ mãi về khung cảnh bình yên của nơi
này. Khác với vẻ đẹp lộng lẫy của Vienna, Salzburg khoác lên mình
chiếc áo thơ mộng, thanh bình hơn. Thành phố nhỏ bé này đã làm say đắm không
biết bao nhiêu người từng tới đây và bây giờ thì tôi cũng đã biết: Salzburg không chỉ có
Mozart mà còn nhiều, nhiều hơn thế nữa!

Báo cáo nội dung xấu