Lê Vân - Yêu và sống - Chương 06
6
Ôi những lát sâm thần thánh…
Chúng
tôi, những diễn viên múa balet, những linh hồn vật vờ mặt xanh nanh
vàng, những vật thí nghiệm, vẫn kiên nhẫn bay trên năm đầu ngón chân với
niềm tin sắt đá rằng mình đang phụng sự cho một môn nghệ thuật bác học.
Với sức lực có hạn, chúng tôi cố kéo lê thân mình trong những vở balet
cổ điển nổi tiếng thế giới dài hơn hai tiếng đồng hồ như: Hồ thiên nga,
Giselle, Spartacus…
Sau bảy năm “hành xác” trên sàn tập của trường
múa, tôi được nhận thẳng về Nhà hát Nhạc vũ kịch Việt Nam và bắt đầu
lại như con thiêu thân “hành xác” tiếp mười một năm trời nữa. Vì sao gọi
là hành xác, bởi ở Việt Nam, múa balet là một môn nghệ thuật quá khắc
nghiệt. Múa vì phải lên lớp phải trả bài, múa vì đó là cái nghề kiếm
cơm, múa đơn giản vì không biết làm nghề gì khác…, đâu phải vì niềm vui
sáng tạo? Thứ nhất, các diễn viên múa balet rất nghèo. Lương bốn chín
đồng. Vừa nghèo vừa đói. Sự thật là, nhiều lúc tôi không có đủ sức để
múa. Nói mà ù hết cả tai. Ai cũng biết, nghệ thuật múa balet là phải
dùng đến sự dẻo dai của cơ thể, không phải diễn viên nào cũng đủ sức
khỏe đáp ứng đòi hỏi đó. Cái khắc nghiệt thứ hai là không có công chúng.
Khổ luyện như vậy nhưng làm gì có ai xem? Khổ luyện như vậy để làm gì?
Thậm
chí có lần đang diễn còn nghe thấy người ta nói: “Làm gì mà múa may mãi
thế, cứ nói béng ra là anh yêu em đi là xong. Múa may mãi chẳng hiểu
gì”. Nghe mà thấy choáng váng. Cảm thấy như thế là hết, là sai lầm. Bao
nhiêu công sức khổ luyện mà không được nhìn nhận, đánh giá. Người ta
không hiểu. Một khi đã không hiểu, làm sao khiến người ta yêu? Không yêu
thì không muốn xem, vậy mình diễn cho ai?
Hôm nào công diễn vở
mới, vé chỉ để mời người nhà hoặc phát cho bạn bè. Chẳng bán được cho ai
cả. Không ít buổi diễn, nghệ sĩ trên sân khấu đông hơn khán giả. Tổng
cộng cả dàn nhạc giao hưởng, dàn đồng ca, các diễn viên múa… con số lên
tới hàng trăm, ngó xuống khán giả, chỉ nhìn thấy lèo tèo vài chục người.
Tủi phận lắm.
Ở Việt Nam, ngay từ đầu những năm 1950, nhà hát
Opera balet đã được thành lập. Thời điểm đó, rất nhiều trường nghệ thuật
khác cũng được ra đời. Ngành nghệ thuật nào cũng có, đủ ban bệ, trường
lớp tuyển sinh, đào tạo hành nghề… nhưng chẳng cái gì đến đầu đến đũa.
Nhà hát Opera balet là một thí dụ. Nó cứ phải tồn tại, hơn nửa thế kỷ,
tồn tại ở tình trạng lay lắt mà không ai dám kết án tử hình cho nó.
