12. Miền đất hoa vàng (Phần 1)

Lúc ấy đã vào cuối mùa khô, những con đường
không thể bụi hơn nữa. Lối vào xã chỉ là một lát cắt giữa hai bên là những cánh
rẫy vừa mới phát. Đâu đó có những đám khói xám xịt, bay luẩn quẩn cùng hơi nóng
hừng hực.

Chiếc xe khựng lại, ông tài xế có một vẻ mặt rất phong trần
nhìn hai đứa, tội nghiệp: “Ngồi đây đi, chút có mấy đứa công an xã tới rước. Nó
dặn bây rồi hả?”. Thực ra không phải là dặn, chỉ là lời nói hôm trước đi giao
ban công an huyện, ông phó công an xã bảo sẽ đón trong chiều nay. Còn vào lúc
nào thì không thấy nói tới. Chúng tôi chui vào chiếc quán độc nhất, những món
đồ hàng cũ xỉn và lầm lên màu đỏ quạch.

Bà chủ hàng ái ngại: “Uống nước không? Nhà tôi có “bò húc””.
Khương bảo: “Anh có xem quảng cáo trên tivi không? Là nước tăng lực đó mà. Dì
cho con xin hai lon bò húc, thật nhiều đá”. Tôi ngồi ngó lơ ra những tàng cây
trứng cá, tàn lá của chúng cũng mang cái màu chật vật. Trong nhà, chiếc tivi
chết lặng trên bàn. Cái bình ắc quy không đủ điện để phát sáng màn hình.

Bà chủ vừa quạt vừa bảo: “Trong này cực lắm. Cô cậu vô đây
công tác hay đi làm gì?”. Khương cười: “Tụi con đi sưu tầm dân ca”. “Ờ, bi giờ
lại có cái thứ công việc tùm lum đó sao. Sưu tầm dân ca, ngộ thiệt đó. Nhưng...
là sao?”. “Là đi coi người ta hát cái gì hay thì mình ghi vào sổ, mai mốt về
hát cho người khác nghe”. “Trời, con nhỏ này, giỡn hoài. Tưởng bà già này không
biết gì sao?”. Khương cười. Lon bò húc ngọt đến dị người, tôi không sao uống
hết. Khương bảo, có lẽ anh không biết, trong này đàn ông pha rượu để uống chơi
thôi. Đúng lúc đó có tiếng xe máy rè rè tới. Khương đứng lên, hỏi thân thiết:
“Sao lâu vậy?” Cậu thanh niên lúng túng, quệt hai tay bê bết dầu mỡ vào quần,
chiếc quần cố gắng chỉn chu lại vần lên những vết tay màu đỏ vàng kì cục: “Tại
ruột xe bị lủng”. Rồi nhìn qua tôi, anh ta chào: “Chú Chin nói tôi qua đón
anh”. Khương nhìn tôi: “Thôi, anh vào trong đó đi, tuần sau Khương lên thăm.
Khó khăn chung mà”. Người thanh niên nhìn Khương, ánh mắt buồn buồn: “Về luôn
sao?”. Khương mím môi: “Công việc nhiều lắm”. Rồi cô lôi ra một chiếc bàn cạo
râu và tá dao lam: “Xài đi, dạo này trông để râu... dữ dội quá”. Khương về.
Người thanh niên không nói gì, tay vân vê chiếc bàn cạo. Chiếc bàn cạo đen,
nhẵn bóng. Được một chặp, Khương quay lại bảo tôi: “Thôi, anh vào đi, trong đó
có điện thoại, anh gọi cho Khương là được rồi”. Tôi khẽ gật, nhìn màu chói gắt
đang đổ ập xuống đầu mình. “Về!”- chiếc xe bất thần rung bần bật và anh ta đang
chờ tôi leo lên.

