Lê Vân - Yêu và sống - Chương 11 phần 4
rối bời nơi tôi. Thật may, như được Trời Phật phù hộ độ trì, tôi mở mắt
bừng thoát khỏi cơn quẫn trí. Một cơn quẫn trí mang màu sắc lãng mạn:
“Chúng mình yêu nhau và có với nhau một đứa con, như là một kỷ niệm
chẳng thể nào quên được. Giờ anh hãy quay về với bổn phận làm chồng làm
cha của anh đi, thỉnh thoảng chúng mình gặp nhau, thế cũng là đủ cho em
rồi. Hãy tạm bằng lòng với số phận vậy…”
Không còn nghi ngờ gì nữa,
nếu quyết định sống với chồng, tôi sẽ kéo theo hàng loạt sai lầm lớn
trong suốt quãng đời còn lại Trước tiên, tôi sẽ là người có tội với con
tôi.
Cuộc đời tôi và con sẽ trở nên lệch lạc, méo mó. Chúng tôi sẽ
suốt đời phải sống dưới sự ban ơn rộng lượng của chàng. Ai mà biết
được, lúc nào đó quẫn trí lên, chàng lại không moi móc chuyện xưa, làm
khổ đứa bé.
“Không, mẹ không thể nào hành động như vậy được con
ơi! Con không có tội. Tội là do mẹ, mẹ phải chịu. Con có cha, con phải
được gọi cha. Con sinh ra bởi tình yêu của cha mẹ, con có quyền được
hưởng tình yêu của cả cha lẫn mẹ”
Như gạt bỏ được đám mây đen bao
phủ bấy lâu, tôi quyết định: Phải dũng cảm lên Vân ơi. Dũng cảm nhìn
thẳng vào sự thật. Dũng cảm chấp nhận sự trừng phạt của lương tâm, của
dư luận người đời. Vân đã yêu thì Vân phải biết chấp nhận.
Đến
giờ, tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh của mình, một bà mẹ hiếm muộn cô
đơn nuôi con trong lúc không chính thức, lòng tràn ngập mâu thuẫn. Vừa
xót xa thương cảm cho chồng (giá anh phũ phàng thì mọi chuyện lại dễ
dàng), vừa hoang mang bối rối giằn vặt mình, lại vừa thấy tội nghiệp đứa
con bé bỏng vô tội. Thêm vào đó là nỗi nhớ thương khắc khoải người đàn
ông đã cho mình đứa con của đam mê. Ru rú trong căn buồng nhỏ dành cho
bà đẻ, ôm con trai trong ánh sáng lờ mờ, tôi phát điên đầu lên vì bế
tắc. Lắm lúc tặc lưỡi, kệ thây đời. Nghĩ mãi chẳng biết đi lối nào.
Cuối
cùng, tôi ngộ ra, con đường sáng duy nhất là hành động vì quyền lợi của
đứa bé vô tội. Gạt những thứ như tình yêu, tình nghĩa, danh dự, lòng sĩ
diện… của đám người lớn tăm tối hão huyền chúng tôi sang một bên. Không
thể vì muốn che dấu một lỗi lầm này mà phải bắt đầu một lỗi lầm khác.
Cứ luẩn quẩn loanh quanh, tôi sẽ phải sống cả đời trong dối trá thì thật
kinh khủng. Vâng, tôi đã sẵn sàng chấp nhận. Tôi đủ sức để chịu đựng
tất cả sự trừng phạt.
Nhìn con trai bé bỏng ngây thơ ngủ ngon lành
vô tội thế, tại sao tôi lại có thể đẩy bé đến một tương lai sai lầm!
Tại sao bố đẻ không được gặp con? Tại sao lại bắt bé phải nhận một người
dưng làm bố? Bé phải được hưởng tình yêu chính đáng của bố đẻ. Lẽ đời
đơn giản thế, sao tôi cứ tự đẩy mình vào cơn khủng hoảng u mê loạn trí
này!
