Thiên táng - Chương 02 phần 1

Tôi không thể để
anh ấy ở Tây Tạng, trơ trọi một mình

Giấy báo tử

Chứng nhận Đồng chí Vương Khả Quân đã chết trong một sự
cố ở Đông Tây Tạng vào ngày 24 tháng 3 năm 1958, ở tuổi 29.

Văn phòng Quân đội Tô Châu, tỉnh Giang Tô, ngày 2 tháng Sáu
năm 1958

Văn đứng sững tại bậc cửa trước Sở chỉ huy quân đội, cơn gió
vùng châu thổ sông Dương Tử mang theo mưa hạ làm ướt đẫm tóc và mặt cô.

Khả Quân chết rồi ư? Người chồng mới cưới chưa đầy một trăm
ngày của cô chết rồi ư? Mật ngọt của những ngày đầu sau hôn lễ đó vẫn còn phảng
phất trong trái tim cô. Cô vẫn còn cảm nhận được hơi ấm của chúng. Cưới nhau
gần được một trăm ngày, nhưng họ chỉ có ba tuần bên nhau. Anh ấy không thể chết
được.

Khi lên đường đi Tây Tạng, anh ấy rất khoẻ mạnh, hay nói,
tràn đầy nhựa sống. Bác sĩ quân y thường không phải trực tiếp tham chiến. Vậy
“sự cố” ở đây nghĩa là gì? Anh ấy chết như thế nào? Tại sao không ai có thể
cung cấp cho cô điều gì? Thậm chí họ không ghi thêm vài lời để chứng thực rằng
anh ấy hy sinh vì cách mạng như họ vẫn thường làm đối với những người lính chết
trận. Tại sao?

Trong vô vàn những “Báo cáo Chiến thắng từ Quân giải phóng
Nhân dân ở Tây Tạng” tuôn về như thác lũ, chẳng thấy đề cập đến một sự cố nào
mà trong đó Khả Quân có thể chết. Những cán bộ ở văn phòng quân đội chịu trách
nhiệm an ủi vợ con những người lính đã chết nói riêng với Văn rằng họ không
nhận được bất kỳ bản tin chiến trường thông thường nào từ Tây Tạng.

Văn đứng trên đường phố Tô Châu, không chú ý gì đến mưa.
Nhịp sống sôi động của thành phố tiếp diễn xung quanh cô, nhưng cô chẳng nhận
thấy gì. Một giờ trôi qua, rồi một giờ nữa. Cô đắm chìm trong đau đớn và hoang
mang.

Tiếng chuông Hàn Sơn Tự ngân nga lôi cô từ nỗi buồn đau trở
lại. Quay về bệnh viện nơi cô làm việc, lần đầu tiên thực sự cô đơn, một ý nghĩ
vụt qua tâm trí cô. Điều gì đã xảy ra nếu Khả Quân chỉ rời khỏi đơn vị, giống
như tất cả những người lính bị báo tử nhầm trong khi thực ra họ đang trên đường
về nhà? Có thể anh ấy đang gặp nguy hiểm, hay ngã bệnh. Cô không thể để anh ấy
một thân một mình ở Tây Tạng được.

Ý nghĩ sẽ đi tìm Khả Quân loé lên trong cơn mưa buốt giá đó
đã trở nên mãnh liệt đến độ, bất chấp mọi nỗ lực can ngăn cố gắng của gia đình,
bạn bè, đồng nghiệp, Văn nhất quyết gia nhập vào trung đoàn của chồng cô để tới
Tây Tạng. Cứ tìm thấy cơ quan chính quyền nào là cô lại lao tới, mắt đẫm lệ
trình ra giấy đăng kí kết hôn, bức thư chia tay của Khả Quân, thậm chí cả vài
món đồ cá nhân của anh- khăn tắm, khăn mùi xoa, cốc uống trà – cho những người
cô gặp xem. “Chắc chắn chồng tôi còn sống,” cô khăng khăng nói. “Anh ấy không
bỏ lại người vợ mới cưới và là mẹ tương lai của con anh ấy đâu.”

