Hai người đẹp

Hai người đẹp

I.

TÔI CÒN NHỚ khi
tôi còn học lớp V hay lớp VI ở trường trung học, tôi cùng với ông tôi đi
từ làng Bôlsôiê Krépkôi vùng sông Đông lên thành phố Rôxtốp trên sông
Đông. Hôm ấy là một ngày tháng Tám oi nồng, mệt nhọc và buồn tẻ. Vì nóng
bức, vì những cơn gió nóng khô ran lùa những đám bụi vào mặt, chúng tôi
ai nấy mắt đều díp lại, cổ họng khô khốc; không còn muốn nhìn, muốn nói
chuyện hay nghĩ ngợi gì nữa, và khi gã đánh xe Kácpô, người Ucraina
đang gà gật ngủ quất roi vào ngựa, nhỡ vung quá tay về phía sau và để
chạm roi vào mũ tôi, tôi cũng chẳng buồn cáu nữa, chẳng kêu một tiếng
nào và chỉ sau khi tỉnh giấc mơ, mới mở mắt uể oải thoáng nhìn về phía
xa: liệu qua lớp bụi đường này có trông thấy làng nào không? Chúng tôi
dừng lại cho ngựa ăn ở một làng rất to của người Ácmêni - làng
Bakhơsi-Xalakhơ - tại nhà một người Ácmêni giu có mà ông tôi có quen.
Trong đời, tôi chưa bao giờ nhìn thấy một người nào lại có dáng vẻ khôi
hài hơn cái ông Ácmêni ấy. Hãy hình dung một cái đầu nhỏ tí húi trọc,
cặp lông mày rậm rì nhíu lại thấp xuống, mũi diều hâu, bộ râu mép dài
bạc trắng và cái mồm rộng ngoác lúc nào cũng ngậm một cái tẩu dài bằng
gỗ anh đào; cái đầu ấy gắn một cách vụng về vào cái mình gầy guộc lưng
khòm, ăn vận theo một kiểu kỳ lạ: một chiếc áo ngắn mặc ngoài màu đỏ có
đuôi tôm và một chiếc quần màu xanh da trời rộng thùng thình; ông ta đi
khệnh khệnh khạng khạng, hai chân dạng ra, kéo đôi giày lệt xệt, nói
năng thì vẫn không bỏ cái tẩu trong mồm ra và đối xử theo một kiểu tự
trọng thuần túy Ácmêni: không cười, cặp mắt nhìn trố ra và cố gắng càng
ít chú ý đến khách càng tốt.

Trong nhà người Ácmêni không có qua
một chút gió, chút bụi nào, nhưng ở đấy cũng khó chịu, oi nồng và buồn
tẻ như ngoài thảo nguyên trên đường đi lúc nãy. Tôi còn nhớ, người đầy
bụi bặm và mệt lử vì trời oi bức, tôi ngồi thu lại ở góc nhà trên một
cái hòm gỗ màu xanh. Những bức tường bằng gỗ để mộc, bàn ghế giường tủ,
sàn nhà quét màu vàng... - tất cả đều bốc ra mùi gỗ khô sạm nắng dưới
ánh mặt trời. Nhìn phía nào cũng thấy ruồi bay, ruồi bay... Ông tôi và
ông bạn người Ácmêni nói chuyện rì rầm với nhau về công việc chăn nuôi
gia súc, về ruộng bỏ hóa, về đàn cừu... Tôi biết rằng ấm trà sẽ đun
trong vòng một giờ đồng hồ, rằng ông tôi sẽ ngồi nhấm nháp uống trà ít
ra cũng phải đến một tiếng nữa, rồi sau đó nằm ngủ trưa khoảng hai, ba
giờ đồng hồ, rằng như vậy là tôi sẽ phải mất đi một phần tư ngày, để chờ
đợi và tiếp đấy là lại oi bức, bụi bậm, đường xóc. Tôi nghe tiếng rì
rầm hai người nói chuyện và tôi bắt đầu cảm thấy rằng ông già Ácmêni
kia, cùng với cái chạn để bát đũa, rồi ruồi bay và các khung cửa sổ mặt
trời thiêu đốt đang xói vào kia... - tất cả những cái ấy tôi đã nhìn
thấy từ rất lâu, và sẽ chỉ thôi không nhìn thấy nữa vào một tương lai xa
lắc xa lơ, và cả người tôi tràn ngập một sự căm ghét đối với thảo
nguyên, mặt trời, ruồi nhặng...