Tuy thế, chàng nhất định không chịu viết đơn. Hay có lẽ,
chàng cũng chẳng có khả năng viết một lá đơn cho đủ ý, gãy gọn, đàng
hoàng. Chàng buông một câu dằn dỗi: “Anh không viết, nếu em muốn li hôn
thì em đi mà viết”. Tôi đành cầm bút thảo lá đơn li hôn với chàng. Một
lá đơn đẫm nước mắt.
Cầm bút, tôi ngẫm nghĩ, viết thế nào đây? Có
hai cách: Một là, thôi thì sự việc đã vậy, chẳng cần vạch áo cho người
xem lưng, sẽ viết như tất cả mọi người vẫn viết với lý do chúng tôi
không hợp nhau, không yêu nhau nữa nên cùng nhau đi đến quyết định chia
tay. Đó là cách đỡ bêu riếu nhau nhất. Nhưng tôi lại nghĩ viết như thế,
nhỡ lúc ở tòa, chàng lại cười khẩy rằng cô ta nói dối, cô ta lừa cả tòa
đấy, cô ta đi ngoại tình rồi về đòi bỏ tôi, chứ không phải vì hòa hợp
hay không hòa hợp gì cả. Cho nên tôi chọn cách thứ hai là nói hết sự
thật. Không có gì thuyết phục hơn sự chân thành. Thường thường, người ta
hay đồng cảm với thân phận người phụ nữ cho dù họ có lỡ lầm. Tôi đoán
vậy. Cho nên, mình phải viết một cách chân thành nhất. Có thế nào nói
đúng như thế.
Không sợ bị đánh giá, chắc người ta sẽ thương cảm,
giải quyết cho ly hôn, chứ không cố gắng hòa giải, hàn gắn. Tôi thảo lá
đơn ấy trong nước mắt bởi tôi viết nó bằng tất cả sự chân thành từ trái
tim.
Vào lúc thuận tiện, tôi đưa anh đọc lá đơn để ký. Chàng buột
miệng: “Sao em đại thế. Nói thế nào chả được. Sao em lại đi nói thật hết
thế này?”
May làm sao, chàng vẫn “ngoan ngoãn” cùng tôi ra tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội. Bản chất của chàng là người tốt, hiền lành,
không thủ đoạn. Có lẽ chàng cũng nghĩ ngợi, đau khổ đến đờ đẫn đi rồi.
Khi biết chẳng còn đường nao lùi nữa, bị đặt vào tình huống dở khóc dở
cười như thế, chàng đành phải ký vào đơn ly hôn.
Hôm chia tay, hai
chúng tôi đến tòa từ hai ngả khác nhau, như hai kẻ xa lạ. Lặng lẽ,
chúng tôi ngồi đối diện với vị thẩm phán, nghe họ đọc lá đơn. Tôi vô
cùng hồi hộp và lo lắng. Bỗng tiếng người thẩm phán cất lên:
“Anh có nhất trí với những điều chị Lê Vân trình bày trong đơn không?”
“Có đúng đứa con trình bày trong đơn là con riêng của chị Vân không?”
“Đúng”.
“Như vậy khẳng định cháu bé không phải là con của anh đúng không?”
“Đúng. Nó không phải là con tôi”
Tôi ngồi như bất động, nín thở.
Chàng
có thể thay đổi ý kiến vào phút chót, không đồng ý thì sao? Ngẫm lại,
đời tôi may mắn toàn gặp những người tử tế. Trong trường hợp này, chàng
đã rất sững sờ, chẳng kịp phản ứng trước nỗi đau bàng hoàng. Chàng không
bao giờ có thể tưởng tượng nổi đến một ngày lại phải đưa nhau ra tòa
như thế này. Cuối cùng, vị thẩm phán tuyên bố: “Tài sản đã tự thỏa
thuận, con chung không có, nếu sau mười lăm ngày không ai kháng án,
không cần phải lập phiên tòa nữa, chúng tôi sẽ ra quyết định ly hôn”.