Ban đầu những cán bộ quân đội nghe cô nói chuyện đều cố gắng
khuyên can cô không gia nhập quân đội, nhưng khi nghe nói cô là bác sĩ, họ
không phản đối nữa. Quân đội thiếu bác sĩ trầm trọng và có rất nhiều lính ở Tây
Tạng đang mắc bệnh do độ cao. Trình độ nghiệp vụ bác sĩ da liễu của cô thậm chí
sẽ khiến cô hữu ích hơn nữa: có rất nhiều ca da cháy nắng vì độ cao. Người ta
quyết định Văn sẽ đến thẳng Tây Tạng. Nhu cầu khẩn cấp về bác sĩ cùng nỗi bức
thiết tìm chồng càng sớm càng tốt của chính cô khiến cho khoá huấn luyện dài
ngày mà chồng cô đã phải trải qua trở nên hoàn toàn không cần thiết đối với cô.

Rồi cái ngày Văn rời Tô Châu đã đến. Chị gái cùng cha mẹ già
tiễn cô một quãng xa tới tận bến xe khách bên sông. Không ai nói một lời. Không
ai biết nói gì. Chị gái ấn vào tay Văn một chiếc túi đeo vai làm bằng lụa Tô
Châu nhưng không nói có cái gì trong đó; cha cô lặng lẽ đặt một cuốn sách vào
trong chiếc balô quân phục mới được phát của cô; mẹ cô giắt chiếc mùi xoa đẫm
nước mắt vào nắp kháo đính trên chiếc áo choàng của Văn. Mắt đẫm lệ, Văn trao
giấy đăng ký kết hôn của cô cho mẹ. Người ta chỉ có thể giao phó những thứ vô
cùng quan trọng cho chính mẹ mình. Cô trao cốc uống trà cùng khăn tắm của Khả
Quân cho cha vì biết ông yêu quý chàng rể biết chừng nào. Sau đó cô đưa cho chị
gái – chị biết tất cả bí mật của Văn – một gói đồ chứa thư từ và tài liệu của
Khả Quân, cùng với những lá thư tình yêu của hai người.

Mây tối đen mù mịt quyện với khói bếp từ những ngôi nhà mái
xám tường trắng trong vùng bao trùm lên gia đình Văn khi họ nhìn cô leo lên xe
khách. Qua khung cửa sổ rung lên bần bật, Văn thấy bóng dáng gia đình cô cứ nhỏ
dần, cuối cùng biến khỏi tầm nhìn. Cô nhìn Tô Châu lần cuối: những ngôi nhà
cùng những chiếc cầu nhỏ bắc qua dòng nước chảy; những đền chùa trên sườn đồi
nhìn xuống mặt hồ; bãi rau xanh tốt của vùng châu thổ sông Dương Tử. khắp nơi
là những lá cờ đỏ phất phơ trong gió nhẹ.

Khi Văn mở chiếc túi lụa đeo vao mà chị gái đưa cho, cô thấy
có năm quả trứng luộc bằng nước trà vẫn còn ấm, hai miếng bánh vừng, một túi
hạt bí ngô, một túi củ cải xắt lát chiên chua ngọt, một lọ trà và một bức thư
nhỏ, chữ nhoè nhoẹt vì nước mắt:

Em gái bé bỏngyêu quý của chị,

Trái tim chị trĩu nặng không lời nào tả xiết.

Cha mẹ chúng ta không còn trẻ nên không thể chịu đựng
thêm nhiều nỗi đau trong cuộc sống nữa, vì vậy em hãy sớm quay về. Dù em mất
Khả Quân thì em vẫn còn cha mẹ và chị, mọi người không thể sống thiếu em.

Chúc em bình an vô sự, nhớ bảo trọng!

Chị đang đợi em.