Bụi mù mịt. Chừng như không còn chút không khí nào để thở
cả. Chỉ là một màu bung phát, tơi tả. Xe phăm phăm lao đi như một chàng ngựa
dũng mãnh. Tôi không mở được mắt, tất cả đập vào tôi quá mạnh, quá hối hả, kể
cả sự im lặng đến bạo liệt của anh chàng tài xế bất đắc dĩ này. Đến đầu suối,
anh ta đột ngột dừng lại: “Xuống rửa mặt đi”. Một không gian khác, yên lành bất
ngờ đến bên cạnh tôi. Con suối nhỏ nhưng trong vắt, đâu đó là tiếng cười trẻ
nhỏ. Kề bên là những bờ cây lá, những bóng cây hồn nhiên trôi trên mặt nước
hiền lành. Tôi thả chân xuống suối. Mát lạnh. Mà không dám tắm. Tôi nghe nhiều
đến những chuyện như người ta bị ngã nước rụng trọc cả đầu. Trong khi đó anh ta
đang dần trút bỏ quần áo: “Sắp tới anh sẽ phải tắm ở đây, như thế này”. Dứt
câu, anh ta nhoài mình xuống đáy nước như một con rái cá. “Anh tên gì?” - tôi
hỏi. “ Cứ gọi là Yơng”. Yơng – thực tình nó không gợi cho tôi bất cứ cảm giác
gì, nếu có thì là sự ngạc nhiên, hoá ra mỗi vùng đất đều có thể xuất hiện những
cái tên khá kỳ lạ mà đôi khi người gọi ra nó cũng không hiểu vì sao lại thế.
Hay giả chăng giữa những ngọn đồi này, giữa những mênh mông cỏ xanh và thung
lũng này, có một huyền tích, một câu chuyện, một mối tình mà nhân vật chính
mang tràn đầy khát vọng tên Yơng?

Đưa tôi về tới ủy ban xã, Yơng lặn không tăm hơi, bỏ mặc
chiếc xe cà khổ nằm phất phơ giữa nắng chiều bỏng rát. Ông chủ tịch xã là người
bản địa, một thời rước quân giải phóng qua sông Pôkô. “Cậu từng nghe tới đất
này bao giờ chưa? Cực dữ lắm, nhưng không thể quên được. Mà người ta giao cho
cậu làm những gì?”- ông chủ tịch hỏi. Tôi ngồi nhìn những đốm hoa bông gòn nở
xoá trắng mặt sân nhà rông. Chúng nở bung và bay la đà trong những làn gió hiếm
muộn. Tôi chưa từng nghĩ có một ngày mình sẽ phải đến đây, làm cái công việc
rất chi là trừu tượng, giải đáp thắc mắc của nhân dân về chính sách. Tiếng Việt
thì đồng bào không biết, làm sao tôi nói được tiếng dân tộc? Tôi cười: “Là một
chút việc giúp đồng bào mình thôi, chú”. “Ờ, là hỏi vậy. Để nói với Yơng. Ơi
Yơng, đưa cán bộ đi tắm. Nắng dữ lắm. Nhưng suối thì mát thiệt mát”. Hoá ra anh
ta làm một chân “loong toong” ở xã, cái người đảm lược nhiều khâu đoạn trong
một miền rừng mịt mù.