Người Ucraina đầu trùm khăn bưng
một khay cốc chén lên, sau đó bưng tiếp chiếc ấm trà. Ông già Ácmêni
dềnh dàng bước ra phòng ngoài và cất giọng gọi:

- Masia(1)! Lên pha trà đi! Mày đâu rồi! Masia!

Nghe
tiếng những chân bước vội, rồi một cô gái chừng mười sáu tuổi đi vào
phòng, mặc chiếc váy áo thường in hoa, trùm một chiếc khăn nhỏ màu
trắng. Lúc rửa cốc chén và pha trà, cô gái đứng quay lưng về phía tôi,
và tôi chỉ nhận thấy rằng thân mình cô mảnh dẻ, đi chân không và đôi gót
nhỏ để trần loáng thoáng đằng sau gấu quần trễ xuống.

Ông chủ nhà
mời tôi uống trà. Khi ngồi xuống bàn, tôi nhìn vào mặt người con gái
đưa cốc trà cho tôi và bất chợt tôi cảm thấy như có một luồng gió nào
chạy khắp người tôi và cuốn đi tất cả những ấn tượng của một ngày buồn
tẻ và bụi bặm. Tôi nhìn thấy những nét kỳ diệu ở một gương mặt đẹp nhất
mà tôi đã từng được thấy trong mơ và ngoài đời. Trước mặt tôi là một
người con gái đẹp và tôi nhận ra điều đó ngay từ cái nhìn đầu tiên như
nhận ra một ánh chớp.

Tôi sẵn sàng thề rằng Masa, hay như bố cô
vẫn gọi là Masia, là một người con gái tuyệt đẹp, nhưng tôi không sao
chứng minh được điều đó. Đôi lúc có những đám mây lớp lớp ken nhau bao
phủ ở chân trời và mặt trời khuất đằng sau nhuộm những đám mây và cả bầu
trời thành nhiều màu sắc khác nhau: màu đỏ rực, màu da cam, vàng óng,
tím ngắt, thẫm hồng; đám mây này thì giống hình ông thầy tu, đám mây kia
thì giống hình con cá, đám mây khác nữa lại giống hình người Thổ Nhĩ Kỳ
đội khăn đóng. Ráng ngũ sắc chạy dài đến một phần ba bầu trời, lấp lánh
trên cây thánh giá nơi đỉnh tháp nhà thờ, phản chiếu qua những kính cửa
sổ nhà giàu, soi rõ trên mặt sông hay đầm nước, rung rinh trên những
ngọn cây cao; trên nền trời chiều xa tít tắp in rõ hình đàn vịt trời nào
đó bay đi tìm chỗ ngủ... Cả cậu bé đang xua bò, cả ông trắc điền ngồi
trên xe ngựa đi qua đập nước và mấy ông nhà giàu đang dạo chơi, tất cả
đều nhìn về phía ráng mặt trời, mọi người đều nhận rằng nó thật đẹp
nhưng không một ai biết và nói được rằng vẻ đẹp ấy ở chỗ nào.

Không
phải chỉ có một mình tôi thấy cô gái Ácmêni là đẹp. Ông tôi, một ông
già tám mươi tuổi, một người vốn khắc khổ, nghiêm nghị, thường dửng dưng
với phụ nữ và các vẻ đẹp của thiên nhiên cũng trìu mến nhìn Masa một
lúc và hỏi:

- Có phải con gái ông đây không, ông Avét Nadarứts?

- Con gái. Đây là con gái tôi... - ông chủ nhà trả lời.

- Tiểu thư xinh quá, - ông tôi khen.