Chị gái của em

Cuốn sách mà cha nhét vào túi cô hoá ra là Tuyển tập
tiểu luận của Lương Thực Thu
. Những bài tiểu luận này cha cô rất ưa thích,
chúng có khả năng biến những chuyện xảy ra trong cuộc sống thường ngày thành
những hạt ngọc hiền minh. Ông viết một đoạn trên trang tiêu đề:

Văn bé bỏng của cha,

Giống như cuốn sách phải đọc từng chữ một, con đường cũng
phải chinh phục từng bước một.

Ngay khi đọc xong cuốn sách này, con và Khả Quân sẽ lên
đường về nhà.

Cha mẹ đợi các con quay về.

Văn gấp thư của chị gái lại thành một con sếu giấy, kẹp nó
cùng với bức ảnh nhỏ của Khả Quân vào trong cuốn sách để đánh dấu, rồi dùng
khăn mùi xoa của mẹ bọc ra ngoài. Cô nghe nói trong những cuộc hành quân không
ai được phép mang theo tài sản riêng, mà mấy món đồ quý giá này lại là tất cả
những gì cô có để giữ cho kỷ niệm của mình còn sống động.

Xe khách rời bến đi lên phía Bắc, dọc theo Đại Vận Hà nối
Hàng Châu với Bắc Kinh, nhồi lắc hành khách liên tục, khiến cho sự hào hứng
trước viễn cảnh của một chuyến đi, một sự kiện hiếm hoi trong đời họ, sớm bị
thay thế bằng cảm giác mệt mỏi. Mắt dõi đăm đăm xuống mặt kênh phẳng lặng, đột
nhiên Văn nhớ lại điều cha từng nói với cô: con kênh 2400 năm tuổi này nối
thông sông Dương Tử, Hoàng Hà và nhiều con sông khác của Trung Quốc, và tất cả
các con sông chính của Trung Quốc đều chảy từ Tây sang Đông và đều bắt nguồn từ
Tây Tạng. Nếu con kênh sâu, lạnh giá này chính là sự kết nối đầu tiên của cô
với Khả Quân, nước của nó bắt nguồn từ vùng sông băng và những đỉnh núi phủ
tuyết đã nuốt gọn chồng cô. Cô nhớ lại niềm hạnh phúc dạt dào trong những ngày
mới cưới. Mỗi sáng sớm, cô nhẹ nhàng đánh thức chồng khỏi giấc mơ bằng một tách
trà xanh đặt cạnh gối. Hàng đêm, cô thư thái chìm vào giấc ngủ trong sự vuốt ve
âu yếm của chồng. Xa nhau một chút cũng là khổ sở đối với họ. Khi đi làm, Văn
luôn để bức thư của Khả Quân viết cho cô trong ngày hôm đó vào túi áo choàng
bệnh viện:

“Hôm nay trời mưa. Nhớ mang theo ô và tình yêu của anh.
Như thế anh sẽ không cần lo lắng, dù em ở đâu mưa cũng không làm ướt người em…”

“Hôm qua em ho hai lần, nên hôm nay em phải uống hai cốc
nước, tối về anh sẽ pha nước thuốc làm sạch phổi cho em. Sức khoẻ của em là
trái tim của tổ ấm chúng ta…”

“Văn, đừng lo lắng, tổ ấm mà tối hôm qua chúng ta nói đến
sẽ trở thành hiện thực đối với em anh sẽ là người chồng tốt, với cha mẹ em anh
sẽ là đứa con hiếu thảo…”

“Này cô gái bé bỏng, nhớ ăn nhiều hơn một chút, em đang
gầy đó! Anh không thể chịu nổi khi nhìn em biến mất!”

Nước mắt chảy ròng ròng trên mặt Văn. Người phụ nữ trung
niên ngồi bên cạnh lấy chiếc khăn mùi xoa từ ngực áo choàng của bà đặt vào tay
cô.