Và về sau tôi mới nhận thấy rằng, nếu không có Yơng thì mọi
việc từ giản đơn nhất như đăng ký khai sinh cho một đứa trẻ đến những công việc
lung tung beng khác ở cái xã này sẽ rối lên như canh hẹ. Nhưng đó phải là nửa
năm sau, khi kỳ thực tập của tôi kết thúc. Còn khi đó, Yơng hiện ra ngay khung
cửa, hàm râu cạo vội vẫn còn vương lại màu xanh ánh thép. Không để râu, trông
anh ta hiền lành và có gì như thu bé mình lại. Tôi lôi ra chiếc khăn bông, chai
dầu gội cùng hộp xà bông mới. Tất cả như một luồng điện nhanh chóng đập vào mắt
Yơng. Anh ta nói: “Mấy chai lọ này đúng là thứ chiếu trên tivi?”. Tôi nhìn
Yơng, có gì đó thật bất nhẫn: “Đúng vậy. Chúng chẳng đáng gì”. Yơng nhìn tôi:
“Anh đi tắm đi. Anh chưa quen, có thể bị sốt rét như thường. Ba tháng rồi, xứ
này không một giọt mưa”. Đến vậy sao? Tôi chưa nghĩ tới cái cảnh người ta có
thể khoả thân trầm mình trong rừng như một câu chuyện khá mọi rợ mà tôi đọc
được từ đâu đó. Nó rất xa với suy nghĩ của tôi. Vừa đi xuống suối, tôi hỏi: “Ở
đây có gì đáng kể không?”. “Là sao?”. “Là những chuyện động trời một chút,
những câu chuyện đánh nhau, bắn rơi máy bay Mỹ chẳng hạn”. “Nhiều, kể sao hết.
Nhưng mà phải nói với già làng. Chuyện mười năm, chuyện trăm năm già đều biết”.
Nước lạnh làm tôi rùng mình. Dường như lâu lắm rồi, tôi không có được cái cảm
giác thoải mái và tự do thế này. Những cánh rừng phấp phới nắng. Và loài chim
gì có những chiếc lông cánh màu đỏ rực đang ngồi vắt vẻo trên thân bằng lăng
trắng, chúng tụ tập nhau để gẫu chuyện. Yơng đang ngồi trên bờ, tay vấn điếu
thuốc sâu kèn to bản. Rồi hơi thuốc khét lẹt phả ra xung quanh. Cái cần cổ Yơng
bạnh ra, rướn lên như làm một việc nặng nhọc rút kiệt sức lực. Tôi ngoái đầu
lại, cảm giác như để chống chọi với cái buồn tẻ và u ám của xứ này, anh ta đã
phải gồng lên với tất cả nghị lực phi thường, hệt như anh phải vươn cần cổ rít
từng mẩu thuốc sâu kèn khét lẹt và không mấy ngon lành kia. Tắm xong, tôi leo
lên bờ ngồi cạnh Yơng.

Chìa cho tôi bản thuốc lớn được quấn trong tấm vải nhựa,
Yơng bảo tôi, giọng nhuốm một màu huyền thoại : “Dùng thử đi, mới đầu không
chịu nổi, miết rồi lại không thể xa được. Thuốc này được trồng trên đỉnh núi
Chư Pru, ba năm mới nở hoa, ba năm lá mới kịp rụng”. Tôi nhìn Yơng quấn bản
thuốc lớn, nghĩ có thể lịm đi vài giờ liền vì độ nặng của nó với vòm họng bé
nhỏ của mình. Tôi hỏi: “Nhà anh ở làng nào?”. “Làng Klong. Cái làng đẹp, những
cô gái đẹp. Làng của người Campuchia”. “Sao lại vậy?”. “Họ qua đây lâu lắm rồi,
giờ thành người Việt đến nơi. Họ muốn ở lại”. “Cả gia đình anh ở đó chứ?”. Yơng
không trả lời, châm thuốc và đưa cho tôi: “Bắt vợ chưa?”. Tôi chưa nghĩ được
tới điều này. Tôi cười: “Tôi còn nhiều thứ phải lo quá”. “Ờ, người thành phố
thường vậy. Nhưng xứ này không có cái gì hay cả, nên bắt vợ là chuyện lớn.
Người lớn nghĩ hộ bọn trẻ khi chúng bước vào tuổi mười lăm”.

Giọng Yơng như trôi đi về một góc rừng nào đó, phiêu diêu và
ngậm ngùi. Yơng giục tôi đi về. Phía đầu dốc Khẩu Súng mặt trời sắp rụng xuống.
Những tàng cây kơ nia hai bên đường ánh lên sắc đỏ đầy bỡ ngỡ. Đám trẻ con lúc
lắc rong đàn bò về nhà. Ngập trong tiếng leng keng mõ, tiếng ậm ò của bầy đoàn
no đủ là một cảm giác thật bình ổn, thật mê say. Những cô gái quấn xà rông ướt
lượt thượt đi phía sau. Họ nói với Yơng bằng tiếng Giarai. Rồi tất cả cùng cười
rũ. Dường như rất nhiều cô gái biết trước sự kiện này. Phải gọi là sự kiện vì
năm sáu năm rồi mới có một “cán bộ” người Kinh về đây công tác tương đối lâu
như vậy. Tôi nhìn thấy ánh mắt những cô gái lấp lánh. Những ánh mắt đẹp. Vừa
khát cháy vừa mênh mang.