Người
họa sĩ sẽ gọi vẻ đẹp của cô gái Ácmêni là một vẻ đẹp cổ điển và hoàn
thiện. Đó chính là vẻ đẹp mà khi ngắm nó, trời mà biết được vì lẽ gì,
anh sẽ tin chắc rằng anh đang nhìn thấy những nét chính xác, rằng mái
tóc, đôi mắt, mũi, miệng, cổ, ngực và mọi cử động của tấm thân trẻ trung
ấy đều hợp lại thành một thể hài hòa toàn vẹn mà trong đó thiên nhiên
không hề phạm sơ suất ở một nét nhỏ nào; không hiểu vì sao anh sẽ cảm
thấy rằng một người phụ nữ đẹp lý tưởng thì phải có cái mũi thẳng và cao
cao như mũi của Masa, cặp mắt to và đen như thế, đôi lông mi dài như
thế, cái nhìn thẫn thờ như thế, rằng những món tóc đen lượn sóng và đôi
lông mày của cô gái lại hòa hợp đến như thế, với màu da trắng trẻo mềm
mại trên trán và má như cây sậy xanh tươi hòa nhịp với một dòng sông nhỏ
yên lặng; cái cổ trắng ngà của Masa và bộ ngực của cô thật nhỏ nhắn
xinh xắn, nhưng để có thể tạc nên được như thế, cần phải có một tài năng
sáng tạo phi thường. Nếu anh nhìn Masa dần dần anh sẽ thấy khát khao
muốn nói với cô gái một điều gì êm dịu khác thường, một điều gì thật
chân thành và đẹp đẽ như chính cô gái.

Thoạt đầu tôi thấy giận hờn
và xấu hổ rằng Masa không để ý chút nào đến tôi và luôn luôn cúi đầu
nhìn xuống; có một màn không khí nào vừa lạ lùng vừa đầy hạnh phúc và
kiêu hãnh đã ngăn cách cô gái với tôi và cố che cái nhìn của tôi.

“Điều đó là do người ta đầy bụi bặm, - tôi nghĩ, - ta bị sạm nắng, và do ta hãy còn là một cậu bé con”.

Nhưng
rồi sau đó dần dần tôi quên đi chính bản thân mình, và cả người tôi
ngợp trong một cảm giác về cái đẹp. Tôi đã không còn nhớ đến buồn tẻ
trên thảo nguyên, đến những lớp bụi đường bay mù, không nghe thấy tiếng
ruồi bay vo vo, không nhận ra mùi vị nước chè nữa mà chỉ còn cảm thấy
rằng bên kia chiếc bàn tôi ngồi có một cô gái xinh đẹp đang đứng đấy.

Tôi
nhìn ngắm vẻ đẹp đó với một cảm giác là lạ thế nào ấy. Hình ảnh Masa
không gợi lên trong tôi một khát vọng, một niềm say mê hay một khoái cảm
nào, mà đem đến cho tôi một nỗi buồn nằng nặng cho dù là dịu ngọt. Nỗi
buồn này thật mơ hồ và mông lung như một giấc mơ. Không hiểu sao, lúc ấy
tôi vừa thấy tiếc cả cho mình, cả cho ông tôi, ông già Ácmêni và chính
cô gái nữa; tôi có cảm giác rằng hình như cả bốn người đều vừa đánh mất
một cái gì hệ trọng và cần thiết cho cuộc sống, một cái gì mà không bao
giờ chúng tôi có thể tìm được nữa. Ông tôi cũng ra chiều buồn bã. Ông
không còn nói chuyện về ruộng bỏ hóa, về đàn cừu, mà im lặng nhìn Masa
một cách đăm chiêu.

Sau lúc uống trà ông tôi đi nằm ngủ, còn tôi
thì bước ra khỏi nhà và ngồi ngoài thềm. Như mọi nhà ở Bakhơsi-Xalakhơ
ngôi nhà này cũng đang bị thiêu nóng dưới ánh mặt trời, không có một cái
cây nào, một mái hiên hay một bóng râm. Cái sân rộng trước nhà ông già
Ácmêni mọc đầy cỏ dại mặc dầu dưới trời nóng cháy quang cảnh vẫn nhộn
nhịp và vui vẻ. Đằng sau một bờ giậu thấp ngăn một phần cái sân rộng
người ta đang đập lúa mì. Chung quanh một cái cột chôn xuống chính giữa
sân, mười hai con ngựa dóng lại hàng một thành một đường kính kéo ngang.
Bên cạnh chúng là một người Ucraina làm công đi đi lại lại, mặc áo
khoác ngoài dài cộc tay và chiếc quần ống rộng thùng thình, anh ta luôn
tay vút roi xuống và quát to bằng cái giọng hệt như đang muốn chọc tức
lũ ngựa và tự đắc vì quyền lực của mình đối với chúng:

- A-a-a, cái lũ mất dạy này! A-a-a... Trời đánh không chết hả! Liệu hồn đấy!

