Lê Vân - Yêu và sống - Chương 10 phần 2

Không chỉ ngại dư luận mình chạy theo Việt kiều, thậm chí tôi
còn cảm thấy ngượng và xấu hổ nữa. Tôi biết là dân Hà Nội sẽ chụp cho
tôi cái mũ ấy. Trong thâm tâm thấy xấu hổ mà không hiếu tại sao lại xấu
hổ. Nhưng đã trót yêu rồi, không lẽ vì ngại dư luận mà phải từ bỏ tình
yêu của mình hay sao! Thậm chí tôi còn nghe đâu đó rằng: “Lũ con trai
chúng mày chết hết cả rồi hay sao mà để con Vân nó đi lấy một cái thằng
Việt kiều vô danh tiểu tốt?”. Mẹ tôi còn nặng lời hơn: “Bao nhiêu thằng
trí thức, học thức yêu thì lắc đầu nguầy nguậy, đi đâm đầu vào cái thằng
bụi đời”. Đối với dân Bắc, “Việt kiều” chẳng là gì. Thời đó, cái “mác
Việt kiều” là một cái gì đó rất có giá với dân Nam. Muốn chinh phục được
dân Bắc thì phải có trí tuệ, bằng cấp, địa vị xã hội. Câu nói của ai đó
vô tình khía vào nỗi đau của cả một lớp kẻ sĩ miền Bắc, mà người tình
đầu của tôi là một thí dụ. Anh đã biết thế nào là nhục vì không kiếm nổi
tiền nuôi vợ nuôi con. Mặc dù anh là trí thức, được ăn học đàng hoàng.
Nhưng cái đồng lương trả cho “thằng” trí thức rẻ mạt quá, nuôi cái thân
còn không xong, thành ra hèn lúc nào không biết!

Sau này, bước
quyết định khiến tôi ngả hẳn về người tình thứ hai xuất phát từ một lý
do thẳm sâu chỉ mình tôi hiểu. Một lần nữa, tôi lại yêu một người đàn
ông đã có vợ con gia đình đầm ấm. Có điều, vợ con chàng ở mãi một phương
trời khác những cảnh tan cửa nát nhà không hiện diện trước mắt tôi.


khi không nhìn thấy nỗi đau của người ta thì tôi cũng đỡ bị giày vò
hơn. Còn với mối tình đầu, tôi luôn thấy sự hiện diện của những con
người vô tội ngay bên cạnh mình, luôn mang cái gánh nặng của tội lỗi.
Mặc dù, vào thời điểm đó Người ấy đã được tự do và luôn mở rộng cánh cửa
đón tôi về…

***

Vâng, Người ấy vẫn hi vọng một ngày nào đó
tôi sẽ quay về. Anh không cố níu giữ tôi, anh tin sớm muộn tôi sẽ nhận
ra tình yêu với anh mới là tình yêu máu thịt, tình yêu với chàng lãng tử
chỉ là sự bồng bột chốc lát mà thôi.

Thỉnh thoảng, nhân dịp nào
đó vì công việc, chàng Việt kiều mới về lại Việt Nam. Chúng tôi gặp nhau
ở Hà Nội chứ không phải ở Sài Gòn nữa. Và tôi có một quan niệm, hãy thử
sống với nhau đi, hiểu nhau, giữ được sự tử tế với nhau mới quan trọng,
tờ giấy đăng ký kết hôn chẳng nói lên gì nhiều, chẳng thể giữ nhau lâu
dài. Tôi không yêu cầu chàng bỏ vợ. Tôi muốn tạo ra một hướng mở như thế
cho cả hai…

Thời gian đầu, mỗi lần ra Hà Nội, chàng phải về Phan
Đình Phùng ở. Chả nhẽ lại ra khách sạn ở, mà đâu đã công khai được vì
tôi chưa phải vợ người ta. Thời đó, mọi người sợ công an lắm. Sống với
gia đình tôi, chàng chứng kiến năm con người sống trong một cái phòng
hai tư mét vuông, tôi và Khanh sống trên gác xép, đứng lên một cái là
cụng đầu, nhà có khách là mọi người phải rút hết lên gác xép, hoặc chạy
sang nhà hàng xóm. Hàng ngày, chúng tôi phải xếp hàng để tắm, xếp hàng
hứng nước, xếp hàng đi vệ sinh. Rồi những tiếng cãi cọ chửi bới từ mỗi
gia đình vọng ra tất cả đều phải nghe. Những mâu thuẫn riêng tư của từng
cá nhân cũng trở thành những tin tức nóng hổi cho cả cộng đồng dân cư
dò đoán bàn tán. Sự đụng chạm, va chạm căng thẳng từng giây từng phút
khiến con người ta trở nên nhỏ nhen, ích kỷ và tàn nhẫn. Chàng kêu lên:
“Trời ơi, sao nghệ sĩ Miền Bắc khổ thế!”. Chàng bảo: “Xin lỗi em, anh
không thể đi cầu được. Vì nhà cầu không có cửa, mà bao nhiêu người xếp
hàng”. Suốt ngày diễn ra cái cảnh bi hài, nghe tiếng người bên ngoài lẹt
quẹt dép thì người bên trong dặng hắng e hèm đánh tiếng có người. Chàng
phải đi vệ sinh công cộng rồi trả tiền.