Đêm trong buôn nghe tiếng mõ bò lộc cộc buồn nôn nao buồn.
Chỉ có thể coi hết thời sự, màn hình tivi bỗng tối om bởi nút nhấn trên tay ông
chủ tịch: “Thôi, đi ngủ đi. Yơng, mai bàn kỹ với cán bộ, coi làm những thứ gì.
Ô, nhớ đi nhấc lưới thiệt sớm”. Rồi ông mang chiếc võng dù cũ sờn ra ngoài hiên
mắc nằm, mắt ngước lên những chòm sao dày đặc. Trời trong veo, không gợn u ám
mây. Thoảng qua gió và tiếng mang tác tìm bạn, tiếng bầy chim chập choạng gọi
ăn đêm là một khúc dân ca nào đó trôi về. Tôi và Yơng nằm chung trên tấm bạt
pháo sáng đã cũ. Dường như Yơng cũng như tôi, không ngủ được. Bữa cơm chiều với
món muối giã ớt thật đậm khiến tôi cay xè con mắt. Rất lâu trong mông lung,
Yơng lén ngồi dậy, ra ngoài cầu thang, ngó chơi vơi lên những bóng kơnia đổ rậm
một vùng đen thẫm trước sân nhà. Tôi cũng ngồi dậy. Yơng hút thuốc, điếu thuốc
sâu kèn đỏ rực trên khoé môi. “Ngủ đi. Đường xa mệt nhiều chứ? Đi thẳng từ Hà
Nội vô đây?” “Vâng. Thực tập mà”. “Ngày mai thì làm gì?”. “Tôi muốn xem lại sơ
đồ của toàn xã. Rồi đi tới từng làng buôn. Này, đi lên biên giới chắc là xa?”.
“Chỉ một đoạn đường. Đó là sông Pôkô. Đẹp miệt mài”. “Sao anh không về làng?”.
“Trong này dường như cả ủy ban xã thức đêm. Lâu thành quen”. “Khi nào anh về
làng?” “Mai mốt. Vợ mình mới sinh con. Một đứa con gái”.

“Điều đó rất thiêng liêng mà” – tôi gần như thốt lên. Yơng
cười, hàm răng loá buốt dưới trăng: “Vợ mình sinh con gái cho người khác”. Yơng
nói thật bình thản, cảm giác mọi nỗi buồn đau đã đi qua trong ngày hôm trước,
để sớm nay trở dậy anh đã rất đỗi bình tâm, đến ủy ban làm việc một cách bình
thường. Tôi im lặng. Tôi sinh ra, lớn lên ở vào một khoảng khác biệt quá lớn để
có thể hiểu những gì đang đến với Yơng. Nhưng đêm nay ngồi đây, tôi thấy Yơng
thật cô độc, cái dáng chùi chũi xuống, cái dáng cắm cúi lao lư như một bức
tượng nhà mồ đôi chân im lìm nằm trong khoang đất bí ẩn. Tôi bảo: “Anh cùng đi
ngủ đi. Đêm nay có rất nhiều sương”. Yơng vịn vai tôi, đứng dậy: “Chừng nào anh
về ngoài Bắc?”. “Còn rất lâu nữa, hình như phải đi qua mùa mưa” - tôi nói phỏng
chừng. Nói phỏng chừng để chờ đợi và kiếm tìm những gì đang cất giấu như men
rượu lâu ngày trong tâm hồn kia. Và sau câu nói ấy, tôi thấy mình thật tàn
nhẫn.