Những
con ngựa màu hung nâu, màu trắng, hay đốm khoang, không thể hiểu vì sao
người ta lại bắt chúng cứ phải chạy quanh mãi một chỗ và giẫm nát đống
rơm lúa mì, chúng miễn cưỡng chạy uể oải và vung vẩy cái đuôi như tỏ nỗi
giận dỗi. Từ dưới chân lũ ngựa, gió cuốn tung những đám trấu vàng bay
mù lên qua hàng giậu. Gần những đống rơm mới, cao, có mấy bà cầm cào đi
lững thững, mấy chiếc xe bò lăn bánh, và đằng sau những đống rơm ấy,
trong một cái sân khác cũng có chừng ấy con ngựa như thế đang chạy vòng
quanh cái cột và cũng lại có người Ucraina làm công na ná như thế đang
vút mạnh roi và trêu giễu lũ ngựa.

Bậc thềm tôi ngồi nóng ran;
trên hàng lan can bằng gỗ và khung cửa sổ lác đác thấy nhựa rỉ ra trời
nóng; dưới thềm và dưới cánh bịt cửa sổ những con bọ nhỏ màu hung đỏ cụm
lại với nhau trong dải bóng râm. Mặt trời chiếu như thiêu như đốt lên
đầu, lên ngực, lên lưng tôi, nhưng tôi không để ý gì đến điều ấy, tôi
chỉ cảm thấy một điều rằng nơi phòng ngoài và ở các phòng trong nhà có
tiếng đôi chân trần đang đi lại trên nền nhà lát gỗ. Thu dọn cốc chén
vào khay, Masa chạy nhanh qua bậc thềm làm gió phả vào người tôi, rồi
như một con chim, cô gái đi vút xuống phía một căn nhà nhỏ ám khói; chắc
là nhà bếp, từ dưới ấy sực lên mùi thịt cừu nướng và nghe rõ ai đang
nói tiếng Ácmêni đầy cáu kỉnh. Cô gái biến mất sau cánh cửa màu sẫm, và
thế vào cô, trên bậu cửa hiện ra một bà lão Ácmêni mặt đỏ gay, lưng còng
mặc quần rộng ống màu xanh lá cây. Bà lão cáu giận và làu bàu chửi rủa
ai. Một lát sau Masa lại hiện ra trên ngưỡng cửa, mặt đỏ bừng vì bếp
nóng, cô vác trên vai một cái bánh mì đen rất to; hơi cúi nghiêng mình
rất đẹp dưới sức nặng của chiếc bánh, cô gái chạy qua sân đến chỗ đập
lúa, bước qua hàng giậu, lẫn vào trong đám bụi trấu vàng óng, rồi khuất
mất đằng sau mấy chiếc xe bò. Người Ucraina làm công đang xua lũ ngựa,
hạ roi xuống, thôi không nói nữa và đăm đăm nhìn về phía mấy chiếc xe,
sau đó, khi cô gái Ácmêni lại loáng thoáng hiện ra gần đàn ngựa và nhảy
qua hàng giậu, anh ta đưa mắt nhìn theo cô gái rồi quay sang quát bầy
ngựa bằng cái giọng như đang rất buồn bực:

- Cho mày chết dấp đi, đồ quỷ ạ!

Sau
đó lúc nào tôi cũng nghe thấy tiếng chân không của cô gái, cũng nhìn
thấy cô gái chạy qua chạy lại trong sân với vẻ mặt nghiêm trang đầy lo
âu. Lúc thì cô gái chạy qua bậc thềm, phả gió vào người tôi, lúc thì
chạy xuống bếp, đến chỗ đập lúa mì, ra ngoài cổng, và tôi cứ phải quay
đầu luôn luôn mới kịp nhìn theo cô gái.