Một lần, chàng mời cả nhà
tôi đi chơi Quán gió công viên Thống Nhất. Ở đây có bán cà phê loãng và
nước sen dừa, những đồ uống khá xa xỉ so với món chè đỗ đen giải khát
duy nhất thời đó. Lần đầu tiên ra Quán gió, được hưởng gió hồ mùa hè mát
như quạt hầu, mẹ tôi thốt lên: “Trời ơi, cả đời tôi chỉ ước ao có một
nơi nào đó để được hưởng cái không khí trong lành yên tĩnh như thế này”.
Câu nói bâng quơ của bà lọt vào tai chàng, chàng ghi nhớ với tình cảm
thương xót chân tình. Vì thế, chàng mới động lòng trắc ẩn bảo: “Mỗi lần
đưa khách về Việt Nam du lịch thăm thân, để dành được một ít tiền, chúng
mình tiết kiệm chứ không tiêu vung đi nữa. Em ở đây thử xem có nơi nào
có thể tạm ở được thì mua, ít tiền thôi nhưng phải được riêng biệt”.

Từ
đó, chàng có ý thức gửi tiền nhờ tôi giữ hộ, cho đến lúc vừa xoẳn mua
được miếng đất của một gia đình đông con. Họ buộc phải bán đi để chia
năm xẻ bảy. Vì chẳng ai trông nom nên nó tối thui những cây với muỗi.
Miếng đất nằm ở một vị trí sâu hút, đã rẽ vào ngõ, lại quặt vào ngách,
rồi lại quẹo nữa không biết gọi là gì. Nhưng nhà mình thì sướng quá, ban
đầu chỉ có cái nhà cấp bốn dột nát, nhưng nó là của riêng mình. Chàng
bảo, cố gắng thiết kế thật đơn giản, một tầng thôi. Rồi xây một cái
toilet chung cho cả nhà. Nghĩ bụng, sáu ba người một cái còn được cơ mà.
Đây lại còn có cả lavabo bằng sứ trắng để đứng đánh răng rửa mặt thì
đúng là thiên đường. Chàng cũng xác định là xây với một chi phí thấp tối
đa vì làm gì có tiền mà xây. Làm sao cho mỗi người có một khoảnh không
gian nhỏ nhưng riêng biệt. Bếp thì dùng chung. Vì tất cả là chung một
nhà, y như ở Phan Đình Phùng.

Chàng nói ý định đó, hoàn toàn xuất
phát từ tình cảm, mong làm được một cái gì đó cho gia đình người chàng
yêu thương đỡ khổ, chứ không phải có nhiều tiền để mà vung vẩy. Ai ngờ
đâu, bạn tôi, một kiến trúc sư tài hoa mang nhiều chất nghệ sĩ, anh
Đoàn, giảng viên trường đại học xây dựng, lại vẽ tặng cho một cái nhà
không đơn giản chút nào. Anh bảo, lần dầu tiên vẽ nhà cho nghệ sĩ, anh
muốn thiết kế một cái nhà không giống ai. Một ngôi nhà không to nhưng ấm
cúng và có nét riêng. Người thiết kế bao giờ cũng muốn thực hiện được
trọn vẹn ý tưởng, không lẽ mình lại nói, tôi không đủ tiền đâu, cần phải
cắt chỗ này chỗ kia đi à? Tôi đành chấp nhận: “Thôi được, em sẽ cố gắng
theo thiết kế của anh, nhưng cũng phải làm dần dần thôi”. Xây nhà, tôi
không xin nghỉ ngày nào, ban ngày vào đoàn làm việc, chiều về vác xi
măng, xếp gạch. Trông nom thợ, chỉ huy thợ, một tay tôi làm cả.