***

Một cuốn sổ cáu bẩn, chỉ là rất tình cờ thôi, tôi tìm ra nó
trong đống hồ sơ cũ kỹ, những sơ đồ, đường làng, những ký hiệu ám định những
ngôi nhà, con suối... Bên cạnh cuốn sổ bìa cứng ghi khai sinh là cuốn sổ này,
nó được ghép lại bằng nhiều loại giấy nham nhở nhưng những con chữ lại khá đẹp.
Trong cái nét nghiêng đều đưa trên mặt giấy thấp thoáng sự tài hoa. Thoạt tiên,
tôi cho là cuốn sổ nhỏ mà một ai đó, như mấy cô giáo tiểu học chẳng hạn, ghép
lại lúc rỗi việc để chép bài ca. Tôi bỏ qua một bên, lẫn cùng với những giấy tờ
lem nhem màu đất đỏ. Có thể thấy rõ dấu vân tay ông chủ tịch in lên mỗi trang
sổ ấy. Ông có thói quen chấm nước bọt trước khi giở sách. Và đất đỏ cũng theo
đó mà lưu hằn lên giấy. Nhem nhuốc – phải nói cho đúng là như vậy. Hồ sơ ghi về
dân số, về đất nông nghiệp, sản lượng... khá mờ nhạt và không cập nhật, có khi
đó là kết quả của mấy năm trước, mà người chép vô thức tỉ mẩn ngồi sao y bản
chính. Phải bằng nhiều chắp nối, tôi mới tạm hình dung được thực trạng của một
xã biên giới heo hút và khó khăn chồng vai gối đầu lên nhau như thế này. Những
lúc ấy, Yơng thường quanh quẩn đâu đó. Rồi anh lại mang con dao rẫy lên vai,
qua bên rừng vạt những đám cây nhỏ, chăm chỉ dọn đám rẫy mới. Xung quanh khu
nhà ủy ban, Yơng đã phát khá nhiều. Anh bảo: “Để cho ủy ban nấu cơm khi có cán
bộ lên công tác. Mình không biết làm gì đâu, làm thế này cũng thấy tốt hơn”.
Chặp thoảng, anh lại chạy về, mang cho tôi ly nước, hoặc một bao thuốc ERA, một
thứ thuốc bao cứng đồng hạng, không quá đắt nhưng vượt trội thứ thuốc Mai cuốn
điếu không có đầu lọc khét lẹt. Thực tình, tôi hút không bao lăm, chỉ để lúc
rảnh ngồi chơi bài tú lơ khơ lại đem ra làm vật nhạy cảm hấp dẫn mọi người vào
cuộc. Có lẽ mọi thứ ở đây diễn ra quá tẻ nhạt khiến người ta chóng thấy nhàm.
Tôi đã đọc hết tất cả những cuốn sách có thể mang theo. Và tôi nghĩ đến cuốn sổ
ấy, biết đâu giống như lời Khương nói, nó sẽ có một cái gì đó hay ho, một bài
dân ca là lạ chẳng hạn. Tôi ngồi tỉ mẩn soi lại những đường chỉ khâu gáy cuốn
sổ. Gần như mục cả rồi. Mới thấy mưa nắng xứ này nghiệt ngã thật, có thể làm
tơi mục mọi thứ, xoá phủ đi mọi thứ. Những con chữ nghiêng nghiêng, đẹp và lượn
đều đặn. Nó không bao giờ là sổ chép bài ca.

Ngày...

Mình vào bộ đội. Giấc mơ của mẹ đây mà. Mẹ bảo, chân cứng đá
mềm nhé. Con đi con đường của bố. Bạn bảo, thôi, chúng ta mỗi người một hướng
đi. Nhưng hẹn gặp lại. Mình chẳng cản bạn bao giờ.