Tôi và chàng ra khỏi tòa án, mỗi người rẽ đi một lối, lặng câm.
Hai
tuần sau, tòa gọi chúng tôi lên đưa quyết định ly hôn. Chàng chẳng
thiết nhìn thấy nó. Tôi giữ cả bốn tờ cho tôi và cho chàng. Hi vọng một
lúc nào đấy chàng sẽ cần đến nó.
Và thế là tôi được tự do.
Được
tự do, tôi như người trút được một cái gánh nặng trĩu, cái gánh tôi
mang từ lúc có bầu cho đến lúc sinh con, cái gánh làm tôí căng thẳng
thần kinh, rời rã thể xác.
Cảm giác tự do thanh thản từng chút một
trở về, từng chút một trả lại cho tôi sự an bài, tĩnh tâm, tĩnh trí. Có
được điều này là nhờ có con trai tôi. Chỉ có con trai tôi là hiện thực.
Bận bịu với con, vui đùa với con, hạnh phúc đó bù đắp cho tôi tất cả
những thứ trìu tượng, hão huyền như danh vị, sự nổi tiếng hay thậm chí
là phẩm giá. Con trai ruột thịt của tôi thực sự đã làm tôi biến đổi.
***
Tôi
đã khao khát biết bao có một gia đình hạnh phúc, một mái ấm đi về, nơi
có người vợ chăm chỉ thảo hiền, có người chồng trách nhiệm thương yêu và
những đứa con ngoan đẹp thiên thần… Tôi đã mơ về ngôi nhà ấy trong suốt
tuổi thơ bơ vơ, câm nín. Tôi thầm gọi tên ngôi nhà ấy, đau đáu nghĩ về
nó trong mười năm bóng tối của mối tình vụng trộm tội lỗi. Tôi cật lực
làm lụng như con ong cái kiến hàng ngày chắt chiu tình yêu cho gia đình
mơ ước ấy trở thành hiện thực. Và hiện thực ấy đã đến, vào một ngày đẹp
trời, khi hai mẹ con đáp máy bay xuống thành Rome cổ kính xinh đẹp, nơi
có người đàn ông mạnh mẽ dang rộng cánh tay đón chúng tôi vào lòng che
chở.
Để đón hai mẹ con sang, anh đã cực kỳ chu đáo, sắp đặt mọi kế
hoạch, mọi tình huống giúp tôi hòa nhập với cuộc sống xa quê hương. Anh
tìm thuê căn hộ gần công viên cho tôi dễ dàng đẩy bé ra vườn hoa cây
xanh gặp gỡ những người mẹ khác, những đứa trẻ khác. Phòng khi anh đi
làm xa, tôi vẫn có thể đưa con đi chơi được chứ không đến nỗi phải chờ
anh về. Nơi chúng tôi ở thật đẹp và tiện nghi. Từ nhà, tôi chỉ cần đi bộ
một dãy phố là đến khu chợ đầy những rau quả tươi của những người nông
dân mang đến bán. Tìm được một nơi như thế không dễ vì thông thường
người ta đi siêu thị mua đồ ướp lạnh. Anh biết, ở Việt Nam, tôi rất
thích mua rau quả tươi. Hàng ngày, anh đi làm sớm, sẩm tối mới về. Hai
mẹ con ở nhà chơi với nhau. Đến gần giờ anh đi làm về, hai mẹ con lại
đẩy nhau từ công viên về chuẩn bị đón bố. Chiều xuống, đó là lúc không
khí gia đình ùa về rất rõ, rất ấm cúng, là khoảnh khắc mọi người sau một
ngày làm việc lại mơ ước trở về tổ ấm của mình để sum vầy, nghỉ ngơi.