Cô gái với vẻ đẹp kỳ diệu
càng xuất hiện nhiều lần hơn trước mắt tôi, thì nỗi buồn trong tôi càng
thêm thấm thía. Tôi cảm thấy thương cho mình, cho cô gái, cho người
Ucraina làm công lần nào cũng buồn rầu đưa mắt nhìn theo cô gái, khi cô
chạy qua đám bụi trấu đến chỗ mấy chiếc xe bò. Không biết có phải tôi đã
ghen tị với sắc đẹp của cô, hay là tôi tiếc rằng cô gái ấy không phải
của tôi, và mãi mãi sau này cũng chẳng bao giờ là của tôi, rằng đối với
cô gái tôi là một người xa lạ, hay là tôi mơ hồ cảm thấy sắc đẹp kỳ lạ
của cô là một điều tình cờ, không cần thiết, và ngắn ngủi như tất cả mọi
thứ trên trái đất này, hay là có thể rằng nỗi buồn của tôi chính là cảm
giác đặc biệt đến với mỗi người khi được ngắm nhìn một cái đẹp hoàn
thiện, có trời mà biết được!...

Ba giờ chờ đợi đã trôi qua lúc nào
không hay. Tôi tưởng rằng tôi chưa kị nhìn ngắm Masa, thì anh xà ích
Kácpô đã đi đến bờ sông, tắm rửa cho ngựa và bây giờ đã bắt đầu thắng
ngựa vào xe. Con ngựa mình ướt đẫm khoái chí thở phì phì và đập móng vào
càng xe. Kácpô quát ngựa “qu-uay lại!” Ông tôi tỉnh dậy. Masa kéo mở
cánh cổng ra cho chúng tôi, cánh cổng kêu lên kèn kẹt, chúng tôi ngồi
lên xe và đi khỏi sân. Không ai nói gì cả, hệt như chúng tôi đang giận
nhau.

Khoảng hai, ba giờ đồng hồ sau khi Rôxtốp trên sông Đông và
Nakhisevan đã thấp thoáng hiện ra từ phía xa, anh xà ích Kácpô từ nãy
đến giờ vẫn ngồi im, bỗng ngoái nhìn lại rất nhanh và nói:

- Ồ, bà lão Ácmêni có cô con gái xinh thật!

Và Kácpô vút mạnh roi xuống ngựa.

II.

MỘT
LẦN KHÁC, khi đã là một sinh viên, tôi đi tàu xuống phía Nam. Dạo ấy là
tháng Năm. Đến một ga nhỏ đâu vào khoảng giữa Bengôrốt và Kharcốp, tôi
bước ra khỏi toa và đi dạo trên sân ga.

Bóng chiều đã đổ xuống
trên sân ga, trên chiếc vườn nhỏ bên cạnh và cánh đồng chung quanh; nhà
ga che khuất ánh mặt trời chiều, nhưng nhìn lên những làn khói tàu bay
cao nhuộm một màu hồng dịu, thì có thể thấy rõ ràng mặt trời hãy còn
chưa lặn hẳn.

Lúc đi đi lại lại trên sân ga, tôi nhận thấy phần
lớn những hành khách đi dạo chỉ quanh quẩn bên cạnh một toa tàu hạng
hai, với vẻ mặt như là họ đang được nhìn thấy ở đấy một nhân vật đầy vai
vế nào. Trong số những người hiếu kỳ mà tôi gặp ở bên toa tàu ấy, cũng
có cả anh bạn đồng hành của tôi, một sĩ quan pháo binh, một chàng trai
trẻ thông minh, cởi mở và đáng yêu như tất cả những ai mà chúng ta vẫn
thường tình cờ làm quen chốc lát trên đường đi.

- Anh nhìn gì đấy? - tôi hỏi.