Trong
lúc tôi tất bật như thế, cả gia đình trên Phan Đình Phùng hầu như chẳng
ai dòm ngó hỏi han. Thế rồi, xây nhà nó cứ đẻ ra cái này cái kia. Hết
tiền, chẳng biết làm thế nào, đúng lúc chàng điện thoại sang, tôi tủi
thân òa khóc nức nở. Chàng động viên: “Cố gắng đi vay rồi anh sẽ gửi về
sau”.

Thế là, vì muốn tôi theo đến cùng bản thiết kế, chính anh
kiến trúc sư lại lén giấu vợ cho tôi vay năm trăm đô la. Không hiểu sao
chị vợ vẫn biết. Có lẽ nhờ cái bản năng tự vệ của đàn bà, sợ chồng mình
mang tiền cho cô nghệ sĩ dùng, chị đánh tiếng đòi lại. Tôi lo lắng chạy
vạy long tóc gáy lên, rồi nhà cũng xây xong.

Khi dọn về, nhà rỗng
không, chưa giường, chưa tủ, chưa bàn ghế. Nhưng so với cái gác xép làm
phòng ngủ của tôi và Khanh, cái gác xép cao một mét mà lỡ quên đứng dậy
thì “ăn” một cái cộc trời giáng đau nổ đom đóm mắt; so với cái bếp năm
mét vuông cơi thành nhà của mẹ, so với cái giường kê ngay phòng khách
của bố… nó là một toà lâu đài. Cả nhà phấn khởi lắm, tất cả đều cảm nhận
được đây đúng là một món quà xuất phát từ tình cảm thương yêu, từ sự
chia sẻ…

Từ chỗ chứng kiến gia đình người yêu mình, một gia đình
nghệ sĩ nổi tiếng mà sống nghèo sống khổ thế, chàng lãng tử đã tìm cách
giúp đỡ. Chàng chẳng bao giờ khoe khoang ai về chuyện này. Và tôi đón
nhận nó cũng rất tự nhiên chứ không nghĩ là phải suốt đời hàm ơn. Yêu
nhau thì làm cho nhau đỡ khổ, chia sẻ với nhau trong cuộc sống chẳng
phải là một lẽ tự nhiên nên làm sao? Tôi chỉ nghĩ rất giản dị như thế.
Tôi và chàng cũng có một khoảnh riêng trong căn nhà chung đó.

***


rất nhiều lý do để sau một thời gian dài sống chung với nhau, chúng tôi
mới đi đến quyết định làm đăng ký kết hôn. Thứ nhất, chàng đã trao cho
tôi một tình yêu tuyệt đối chân thành, tin tưởng tôi hoàn toàn cả về
kinh tế lẫn tình cảm. Thứ hai, chàng muốn trở về Việt Nam sống nốt quãng
đời còn lại. Thứ ba, quan trọng hơn cả, vì là Việt kiều nên chàng cần
phải có mối quan hệ chính thức với tôi để được hợp pháp sống tại Việt
Nam.

Vì chàng là Việt kiều, lại đã có gia đình nên trong suốt quá
trình chúng tôi sống với nhau, công an liên tục rà soát hỏi thăm giấy
tờ. Có thời gian, tôi đã phải sống trong trạng thái rất hồi hộp, chàng
vừa có công chuyện bay vào Sài Gòn thì lập tức công an ập đến nhà. Ba
bốn ông cảnh sát ùa vào nhìn ngó. Tôi bảo: “Anh ấy vừa bay rồi”. Hình
như họ nghĩ chàng là một con cáo già, hay tin gì đó nên đã tẩu thoát
ngay, họ lập tức thông tin vào Sài Gòn “đón lõng”. Hóa ra, chàng đã bị
công an nghi ngờ suốt một thời gian dài mà không biết. Lý do vì sao?
Trước giải phóng, chàng quen biết nhiều người cả bên ta lẫn bên địch.
Bởi chàng từng làm việc cho một tổ chức từ thiện, nên với danh nghĩa một
tổ chức Quốc tế, một số biệt động nội thành có thể vào nhà chàng lánh
nạn. Nhưng chàng lại cũng có thời gian đi lính bên kia, nên bây giờ, về
nước với danh nghĩa Việt kiều yêu nước, nhưng chẳng ai biết “ông ấy”
thuộc loại người gì, ở chiến tuyến nào, Iàm việc cho ai? Trước giải
phóng, anh ta biến mất, nay lại lù lù xuất hiện. Lại có người nhìn thấy
anh ta nói chuyện với một nhà báo Mỹ ở Sài Gòn. Có lẽ họ tình cờ gặp
nhau thế thôi, nhưng với những người có trọng trách, đó là những dấu
hiệu không bình thường.