Và đó cũng là cái không khí tôi ao ước thèm khát bao nhiêu năm…
Giờ
đây, tôi đang có một mái ấm thân thương của mình. Chiều chiều, hai mẹ
con lại ra đứng ngóng bố từ cửa sổ tầng ba. Nhìn xuống sân, chốc chốc
lại thấy một chiếc xe con tiến vào len lỏi tìm chỗ đậu, rồi một người
đàn ông bước ra cùng tiếng cửa xe đóng sầm mạnh mẽ. Đã có một người đàn
ông trở về. Nhiều chiếc xe trở về như thế mang theo những người chồng,
người cha về với mái nhà ấm cúng. Hai mẹ con chờ một lát rồi cũng nhìn
thấy màu xe xanh sẫm của nhà mình trở về. Người đàn ông của nhà mình
bước ra. Tiếng cửa xe của nhà mình đóng sầm. Anh bao giờ cũng về muộn.
Anh bao giờ cũng ngẩng lên ngay sau đó. Anh bao giờ cũng cười thật tươi
với hai mẹ con đã chờ ở ngoài hành lang vẫy bố rồi. Những cử chỉ nhỏ
thôi nhưng vô cùng trìu mến mà bao nhiêu năm tôi mơ ước, thèm khát. Bây
giờ tôi đã được đúng như thế, thậm chí còn hơn thế.
Thời gian sống
ở Ý, tôi được chứng kiến một sự kiện đặc biệt: Ngày Nhật thực, một hiện
tượng bốn mươi năm mới có một lần. Họ thông báo, vào ngày 11 tháng 8
năm 1999, đúng vào lúc 11 giờ 30 phút sáng, bầu trời sẽ trở nên tối đen
như ban đêm, nhật thực sẽ kéo dài khoảng hai tiếng, mọi người sẽ được
chứng kiến cảnh mặt trời bị che khuất. Thông tin này còn đi kèm với một
lời đồn đại. Có một nhóm cực đoan hồi giáo nào đó tiên tri giờ đó chính
là ngày tận thế! Tôi không tin nhưng cứ bị ám ảnh bởi lời đồn thổi và
không tránh khỏi nỗi lo lắng hồi hộp. Tờ báo còn nói rõ: Có một tổ chức
những nhà khoa học tiên tri nhóm họp tại Hà Lan về ngày tận cùng của thế
giới?
Tôi bị “nhiễm” tin đồn đến nỗi cái đầu óc hay bị tiểu
thuyết hóa của tôi mới tưởng tượng, nếu điều đó là sự thật, nếu trong
tích tắc, mọi thứ bị xóa sổ, biến mất thì kinh khủng quá? “Có nghĩa là
chúng ta có thể không bao giờ gặp lại nhau nữa hả anh? Và em sẽ mãi mãi ở
lại nơi này ư?” Tôi lo lắng hỏi anh. Anh nghĩ tôi nói đùa. Anh không
biết rằng, trong cái sự đùa ấy, chắc hẳn phải có hơn một phần trăm là
nỗi lo lắng thật.
Khi cái ngày đặc biệt ấy đến, bầu trời đang sáng
sủa bỗng tối đen, tôi bế ngay con ra hành lang xem. Một màn đêm đen kịt
bao phủ toàn thành phố. Tôi ôm chặt con trai vào lòng với bản năng che
chở. Tôi nghĩ đến anh. Giờ này anh đang ở mãi tận châu Phi. Nghĩ đến lá
thư viết cho anh ban sáng. Tôi miêu tả cảm xúc của mình, nó bồn chồn,
bồi hồi, lo lắng, cứ như là chuẩn bị cho một cuộc chia tay vĩnh viễn.