Cứ dừng nghĩ rồi lại lên đường trong suốt sáu ngày năm đêm,
chiếc xe khách đi hết chặng đường theo hướng Tây Bắc, qua một dòng không ngớt
xe cộ, súc vật, người đi đường, trước khi cuối cùng tới được Trịnh Châu, thành
phố ven Hoàng Hà và là đầu mối xe lửa lớn nhất Trung Quốc. Văn được chỉ dẫn vào
trình diện tại căn cứ quân sự ở đó, sau đấy tiếp tục hành trình bằng chuyến tàu
hoả đi Thành Đô, cuối cùng vào Tây Tạng bằng đường chính Tứ Xuyên – Tây Tạng.
Cô nghe nói đơn vị của Khả Quân cũng vào cao nguyên Tây Tạng theo tuyến đường
phức tạp này.

Tới bến xe khách, có một người lính ở căn cứ quân sự gần đó
đứng chờ Văn. Cô được chào đón nồng nhiệt rồi đưa về phòng. Mọi sắp xếp dường
như rất chu đáo: cho dù giường trong phòng ngủ tập thể chỉ là những mảnh gỗ
được xếp thăng bằng trên ghế đẩu dành cho sáu người ngủ, nhưng chăn và gối
trông sạch sẽ. So với đường phố bẩn thỉu ngoài cửa sổ, gió lốc cuốn bụi mù mịt
và rác chất thành đống thì trong này quả thật thiên đường. Người lính được cử
đi đón Văn nói với cô rằng họ rất hiếm khi nhìn thấy nữ quân nhân – hầu hết phụ
nữ mà họ sắp xếp ở tại căn cứ đều là thân nhân đến tìm con em. Lời giải thích
của anh ta nhắc Văn rằng bây giờ cô là thành viên của Quân Giải phóng Nhân dân
chứ không phải dân thường nữa.

Nép sau tấm phên bằng rơm đệm, Văn tắm nước lạnh cho tỉnh
người lại. Rồi cô thay bộ đồng phục dành sẵn cho mình. Khi sửa lại tóc, nhờ mẩu
gương vỡ bé tí giắt trong tấm phên, Văn suy nghĩ về chuyện có vẻ như quân đội
tổ chức rất tốt. Nếu quân đội có thể đánh bại thủ lĩnh phe Quốc dân đảng, Tưởng
Giới Thạch, thì tại sao không thể cung cấp cho cô bất cứ tin tức nào về Khả
Quân?

Mẩu gương quá nhỏ nên cô không biết mình trông thế nào trong
bộ đồng phục mới. Cô tự hỏi liệu Khả Quân có nhận ra mình không. Sau đó, những
mệt mỏi tích tụ lại qua sáu ngày nhồi lắc trên suốt chặng đường dài xâm chiếm
cô, mặc dù chỉ mới năm giờ chiều, cô quăng mình lên giường và chìm vào giấc ngủ
mê mệt.

Tiếng kèn đánh thức duy nhất của quân đội mà Văn nghe trong
suốt cuộc đời kéo cô ra khỏi giấc ngủ sâu không mộng mị. Bên cạnh cô, năm người
phụ nữ vẫn đang ngủ nằm ngổn ngang ra trên giường. Họ không mặc đồng phục. Văn
nghĩ có thể họ là cán bộ hành chính, hoặc là những người đến tìm người thân.
Khi cô ngồi dậy lập tức có người lăn vào chỗ cô vừa nằm. Ngoài cô ra tiếng kèn
chẳng làm gián đoạn giấc ngủ của ai khác, cho dù nó kêu rất dài. Họ chắc còn
mệt lử hơn cả cô. Dù có dội bom xuống họ cũng không tỉnh giấc, cô nghĩ.