Bị “đón lõng” trong Sài Gòn, chàng được
đưa thẳng từ sân bay về đồn cảnh sát, lúc đó ai mà biết liệu có được trở
về sau cuộc phỏng vấn ấy không? Còn tôi, tôi cũng không thể nào thanh
minh được rằng tôi tin chàng là người tốt. Đời nào người ta tin mình. Họ
hỏi: “Anh ta là thế nào với chị. Anh ta có vợ bên kia rồi. Thân nhân
anh ta khai là ở Quảng Nam cơ. Hai người chưa phải là gì của nhau cả.
Vậy thì cái sự khai thăm thân ở đây là bất hợp pháp!”. Họ lấy cớ đó để
bắt bẻ nhiều chuyện, làm tôi đau đầu, tinh thần bất ổn. Còn chàng, lúc
nào cũng như ở trong tình trạng hết sức hiểm nghèo. Cũng có khai báo tạm
trú nhưng người ta bảo có phải vợ chồng đâu mà được thăm thân, được tạm
trú. Có lần xin visa, sát nút rồi vẫn không được, chàng buộc phải ra
khỏi Việt Nam, sang nằm chờ bên Thailand vài ngày. Ai ngờ đâu, sau một
tháng, người ta vẫn chưa cấp visa. Tiền mang đi đã tiêu hết, không có
tiền để về Canada mà cũng không có tiền để ở lại. May quá, tôi nhớ đến
một người quen trong sứ quán bên đó, gọi điện sang mượn tiền. Chàng đến
sứ quán lấy tiền tiêu cho qua ngày và chờ đợi.

Không thể sống mãi
trong tâm trạng bất an như thế, tôi đành bảo chàng: “Anh ạ, em không có
lòng nào bảo anh phải bỏ vợ con, nhưng vì để an toàn cho anh, có lẽ
chúng mình phải hợp thức hóa mối quan hệ này”. Chàng trả lời: “Anh đã
làm cái việc ấy rồi”. Nghĩa là, anh đã làm thủ tục ly hôn với vợ bên
Canada” Hành động của chàng làm tôi rất cảm động. Quá gắn bó với tôi,
anh muốn mọi sự được chính danh được rõ ràng.

Ngay khi có quan hệ
tình cảm với tôi, anh đã nói chuyện thẳng thắn với vợ, rằng anh không
thể sống với chị ấy được nữa. Vợ anh, nghe nói là người theo đạo Thiên
chúa, là một người đàn bà hiểu biết, hiền lành, lịch lãm. Ba đứa con anh
đều ngoan ngoãn bảo ban nhau học hành giỏi giang, đều đã sang Việt Nam
chơi. Khi nghe chàng thổ lộ muốn về Việt Nam sống nốt tuổi già, vì sống ở
nước ngoài không hợp, chị đã không hề hỏi tại sao anh bỏ em, mà sẵn
sàng ký giấy ly dị, để anh về Việt Nam.

Nói đến hành động này của
chàng lãng tử Sài Gòn, tôi lại nhớ về Người ấy, một kẻ sĩ Bắc Hà, một
nghệ sĩ hàn lâm, người tình đầu máu thịt của tôi. Tại sao gọi đó là mối
tình thiêu rụi tuổi trẻ của tôi? Vì mười năm trời đằng đẵng trôi đi,
người ấy không quyết định nổi một điều chọn lựa. Cứ đằng đẵng, tràn đầy
những ăn năn hối hận, cứ ngột ngạt những day dứt nhớ thương, cứ quặn
thắt những lo lắng giày vò. Tôi chẳng thể trách anh tại sao không bỏ vợ
con để lấy tôi, nhưng lại suy ra một điều khác, người ta quá nặng lòng
với gia đình.