Tôi bày tỏ nỗi nuối tiếc, không lẽ, vừa mới được hưởng niềm hạnh phúc
lớn lao thế này, nay tôi lại phải biến mất cùng ngày tận thế, không bao
giờ nhìn thấy anh nữa hay sao!…
Hết Nhật thực, anh gọi điện về
nhà, mọi thứ trở lại bình thường. Nếu đọc lá thư đó, anh sẽ thấy tôi
thật là điên rồ. Điên vì đau khổ đã đành, đôi khi người ta còn điên vì
hạnh phúc nữa. Anh không biết, suốt hai tuần anh đi vắng, tôi và con
chiều nào cũng vẫn ôm nhau đứng ở ban công đợi. Biết rằng, chẳng có cái
xe màu xanh ấy của nhà mình về đâu, nhưng cứ ngóng đợi thế thôi Như một
thói quen, một niềm hạnh phúc lặng lẽ. Mà biết đâu đấy, một phép lạ sẽ
đến, anh bỗng trở về…, một phép lạ dành cho những người biết chờ đợi.
Có
con, sống với anh, tôi thực sự được làm người đàn bà đúng nghĩa. Hàng
ngày chỉ quẩn quanh chăm lo nhà cửa, con cái, cơm nước… Hoặc ở Việt Nam
hoặc bế con sang thăm anh, ở với anh nhiều nhất là ba tháng. Trong suốt
nhiệm kỳ ba năm của anh ở Ý, hai mẹ con cứ đi đi về về như thế.
Rồi
chúng tôi có thêm một con trai nữa. Việc nhà dường như nhiều lên gấp
ba. Khoảng thời gian sống ở nước ngoài, không có người giúp việc, tôi
phải luôn chân luôn tay từ sáng tới chiều tối. Trẻ con không được chạy
nhảy ra ngoài chơi nhiều nên chúng thả sức nghịch ngợm phá phách trong
phòng. Một cậu lên năm, một cậu lên ba, chúng chưa tự ăn được. Tôi phải
cho chúng ăn. Chơi với chúng. Mãi đến mười giờ tối, khi chúng đi ngủ,
tôi mới được thở phào, rồi lại tiếp tục dọn dẹp.
Tôi muốn, sáng
hôm sau, khi anh thức dậy, đã thấy nhà cửa gọn gàng rồi. Sau đó, mới đến
lượt mình đi tắm giặt thay đồ, ngồi xả hơi xem một chút gì đó giải trí.
Đó là khoảng thời gian tự do rất ngắn cho riêng mình.
Tôi luôn ý
thức thu xếp nhà cửa tươm tất gọn gàng, để khi anh đi làm về, nhìn thấy
một căn phòng sạch sẽ ngăn nắp, anh sẽ hết mệt mỏi. Và cả nhà sẽ quây
quần bên mâm cơm đơn giản nhưng hợp ý… Nhưng cứ vừa dọn xong chỗ này thì
hai ông tướng con lại bầy ra chỗ khác. Lắm lúc cứ choáng váng cả người.
Loáng cái đã sáu giờ chiều. Bỗng tiếng chuông cửa réo lên. Anh đã về
rồi ư? Tôi phát hoảng thấy công việc nhà cửa chưa đâu vào đâu cả… tôi
chẳng biết làm gì trước làm gì sau nữa. Chỉ cảm thấy đuối sức, buồn bã
và mệt đứt hơi. Cứ thế này thì chết mất. Tôi ngồi thừ người, bất lực.
Anh về, thấy tôi im lặng chẳng chạy ra đón, đoán chắc có chuyện gì, bèn
hỏi han. Tôi bỗng òa ra nức nở. Bọn trẻ con trố mắt nhìn không hiểu sao
mẹ lại khóc. Anh bật ti vi cho trẻ con xem, kéo tôi ra ghế, bảo tôi ngồi
vào lòng anh và dỗ dành: “Em ngồi xuống đây anh nói cho em nghe, anh
rất hiểu và chia sẻ với công việc của em ở nhà. Nếu cho anh làm một phút
thôi chắc anh phát điên lên chứ đừng nói gì làm từ sáng đến tối quần
quật như thế. Em đừng bao giờ nghĩ rằng, anh là người đi làm kiếm tiền
nuôi vợ con nên công việc của anh mới là quan trọng. Đừng bao giờ quan
niệm như vậy. Nếu bắt anh ở nhà, làm công việc của em, anh khẳng định là
anh không thể làm được. Đây cũng là cách em hi sinh tất cả để chăm con,
anh không bao giờ dám coi thường”. Cũng may, anh là người tâm lý, hiểu
ngay được sự khủng hoảng của tôi để mà chia sẻ, thông cảm. Nghe anh nói,
cơn xúc động của tôi dịu di. Rõ ràng, anh có thiên chức của người bố và
tôi có thiên chức của người mẹ, không ai làm hộ ai được.