Cảm thấy lại sức khá nhiều, Văn từ trên giường ván nằm chung
bước xuống. Cô nhận ra bộ đồng phục mới mặc đã nhàu nát thành hàng nghìn nếp
gấp rúm ró. Nếu Khả Quân có thể nhìn thấy cô lúc này, anh sẽ búng nhẹ lên mũi
cô – hình phạt anh đưa ra mỗi khi anh hỏi mà Văn không trả lời được. Cô yêu
“hình phạt” này biết bao. Mỗi lần chạm vào tay Khả Quân là thân thể cô lại nóng
bừng lên. Cô thường cố ý không trả lời anh.

“Cô ngủ ngon chứ?” một người đàn ông đứng bên cửa mỉm cười
chào hỏi, cắt ngang luồng suy nghĩ của cô. Ngay lập tức Văn có thể cảm thấy từ
dáng điệu và lối trò chuyện bộc trực, rắn rỏi của anh toát lên phong thái của
một cán bộ.

“Tôi – tôi ngủ rất ngon. Cám ơn đồng chí,” cô lo lắng trả
lời.

Người đàn ông tự giới thiệu mình là Vương Lượng rồi mời cô
tới ăn sáng.

“Tôi có thể nghe thấy dạ dày cô đang réo ùng ục,” anh nhận
xét. “Cậu lính đưa cô tới đây nói cô không ra khỏi phòng sau khi tắm. Sau đó
một đồng chí nữ báo lại rằng cô ngủ nhanh quá nên chúng tôi không đánh thức cô
dậy dùng bữa tối. Trong thời chiến, một giấc ngủ đêm ngon lành là vô cùng quý
giá nên chúng tôi không thể quấy rầy.”

Ngay lập tức Văn có thiện cảm với Vương Lượng.

Lần đầu tiên cô ăn bữa sáng kiểu phương Bắc: một bát hồ
lạt thang
– cháo sền sệt làm từ bột mì trộn với rau dầm giấm xắt rối,
phủ tạng lợn, và rất nhiều ớt bột; cũng có bánh bột ngô, cho lên miệng rất ráp;
và một tảng dưa chua mặn gắt làm từ lá mù tạt, món này gọi là “ngật đáp”.
Thông thường vị mạnh và mùi nồng của các món ăn sẽ là bài thuốc đắng đối với
một cô gái sống ở phương Nam vốn quen ăn những đồ tinh chế hơn, nhưng dạ dày
của Văn có vẻ đã tuân theo kỷ luật do cô mặc bộ đồng phục quân đội và do cơn
đói cồn cào, trong giây lát cô ăn hết vèo suất ăn sáng được phát, và biết mình
có thể dễ dàng ăn gọn hai suất nữa. Nhưng khi Vương Lượng hỏi cô muốn ăn thêm
không thì Văn từ chối. Đã đọc những bản báo cáo về khẩu phần ăn uống nghiêm
ngặt trong quân đội, cô biết rằng lượng thức ăn thêm cho cô sẽ lấy từ khẩu phần
của những người khác.

Sau bữa sáng, Văn đi cùng Vương Lượng tới văn phòng của anh.
Chân dung Mao Trạch Đông và Chu Đức
mặc quân phục treo trên tường mang đến cho căn phòng tạm bợ một vẻ vô cùng long
trọng. Sự hiện diện của một chiếc bàn và ba chiếc ghế cho biết chủ nhân của căn
phòng có quyền triệu tập cuộc họp. Trên tường có dòng chữ “Ba Quy Định Lớn” và
“Tám Nguyên Tắc” của Quân Giải phóng viết bằng chữ đỏ tươi. Văn đã quen với
những câu khẩu hiệu quân đội này, kiểu như: “Tuân theo mọi mệnh lệnh,” “Không
tơ hào dù chỉ một cây kim sợi chỉ của nhân dân,” “Không phá hoại mùa màng” và
“Không đối xử thô bạo với tù nhân.”