Anh
ta không trả lời gì và chỉ đưa mắt ra hiệu cho tôi nhìn về phía một
người phụ nữ. Đó là một cô gái còn trẻ, chừng mười bảy, mười tám tuổi,
ăn vận theo kiểu Nga, đầu để trần, chiếc áo ngoài ngắn không có ống tay
vắt qua quít trên một bên vai, chắc cô gái không phải là hành khách mà
có thể là con gái hay là em ông xếp ga. Cô gái đứng bên cạnh cửa sổ toa
tàu, và nói chuyện với một bà hành khách đứng tuổi nào đấy. Trước khi
tôi kịp tự giải thích cho mình biết rằng mình đang nhìn thấy gì thì một
cảm giác lạ lùng đã bất ngờ choán hết lòng tôi như lần tôi dừng chân lại
ở một làng người Ácmêni dạo nào.

Cô gái là một người đẹp tuyệt
vời, và không một ai nghi ngờ gì điều đó cả, tôi cũng vậy và những người
cùng tôi nhìn ngắm cô ta cũng vậy.

Nếu tả riêng từng nét như
người ta vẫn thường làm, thì cô gái chỉ có một cái đẹp duy nhất là mái
tóc dày hoe hoe vàng cuộn sóng đổ dài xuống, với một dải vải đen nhỏ
buộc ngang trên đầu; những nét còn lại thì hoặc là không chính xác hoặc
là rất thường. Không biết vì thói quen làm điệu hay vì bị cận thị, đôi
mắt cô gái cứ hơi nheo nheo lại, mũi hơi hếch lên, miệng bé, đường nét
nhìn nghiêng không nổi lắm, đôi vai nhỏ không cân xứng với lứa tuổi, tuy
vậy cô gái vẫn để lại ấn tượng của một người đẹp thực sự, và lúc ngắm
nhìn cô, tôi đã có thể tin chắc rằng một gương mặt Nga nào đó muốn được
coi là đẹp không cần phải có những đường nét chính xác, hơn nữa, thậm
chí nếu thế vào cái mũi hơi hênh hếch đó ta lại thay bằng một cái mũi
khác chính xác và hoàn thiện về mặt tạo hình của cô gái Ácmêni dạo nào
thì gương mặt cô gái đang đứng bên toa tàu kia sẽ mất đi hết vẻ đáng
yêu.

Đứng nói chuyện bên cửa sổ, hơi co ro người lại vì hơi ấm
lạnh buổi chiều, cô gái thỉnh thoảng lại quay nhìn chúng tôi, lúc thì
chống nạnh, lúc thì đưa tay lên đầu sửa tóc, cười cười, nói nói, biểu lộ
trên nét mặt khi thì sự ngạc nhiên, khi thì sợ hãi, và tôi không nhớ có
một giây lát nào mà gương mặt, toàn thân cô gái lại ở dạng bình yên,
bất động. Tất cả bí mật, huyền ảo trong vẻ đẹp của cô gái chính là ở sự
đổi thay luôn luôn, ở cái nhìn thoáng nhanh về phía chúng tôi, ở sự hòa
hợp giữa cái uyển chuyển tinh tế của những cử chỉ ấy với sự trẻ trung,
tươi mát, với tâm hồn thanh khiết lộ rõ trong tiếng cười, giọng nói, ở
cái vẻ yếu ớt mà chúng ta vẫn thường rất yêu nơi trẻ thơ, chim nhỏ, hươu
non và cây xanh mới lớn.

Đây là vẻ đẹp như vẻ đẹp của một cánh
bướm nhỏ uyển chuyển bay lượn trên khu vườn, một vẻ đẹp thật hòa hợp với
tiếng cười vui vẻ thanh thản không chút nào gợi nhớ đến những suy tư
nặng nề, những nỗi buồn bình lặng; tưởng như rằng chỉ cần một cơn gió
nhỏ bay qua trên sân ga hay một làn mưa rơi xuống là cũng đủ làm thân
hình thanh mảnh kia héo đi và vẻ đẹp mong manh ấy rụng xuống như chút
bụi phấn hoa

- Chậc... - anh chàng sĩ quan cất tiếng thở dài, khi mọi người trở về toa mình ngồi sau hồi chuông thứ hai.