Hạnh
phúc chỉ đến khi người ta biết tôn trọng nhau và giúp đỡ nhau thực hiện
cái thiên chức của mỗi người. Hết nhiệm kỳ làm việc ở Ý, anh nhận công
tác ở nước CHDCND Triều Tiên. Ở đó, điều kiện sống khắc nghiệt, nhưng
may là gần Việt Nam. anh được về thăm mấy mẹ con tôi nhiều hơn. Lần đầu
tiên đón ba mẹ con đến Triều Tiên chơi, anh lo tôi có thể bị sốc nặng.
Tôi bảo, không sao đâu, tôi đã trải qua cái thời kỳ bao cấp khó khăn như
vậy ở Việt Nam rồi. Anh dặn tôi phải cẩn thận, có nói thì chỉ nên nói
những chuyện thông thường, tốt nhất là đừng đả động gì đến chuyện chính
trị. Ở đây, người nước ngoài bị quản lý rất chặt, đi đâu cũng phải xin
phép, hệt như một thời ở Việt Nam, nhìn thấy người nước ngoài nào cũng
bị ám ảnh họ là gián điệp. Ở Triều Tiên, tôi gặp lại bầu không khí quen
thuộc như ở Việt Nam cách đây mấy chục năm. Không điện đóm, đường phố
tối om. Người dân ăn mặc toàn quần áo sẫm màu, chắc là không có đủ xà
phòng. Trong cái thành phố không ánh sáng ấy, dân chúng vẫn phải đi lại
dò dẫm chậm chạp, thành thử trông họ như những bóng ma không trọng
lượng. Nếu mình không quen, không cẩn thận, mình sẽ đâm vào họ. Còn họ
thì quen rồi, họ hòa mình vào bóng tối. Họa hoằn mới có một luồng sáng
vút qua từ một chiếc xe hơi.
Cứ cuối tuần, đồng nghiệp của anh lại
bay qua Hồng Kông giải trí. Đã có một số người nước ngoài làm việc ở đó
bị phát điên vì quá căng thẳng. Giống như Việt Nam ngày xưa, sự căng
thẳng luôn bao trùm lên bầu không khí xã hội. Dân chúng bị biến thành
những con người sống chẳng giống ai, có lẽ giống như người ngoài hành
tinh. Không bao giờ đủ điện thắp sáng. Mùa đông chắc là rất khó để chống
chọi với những cơn giá buốt. Người dân sống trong những căn hộ cao mười
mấy tầng không thang máy, là hình bóng xa xôi còn lại của cái thời được
Liên Xô bao cấp. Khó khăn, thiếu thốn và bị kìm hâm nhiều bề. Đến đây
rồi ngẫm lại, ở Việt Nam bây giờ thời mở cửa, mọi thứ thay đổi đến chóng
mặt, được thoáng đãng hơn nhiều. Chính người Bắc Triều Tiên đã nhắc nhở
tôi biết quí giá những gì tôi đang có hôm nay.
***
Nhờ thỉnh thoảng bồng bế con ra nước ngoài sống với anh, tôi khám phá thêm nhiều điều mới mẻ của chính tâm hồn mình.