Trong khi đó, chàng lãng tử của tôi, không cần tôi
phải một lời thúc giục bóng gió xa xôi, chàng lẳng lặng cắt đứt mối quan
hệ chính thức với vợ con. Tấm lòng chân thành của chàng tôi phải ghi
nhận. Tôi cũng hiểu quyết định cắt đứt họ như thế không phải vì chàng ác
với vợ con, mà còn vì, đời sống của chàng ở nước ngoài thực ra cũng
không hạnh phúc gì. Chàng không khổ về vật chất, nhưng khổ về tinh thần.
Nhà chàng có năm người thì bốn người thuộc về xã hội bên kia rồi. Vợ
con chàng đều nói tiếng Tây, đi học trường Tây, hoà nhập với xã hội Tây…
của người ta, thời gian họ dành cho chàng, tâm sự với chàng, đùa vui
với chàng là rất hiếm, nên dù muốn hay không, chàng vẫn bị lạc lõng. Nhà
có một tầng hầm, suốt ngày chàng làm việc, sống âm u trong đó. Cuộc
sống của chàng rất cô đơn. Và chàng đã quyết định chia tay vợ để trở về
sống ở Việt Nam.

Về Việt Nam, sống với tôi, chàng có một cuộc sống
khác hẳn. Ở chàng, cái đáng quí nhất là niềm tin đặt vào tôi một cách
vô điều kiện. Về kinh tế, kiếm được chút tiền bạc nào là lại đưa hết cho
vợ. Khi anh muốn về Việt Nam, anh cứ việc tay trắng mà ra đi. Về Việt
Nam, dần dần hai vợ chồng mới làm nên. Anh vẫn thường nói, từ ngày có
em, anh lại có nhà có cửa. Về tình cảm, chàng đã lặng lẽ hi sinh gia
đình có những đứa con tuyệt vời và một người vợ giỏi giang. Ngày xưa,
anh chị gặp nhau ở Sài Gòn, lấy nhau, sinh Phú Sơn, con trai đầu lòng ở
Việt Nam. Trước khi chiến tranh kết thúc, anh theo vợ con về Canada. Khi
Việt Nam cho phép Việt kiều về nước, anh nộp đơn xin về thăm quê ngay.
Không phải vì gia đình trục trặc mà chàng phải đi tìm hạnh phúc mới.

Cũng
giống như Người ấy, chàng đã tình nguyện hi sinh gia đình vợ con để
chứng tỏ tình yêu với tôi! Chàng làm giấy ly hôn trước cả khi hỏi rằng
tôi có đồng ý lấy chàng hay không? Điều đó làm tôi thực sự cảm động. Và
chúng tôi dẫn nhau ra Sở tư pháp để đăng ký kết hôn. Lúc nào tôi cũng
nói, giấy tờ chỉ là hình thức, chẳng thể nào giữ được tình yêu, nên tôi
chẳng hề coi việc ký tên vào tờ giấy kết hôn là việc nghiêm túc. Thậm
chí, cũng giống lần đi đăng ký trước, tôi coi đó như là chuyện đùa.

Hôm
đó, có khoảng ba, bốn đôi cũng lấy người nước ngoài đến nhận giấy đăng
ký. Chàng lãng tử của tôi ăn mặc bình thường. Tôi cũng thế, chỉ mặc một
cái váy đũi rất giản dị. Ai ngờ đâu, ở Sở tư pháp, họ bày bánh kẹo thuốc
lá như một buổi lễ quan trọng. Lúc họ gọi từng đôi lên, trao giấy, hỏi
lần cuối: “Anh chị có tình nguyện lấy nhau hay không?”, tôi còn kịp ghé
vào tai chàng, nói đùa: “Chả nhẽ em lại nói, tại vì các ông công an nên
tôi mới phải làm cái giấy này”.

***

Tôi bàn với chàng, bên
cạnh việc tranh thủ tận dụng tuổi trẻ làm nghệ thuật, chúng tôi phải
củng cố kinh tế gia đình, để đến khi sự nghiệp nghệ thuật chững lại, là
đến thời gian dành cho con cái. Chàng cũng thấy thế là hợp lý. Chúng tôi
đi thế chấp cái nhà Thụy Khuê, vay tiền mua một mảnh đất, xây nhà. Chưa
xây xong, họ đã đổ xô đến đòi thuê. Mình lại “yêu sách” họ chồng tiền
một năm và mình dùng tiền ấy mua trang thiết bị nội thất. Thời đó, nhìn
chung cũng ít người có nhà cho thuê nên còn làm ăn được.