Còn cái tiếng “chậc” ấy nghĩa là gì thì tôi sẽ không bàn đến.


thể là anh ta cảm thấy buồn rầu và không muốn đi khỏi chỗ người đẹp,
không muốn đi từ một buổi chiều tối mùa xuân vào trong toa tàu oi bức,
hay là có thể rằng anh ta cũng như tôi đều mơ hồ thấy tiếc cho người
đẹp, cho mình, cho tất cả những hành khách đang uể oải và miễn cưỡng lê
chân về toa tàu mình ngồi. Đi qua chỗ cửa sổ phòng làm việc nhà ga nơi
có một người điện báo viên tóc xoăn cao màu hung đang ngồi bên máy, vẻ
mặt nhợt nhạt, hai gò má nhô lên, viên sĩ quan thở dài và nói:

-
Tôi đánh cuộc với anh rằng anh chàng điện báo viên này đang phải lòng cô
gái xinh đẹp kia. Giữa đồng không mông quạnh này mà lại ở chung dưới
một mái nhà với một “tòa thiên nhiên” như thế và không mê mệt đi vì vẻ
đẹp đó thì thật là vượt quá sức chịu đựng của con người. Anh bạn tôi
này, sẽ thật là bất hạnh, thật là trớ trêu biết bao nếu một người lòm
khòm vai so, đầu bù, tẻ nhạt, đứng đắn và không đến nỗi ngu độn như thế
lại đem lòng yêu một cô gái xinh đẹp và hơi đần đần - còn cô ta thì
không mảy may để ý đến anh kia! Hay là còn tệ hơn thế nữa: anh thử tưởng
tượng xem rằng anh chàng điện báo viên này phải lòng cô gái, nhưng
trong lúc ấy anh ta lại đã có vợ và vợ anh ta cũng là một người so vai
lưng gù, đầu bù tóc rối và đứng đắn, nghiêm trang như chính anh ta...
Thật là cả một sự đầy ải!

Gần toa tàu chúng tôi, một nhân viên hỏa
xa đứng tựa tay vào bờ rào sân ga và nhìn về phía cô gái đẹp, bộ mặt xì
xị hốc hác, quá no nê và mệt mỏi vì những đêm mất ngủ, vì tàu lắc lộ rõ
vẻ dịu dàng và một nỗi buồn sâu xa, dường như hình ảnh cô gái gợi lại
thời trẻ trung của ông, gợi lại niềm hạnh phúc, những gì khỏe khoắn,
trong sạch, làm ông nghĩ đến vợ đến con, dường như ông đang ân hận và
cảm thấy trên từng đường gân mạch máu mình rằng cô gái kia không phải
của ông, rằng với cái già nua trước tuổi, sự vụng về và bộ mặt xì xị của
ông, ông ở cách xa bao nhiêu - xa như đến tận trời - đối với niềm hạnh
phúc hết sức bình thường mà những người hành khách kia vừa được hưởng.

Hồi
chuông thứ ba vang lên, có tiếng còi rít lên và đoàn tàu uể oải chuyển
bánh. Qua khung cửa sổ chúng tôi, lần lượt thoáng qua hình dáng người
nhân viên hỏa xa,ông trưởng ga, tiếp đó là mảnh vườn nhỏ rồi đến cô gái
xinh đẹp với nụ cười diệu kỳ trẻ thơ thanh khiết nở trên môi...

Tôi
nhoài người ra ngoài cửa sổ, ngoái đầu nhìn lại và thấy cô gái đưa mắt
trông theo đoàn tàu vừa đi trên sân ga, qua phía cửa sổ người điện báo
viên ngồi, cô gái đưa tay lên sửa mái tóc rồi chạy vào khu vườn. Nhà ga
không còn ngăn tầm mắt nhìn về phía Tây nữa, cánh đồng trải rộng ra,
nhưng mặt trời đã lặn, và những làn khói đen tỏa nhẹ trên những thửa
ruộng mạ non lên xanh mịn như nhung. Có cái gì buồn buồn trong làn không
khí mùa xuân, trong bầu trời đang ngả sang màu tối sẫm và trong toa
tàu.

Người nhân viên hỏa xa lúc nãy bước vào trong toa và lần lượt châm các ngọn nến lên.

___________

1. Tên Masa gọi chệch đi theo thổ âm của người Ácmêni.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3