Mình vào bộ đội. Mẹ sẽ không bao giờ biết mình đang đi trong
những khu rừng ướt đẫm nước mưa thế này đâu. Và ngay bên kia, con sông sóng dữ
ầm ào chảy. Mình đi gác đêm. Bên cạnh mình, anh Trung bảo: “Tao nhớ nhà quá,
còn mày?”. Tự dưng mình cũng thấy nhớ nhà cồn cào. Mình muốn khóc. ừ, nhưng con
trai mà khóc ư? Khóc lúc này thật là ủy mị và lãng xẹt. Mình bảo: “Em quen rồi.
Em nghĩ anh cũng đã quen”. Làm sao mà quen được. Nói cho nhau ấm lòng thế thôi.
Anh Trung bảo: “Mày có người yêu chưa?”. Mình bảo: “Chưa kịp yêu”. Mình nói
dối. Anh Trung bảo: “Sang năm tao nghỉ phép về nhà cưới. Không cưới nó đi lấy
chồng mất. Người yêu tao xinh gái nhất làng. Mà mày cũng chẳng hình dung được
làng tao như thế nào đâu. Nó rộng và đông đúc, phải gần bằng cái thành phố
Plêiku”. Mình cười: “Em chẳng được đi đâu nhiều. Học xong, em vào lính luôn”.
“Thế mày đã biết thế nào là nụ hôn đầu đời chưa? Nó... buồn cười lắm, ngòn ngọt
mà lại... hay hay. Nói chung là nên yêu đi ông em ạ. Đời lính chúng ta phải yêu
ngay cho nó đỡ sầu”.

Cứ cuối tuần, bưu tá ở ngoài đơn vị mới đưa thư báo vào phà
tám, nơi tiểu đội mình đóng quân. Lúc ấy mình không làm được gì. Phấp phỏng, lo
lắng và nhiều lần thất vọng. Nhưng một buổi sáng mình nhận được thư bạn. Mình
phải ngồi im một lúc lâu rồi mới len lén ra bờ sông đọc. Bạn kể đã khóc và
thương mình. Không nên thế, đồng chí ạ. Mình tự nhủ vậy mà sao nước mắt lại
trào ra.

Mình hối hả viết thư cho bạn, nghĩ đến những ngày phép.
Những ngày ấy chúng ta sẽ làm gì nhỉ. Chẳng biết sẽ làm gì nhưng chắc chắn sẽ
rất hạnh phúc. Có thể mình sẽ chở bạn đi lang thang ngoài phố, đi suốt đêm bên
nhau, ngó lên những khung cửa kín bưng le lói những ánh đèn. Ngày trước mẹ mình
thường mắng hai đứa trẻ con quái gở, thích thú khỉ gió gì như thế chứ. Nhưng mà
chúng mình thích thế, không hiểu vì sao lại thế. ừ, thành phố, hiện diện trong
tâm trí mình luôn là một thành thố với những khung cửa le lói, những quầng sáng
chấp chới màu hy vọng. Mình nhìn những thân bằng lăng trắng bóng trong chiều
nắng, thấy nơi này sao mà rộng mà dài, thấy nỗi nhớ bạn rất nhiều mà đường lại
rất xa…

***

… Tôi bắt đầu chuyến đi vào từng buôn. Yơng đi cùng
tôi, anh đưa cho tôi một chiếc khăn bịt mặt. Còn Yơng vẫn để đầu trần, mái tóc
Yơng khô xác như râu ngô được nắng. Và chiếc áo Yơng đang mặc, giống rất nhiều
người đàn ông khác, đó là một chiếc áo bộ đội đã cũ. Không biết nó đã gắn bó
với Yơng từ bao giờ, nhưng những sợi vải đã nhão nhừ và mỏng tang. Yơng bảo:
“Vô làng anh nhớ phải nhiệt tình uống rượu nghe. Rượu ghè, thiệt ngọt và thiệt
mát. Anh là khách qúy, hôm qua mình đã bảo với già làng rồi”. Dù chiều đã tàn
muộn, tôi vẫn kịp nhận ra ngôi làng Klong của Yơng nằm trên mảnh đất bằng
phẳng, có cảm giác mấy chục nóc nhà khuôn tròn lại với nhau, ở giữa là cây pơ
lang hoa đỏ thắp rực rỡ. Bên cạnh, vẫn còn cây nêu của lễ đâm trâu. Chiếc xe
chạy vào giữa sân, lũ trẻ con lập tức nhào đến: “Yơng về rồi, chị Hnơl, Yơng về
rồi”. Thấp thoáng từ bóng nhà dài một vạt thổ cẩm nhàu nhĩ và có tiếng trẻ khóc
ré lên. Yơng bảo: “Vợ mình đấy. Còn con người khác”. Cha vợ Yơng đã rụng răng
phóm phém, miệng ngậm tẩu thuốc: “Cán bộ về chơi sao?”.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3