Sau khi
chính thức kết hôn, mọi việc dần đi vào ổn định Được gia hạn visa lâu
dài, bớt cảnh bồng bềnh hồi hộp đi đi về về, cuộc sống bớt phần lãng mạn
sương khói. Và một cuộc sống thật trần trụi lộ ra: Sống với chàng, tất
cả mọi việc từ A đến Z, từ xây sửa nhà cửa, vay mượn tiền nong, đụng độ
với thực tế xã hội, với công an, phòng thuế, cộng với bao nhiêu là rối
ren, khó khăn của thủ tục hành chính… tôi đều phải dùng đến “cái mặt
mình” để giao dịch. Vì đi đến đâu người ta cũng nhận ra tôi, lập tức tôi
có được sự đồng cảm và giúp đỡ. Dần dần, chàng coi việc tôi phải chường
mặt ra với đời là lẽ đương nhiên. Chàng cứ đùn tất cả công việc ấy cho
tôi. Đã thế, khi tôi đi lo giấy tờ vô cùng mệt mỏi về đến nhà, chàng lại
buông thõng một câu: “Có một mình em biến nó thành quan trọng chứ anh
thấy người ta cứ cho thuê nhà bừa đi cũng có sao đâu. Mà sao em cứ phải
cuống lên chạy nơi nọ chạy nơi kia”. Chàng đâu có chịu hiểu rằng, nếu
không có đủ những giấy tờ tối thiểu đó, khi người ta kiểm tra bất chợt,
là mình phạm luật. Tôi gắt lên: “Tôi không muốn bị hoạch họe. Hơn nữa,
tôi cũng không thích cái sự phải quị luỵ xin xỏ ai. Vậy thì, cách tốt
nhất, khi còn kịp, mình hãy hoàn thiện hồ sơ đi để nếu bị hỏi đến, mình
còn có cái tư thế của mình chứ! Tại sao lại thích kiểu làm ăn nhuôm
nhoam, đại khái, khi bị phạt lập tức quị luỵ xin xỏ, mất hết cả tư
cách?”

Kiểu lời qua tiếng lại như thế cứ được tích tụ dần, nó bào
mòn sự long lanh lãng mạn. Càng ngày tôi càng nhận ra một thực tế o, dù
đã có chồng nhưng tôi vẫn phải làm việc, hành xử, lo lắng như một gã đàn
ông! Rõ ràng trong nhà có một người đàn ông nhưng lại quá nhu nhược.
Bất cứ cái gì chàng cũng gọi Vân ơi, rồi lẩn sang phòng khác. Và tôi lại
phải đương đầu. Thậm chí, ngay chuyện xin ra hạn tạm trú cho chàng,
đáng lẽ cả hai cùng đi, nhưng chàng cũng bảo, em đi đi. Ra báo tạm trú
cho khách thuê nhà cũng vậy. Thôi thì cứ cầm bao thuốc ra, hôm đó ai
trực ban thì mời người ta, rồi khai báo để người ta vào sổ quản lý. Việc
đơn giản thế nhưng chàng cũng đùn hết cho vợ. Cứ thế, sự khó chịu được
tích tụ, tôi kiệt sức và mệt mỏi, mãi thế này chắc không chịu nổi, lại
ao ước: bao giờ mình mới được làm một người đàn bà thực sự đàn bà đây?

Tôi
ước được quanh quẩn lo những chuyện nội trợ bếp núc chứ không phải
đương đầu với những chuyện to tát. Ví dụ như đi vay tiền chẳng hạn. Phải
ngoại giao nhờ cậy đã đành. Đến ngày đáo hạn, lại phải cậy cục đi vay
nóng trong một ngày, chồng đủ số tiền mấy trăm triệu, rồi lại mang trả.

Nghĩ
lại thấy sao mà liều thế, một thân một mình, ôm một túi du lịch tiền
phóng xe máy qua cầu Chương Dương. Vay tiền về, chỉ cho ngân hàng thấy
tiền đấy, tôi có khả năng trả, rồi lại mang đi. Đúng là một việc tầy
đình chứ, nhưng sao cũng chỉ mình tôi cặm cụi lo toan xoay sở!

Cuộc
sống với chàng ngày càng lủng củng, chính vì vậy mà tôi cứ trì hoãn
chuyện con cái. Tôi lờ mờ nhận thấy, tại sao mình cứ phải làm đàn ông
trong khi đã có chồng? Tại sao chàng lại nhu nhược đến thế, đôi khi còn
có biểu hiện… hèn nữa? Và thế là, chẳng còn gì lung linh trong mắt nhau
nữa, chỉ còn thấy những điều hết sức bình thường, tầm thường, thậm chí
đôi khi tôi còn phản ứng bằng cách quay đi bĩu môi coi thường, chán
chẳng thèm nói, không tôn trọng nữa. Những thứ độc tố đó lớn dần lên làm
thui chột tình yêu lúc nào không biết. Và khi tình yêu thui chột, sẽ
chỉ thấy toàn những cái chưa được của nhau.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3