Không
ít lần, tôi băn khoăn, liệu tôi có thể định cư ở nước ngoài được không
khi mà thời điểm đó đến? Nếu buộc phải theo chồng con đến sống nơi đất
khách quê người, tôi sẽ bị cô đơn như thế nào? Cứ nghĩ đến cái ngày phải
đi khỏi Việt Nam thì thấy hoảng sợ. Bởi tôi biết, tôi không thể nào hòa
nhập được với cuộc sống ở nước ngoài. Ở đó, tôi sẽ buồn lắm. Sẽ không
biết trò chuyện với ai. Con mình sẽ hòa nhập vào cuộc sống ở đó, thành
những con người ở đó. Chồng mình và con mình sẽ không còn là đồng loại
của mình, sẽ có một khoảng cách mà họ không thể chia sẻ hết với mình
được.
Họ sẽ không hiểu tại sao mẹ lại có thể nhớ đến thẫn thờ cái
heo may của mùa thu Hà Nội, vị chua của bát nước rau muống luộc dầm sấu,
hay là vị cay đặc biệt của một bát bún riêu cua của bà già đầu ngõ. Sao
mẹ lại khóc khi nghe một bài hát xưa, một giọng ca cũ… Chưa gì tôi đã
hỏi anh, nếu sau này, em và con đi theo anh rồi, khi em chết, anh sẽ
chôn em ở đâu? Nếu mang em về Việt Nam, anh và con sẽ không được năng
lui tới thăm em, nếu để em lại một cái nghĩa trang xa lạ nào đấy, thì em
sẽ mãi mãi cô đơn ư? Thật là lạc lõng nơi đất khách quê người cả khi
sống lẫn khi chết. Đây là điều mà tôi có thể khẳng định.
Sống với
người nước ngoài có cái thiệt thòi là mình không thể rút ruột rút gan mà
nói cho họ hiểu và thông cảm hết những điều vui buồn của mình. Người ta
có thể mường tượng thôi chứ không bao giờ biết được mình buồn ra sao,
cô đơn thế nào, tủi hận thế nào. Đấy là một thiếu hụt lớn, bù lại, mình
được một điều khác. Chính vì người ta không thể tìm hiểu cặn kẽ mình
được, nên không thể đào sâu vào cuộc đời mình. Như vậy, mình còn có một
bức ngăn nào đó, khoảng cách tự do nào đó cho riêng mình. Mình không thể
thổ lộ hết bởi có nói người ta cũng không thể hiểu được. Như vậy mình
lại giữ được một điều gì đó chỉ thuộc về riêng mình thôi.
Không
biết những người khác lấy chồng nước ngoài hay sống ở nước ngoài cảm
thấy thế nào, nhưng tôi, còn cả vì đứng chữ Mậu, tôi biết tôi sẽ phải cô
đơn. Nói cái nghĩa cô đơn ở đây nó không hoàn chỉnh không đúng, vì bên
cạnh vẫn có chồng và hai con trai ruột thịt thì tại sao lại bảo là cô
đơn.
Nhưng con người có bao giờ chịu dừng lại, biết đâu nó lại còn khao khát những gì nữa còn hơn cả chồng, hơn cả con.
Ví
dụ như khao khát đồng loại, thèm nghe tiếng đồng loại mình chẳng hạn!
Ngay từ bây giờ, tôi đã có ý thức sưu tầm những cuốn sách tiếng Việt,
những băng đĩa nhạc Việt tôi thích để dùng cho mai sau. Để trong cái
không gian lạc lõng ấy, tôi vẫn nghe thấy đâu đây tiếng mẹ đẻ của mình
bằng cách tua đi tua lại cái bài hát ấy, băng nhạc ấy… Trong những cuốn
sách mang theo, nhất định phải có hai cuốn Doctor Jivagor và Nỗi buồn
chiến tranh. Đó là hai cuốn sách mà tôi có thể đọc đi đọc lại nhiều lần,
lần nào cũng vẫn cảm thấy đau một nỗi đau thăm thẳm kéo dài, một nỗi
đau nâng tâm hồn con người vượt thoát lên trên những nỗi buồn đau vụn
vặt hàng ngày. Hình như, khi tâm hồn càng hướng nội, càng giầu có thì
càng cảm nhận sự cô đơn sâu sắc hơn. Sống giữa Roma, thành phố đẹp như
một bảo tàng nghệ thuật, vậy mà tôi, một người mê kiến trúc, lúc nào
cũng chỉ muốn nhìn ngắm, học hỏi về kiến trúc, sao vẫn thấy thiếu vắng…
Thành
thực mà nói, tôi vẫn chưa dám mở to mắt để nhìn thẳng vào cái kết cục
đời mình: nhiều phần sẽ bị cô đơn nơi đất khách quê người. Những điều
tôi nói đây không hề vội vàng bởi tôi đã có ý thức thừ nghiệm cảm giác
của mình.