Ngồi tại chiếc bàn đặt dưới chân dung những vị lãnh tụ vĩ
đại, Vương Lượng có vẻ nghiêm trang và oai vệ. Một cách hết sức cương quyết,
anh cố gắng thuyết phục Văn thay đổi ý định đi tìm Khả Quân. Anh nài nỉ cô dẹp
nỗi xúc động về chồng sang một bên, hãy xét đến những khó khăn nguy hiểm mà cô
sẽ phải đối mặt trên đường sang Tây Tạng: cô không biết nói tiếng Tây Tạng, cô
có thể dễ dàng lạc đơn vị, địa thế và độ cao ở đó khiến người ta phát bệnh và
chẳng ai lường trước được chuyện gì sẽ xảy ra. Tỷ lệ tử vong cao, và với một
người phụ nữ không được huấn luyện thì cơ hội sống sót thậm chí dù chỉ trong
một tháng là rất thấp.

Văn nhìn vào mắt Vương Lượng. “Khi cưới Khả Quân tôi đã phó
thác cuộc đời mình cho anh ấy,” cô nói.

Vương Lượng cắn môi dưới. Anh có thể nhận ra Văn sẽ không từ
bỏ ý định tìm chồng.

“Cô có trái tim thật bướng bỉnh,” anh nói. “Ngày có một
chuyến tàu quân sự đi Thành Đô. Cô có thể đáp tàu đến đó.”

Anh đưa cho cô một cuốn sách nhỏ trong đó có thông tin quân
sự ở Tây Tạng và phong tục Tây Tạng.

Văn nhận lấy đầy biết ơn.

“Cảm ơn chỉ huy. Tôi sẽ nghiên cứu thật kỹ trên đường đi và
cố thích nghi với những điều kiện ở đó.”

“Chiến tranh không cho cô thời gian nghiên cứu và cũng chẳng
cho cô cơ hội thích nghi đâu,” Vương Lượng nhận xét dứt khoát, khi anh đứng lên
đi vòng quanh bàn đến chỗ Văn. “Nó vạch ra các lằn ranh rõ ràng của tình yêu và
lòng thù hận giữa con người. Tôi chưa bao giờ hiểu các bác sĩ sẽ xử lý thế nào
khi phải lựa chọn giữa trách nhiệm nghề nghiệp và mệnh lệnh quân đội. Bất kể
chuyện gì xảy ra chăng nữa, hãy nhớ một điều: chỉ sống được thôi cũng là chiến
thắng rồi.”

Văn cảm thấy Vương Lượng đang cố doạ dẫm cô. Cô gật đầu tỏ
vẻ kính trọng, nhưng kỳ thực cô chẳng hiểu những điều anh muốn nói. Cô trao
chiếc túi lụa của chị gái cho Vương Lượng: bên trong cô đã viết tên của Khả
Quân, cha mẹ cùng chị gái và cả tên cô nữa. Cô nói với Vương Lượng là cô hy
vọng mọi người trong chiếc túi này sẽ được đoàn tụ ở Tô Châu. Để đáp lại, Vương
Lượng đưa cho Văn một cây bút và cuốn sổ nhật ký. “Viết lách có thể là nguồn
sức mạnh,” anh nói.

Văn ngồi với Vương Lượng chưa tới một tiếng đồng hồ, nhưng
những lời của anh in mãi trong tâm trí cô suốt cuộc đời.

Cái gọi là tàu vận tải quân sự hoá ra chẳng hơn gì tàu chở
hàng hạng sang: mỗi toa hành khách chứa gần một trăm người ngồi cực kỳ gò bó.
Cửa sổ bé tin hin, chỉ hai mươi xăng ti mét vuông, nên có rất ít ánh sáng. Văn
cùng với nữ hành khách duy nhất, một y tá, bị ép dúi dụi vào đám đàn ông. Trước
khi họ lên tàu, một người đã giới thiệu cô y tá với Văn, cô ta là người Ôn
Châu. Cô rất hay nói, nhưng không ai trên tàu, thậm chí cả Văn, có thể hiểu
được cô nói gì bởi cái giọng Triết Giang đặc sệt. Cứ bốn giờ tàu lại dừng chân
năm phút ở một vùng hoang vu hẻo lánh nào đấy để hành khách đi vệ sinh và vận
động chân tay một chút. Thỉnh thoảng, vào ban đêm, tàu tạm nghỉ gần một kho
lương quân đội và thế là mọi người được cấp một bữa no nê, nhưng bù lại, suốt
ngày hôm sau nhưng người lính phải chặn đứng cơn đói giày vò bằng bánh quy và
bánh bao hấp khô không khốc.