Tôi không thể hiểu hết được tại sao người nước ngoài lại
xử sự như vậy, tại sao lại sống như vậy. Họ có một nền văn hóa khác,
mình bị đặt vào đó, làm sao mình tránh khỏi cảm giác lạc lõng bơ vơ?
Hiển nhiên, mình là một kẻ xa lạ giữa đồng loại của họ. Vô hình chung,
tự mình sẽ khép mình lại, thế là rơi vào khoảng cô đơn của riêng mình.
Sẽ rất khó giao tiếp với người khác khi mình đang phải sống cuộc sống
khác hẳn với đồng loại của mình. Giống như một cái cây bị đào lên đem
trồng vào một vùng đất khác, cây càng lâu năm, càng to bao nhiêu thì
càng khó sống ở vùng đất mới bấy nhiêu… Đó là điều tôi thấu hiểu sâu sắc
mà chưa dám nói ra với anh.
Xa nhau thì khao khát gặp nhau, mong
bồng bế con đi đoàn tụ gia đình, không có gì vui bằng được ăn với nhau
bữa cơm hàng ngày như thứ hạnh phúc gia đình giản dị nhất, nhưng chỉ
được hai tuần đầu, đến tuần thứ ba, tôi hoảng hốt nhận thấy, hình như
chồng không đủ và con cũng không đủ. Như đọc được tâm hồn tôi, nhiều
lần, anh ướm hỏi: “Em có chắc chắn rằng em sẽ không bị hẫng hụt như Vi
không?”. Cô Vi hăm hở theo chồng đi Pháp cho một cuộc sống đoàn tụ gia
đình. Cũng xác định thế nọ thế kia, mà rồi chỉ được một thời gian, lại
như điên như rồ, cô gào lên trên điện thoại: “Đừng ai khuyên ngăn gì em
hết, cả bố mẹ và các chị, em phải về đã, muốn khuyên gì thì khuyên sau,
nếu cứ để em ở đây em sẽ phát điên mà chết”. Anh nhìn thấy cái gương đó
nên lo lắm. Ai biết trước được cái gì sẽ xảy ra?
Anh bảo, nếu xác
định định cư ở Hà Lan thì phải lên một kế hoạch từ bây giờ. Phải suy
nghĩ thật chín chắn, chứ không thể một sớm một chiều mà di chuyển ngần
ấy con người về lại Việt Nam được. Tôi an ủi anh rằng: “Ở tuổi này, từ
khi có con em thay đổi rất nhiều, làm cái gì lớn hay nhỏ, đầu tiên là em
nghĩ đến lợi ích của hai con. Và em phải xác định một cách không bồng
bột, em sẽ hi sinh nốt quãng ngày còn lại của đời mình cho hai con. Chắc
chắn là như vậy, bản năng người mẹ mách bảo em thế. Người mẹ nào cũng
có cái bản năng ấy. Con nó còn nhỏ như thế, nó cần một chỗ dựa, cần
người chở che dẫn dắt, vậy thì mình còn tiếc gì cái tuổi già của mình mà
không hi sinh nốt cho hai đứa con thơ dại! Em muốn được tự nguyện dâng
hiến nốt”. Đương nhiên, chẳng ai đòi hỏi sự hi sinh này. Cho dù sau này,
chính những đứa con tôi bảo, nó không dám đòi hỏi điều đó.