Đầu tiên, mấy người lính rất hào hứng với phong cảnh lướt
vèo vèo qua ô cửa sổ tí hon, nhưng lượng ô xy nhanh chóng bị thiếu hụt cùng với
hơi nóng ngột ngạt trong toa hành khách đóng kín mít đã hút kiệt kết sinh lực
họ. Nguồn giải trí duy nhất của họ là cố làm cho cô y tá quê Ôn Châu phát ra
những âm thanh vô nghĩa. Vui đùa như thế chẳng được bao lâu thì ngay cả cô y tá
cũng im bặt.

Văn chẳng còn bụng dạ nào trò chuyện. Mọi ý nghĩ của cô dồn
hết vào chuyện tìm kiếm Khả Quân. Thậm chí cô còn không dám nhìn những người
lính đồng hành để giới thiệu về mình, cô sợ ngay cả những câu hỏi bình thường
nhất cũng có thể khiến tình cảm của cô rối bời. Thay vì trò chuyện, cô chăm chú
đọc cuốn sách nhỏ mà Vương Lượng tặng.

Cuốn sách nói về những bộ tộc du cư và tầm quan trọng của
tôn giáo trong văn hoá Tây Tạng. Tiếp nhận cả đống thông tin như thế thật vất
vả nên đôi mắt mệt mỏi của Văn cứ nhắm lại.

Hai ngày đêm liền, con tàu cứ thế lắc lư các hành khách im
lìm dọc suốt hành trình của họ.

Sớm tinh mơ con tàu tiến vào thành phố lớn Thành Đô. Văn nhẹ
cả người vì đã đến nơi, từ đây chặng cuối chuyến hành trình của cô là đi theo
con đường mới xây nối giữa Trung Quốc và Tây Tạng. Cô háo hức nhìn con đường,
nhớ lại khi thông đường vào năm 1954, các bản tin đã tuyên bố nó là một kỳ tích
phi thường của khoa học kỹ thuật. Nối liền Thành Đô với Lhasa, dài gần hai
nghìn năm trăm ki lô mét, nó là con đường dài nhất Trung Quốc và là con đường
ra đường đầu tiên ở Tây Tạng. Trong bốn năm thi công, tính sơ sơ nó phải đi qua
chừng mười bốn quả núi, và ít nhất cũng mười con sông. Những trận tuyết mịt
mùng và gió lạnh thấu xương mà công nhân phải chịu đựng đã trở thành truyền
thuyết.

Dù mùa thu tới sớm nhưng thời tiết ở Thành Đô vẫn còn ấm
nóng ngột ngạt như mùa hè. Xuống tàu, Văn lau mặt bằng tay áo bộ đồng phục đẫm
mồ hôi. Cô không tưởng tượng nổi mặt mình bẩn phát ngượng đến cỡ nào. Da mặt cô
đỏ lựng và đau rát vì phải liên tục lau mồ hôi trong suốt chuyến đi.

Lính tập trung rất đông trên sân ga, nhưng nhà ga tĩnh lặng
đến kì cục. Tình cảnh chen chúc như cá mòi đóng hộp lại còn thiếu dưỡng khí
khiến ai nấy kiệt sức. Văn dò kiếm dọc hàng áp phích quân đội xếp ngay ngắn
trên sân ga, tìm số đơn vị cô cần.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3