Nhà
nước không nuôi được nữa nhưng lại cứ để cho nghệ sĩ sống ốm yếu trong
say sưa ảo vọng, trong niềm tự hào rởm rằng dù ta nghèo nhưng nghệ thuật
của ta là thứ nghệ thuật cao siêu, bác học! Kết quả cho ra đời mấy thế
hệ diễn viên mặt xanh nanh vàng nhưng vẫn say sưa luyện tập trên mây
trên gió. Cứ tập đi, vở nọ vở kia, thỉnh thoảng cũng được công diễn ở
hội diễn nọ liên hoan kia hay dịp tổng kết cuối năm. Bộ chủ quản sẽ rót
cho một khoản kinh phí nào đấy để ra một chương trình giao hưởng, balet
hay opera nào đấy… Cứ diễn đi, không có khách à, chúng tôi sẽ bù lỗ cho
khoản tiền thuê nhà hát! Các cấp trên động viên khuyến khích. Không
người đến xem cũng cứ diễn. Vì đã trót dựng nó lên, gán cho nó một niềm
tự hào hão huyền rồi, không lẽ lại ngồi không! Thỉnh thoảng, chúng tôi
an ủi nhau, khán giả không đến xem ta chẳng qua vì trình độ họ kém quá,
không hiểu được cái cao sang của ta mà thôi!
Không ai dám nhìn
thẳng vào sự thật là: nền văn hóa của mình chưa thể tiếp nhận được thứ
nghệ thuật này. Hơn nữa, nghệ sĩ của ta cũng chưa đủ tài để làm cho nó
trở thành một môn nghệ thuật hấp dẫn người xem, hay chí ít phải đáp ứng
được ý thích của người Việt Nam. Không đủ tài đã đành, lại còn không đủ
thức ăn. Có thực mới vực được đạo. Đói thế làm sao có đủ thể chất khỏe
mạnh và tinh thần hào hứng để nuôi dưỡng nhiệt tình sáng tạo! Các nghệ
sĩ múa balet bị thiếu dinh dưỡng dẫn đến suy nhược cơ thể là một điều có
thật. Sự thật đó nói ra có lẽ người ngoài cuộc không thể nào tin nổi.
***
Tất
cả chúng tôi đều sống bằng lương nhà nước và tiêu chuẩn tem phiếu.
Không thể nào nhúc nhích ra khỏi cái tiêu chuẩn ấy được. Không biết
những người khác họ làm gì thêm để cải thiện bữa ăn, còn tôi, tôi kiếm
thêm bằng nghề đan len thuê học được từ mẹ. Đan len là một nghề cực kỳ
linh hoạt, bất cứ rảnh tay lúc nào, ở đâu cũng có thể làm được. Đan
trong khi xếp hàng lấy nước, đong gạo, đan khi ngồi họp cơ quan, đan khi
chờ xe bus, đan trên xe bus…
Bỗng một ngày đẹp trời, lãnh đạo nhà
hát tuyên bố, họ không thể mua vé xe bus tháng cho cán bộ nhân viên
được nữa. Họ không móc đâu ra tiền, thôi “tùy nghi di tản”, ai đi được
bằng cái gì thì đi, tự lo lấy. Và tôi phải đạp xe đi làm.
Gần chục cây số đạp xe dưới trời mùa hè nắng gắt mùa đông lạnh buốt. Làm sao quên được những cảnh bi hài của cái thời đạp xe ấy!
Tôi
vốn gầy trơ xương, đạp được đến cơ quan vừa đúng giờ lên sàn tập khởi
động. Toàn thân rã rời, thở ra đằng tai, tôi không thể làm được việc gì
khác ngoài thở. Vừa thở, vừa ngồi từ từ duỗi hai chân ra, gác lên cái
ghế băng phía trước, từ từ giở gói xôi lúa năm hào ra, từ từ nhai nuốt.
Đó là món ăn sáng thông dụng nhất cho mọi người bấy giờ. Vừa ăn tôi vừa
nhìn các đồng nghiệp tập cơ bản trước khi vào tiết mục chính. Tôi băn
khoăn tự hỏi, không hiểu sao mọi người đến được đúng giờ thế nhỉ, còn
mình thì thật là khó khăn.
Vác được cái xác vào đến nơi rồi còn
bận thở đã, tranh thủ dùng bữa sáng lấy lại sức, rồi mới thay quần áo
tập chứ! Thế là mất đứt nửa tiếng. Trong khi mọi người ngoan ngoãn chấp
hành giờ giấc, mình gác chân lên ghế ngồi ăn. Kiểu “đình công” ngang
ngạnh bất cần như vậy kéo dài bao lâu tôi không nhớ, cho đến một hôm,
lãnh đạo hết chịu nổi bèn nhắc nhẹ. Chỉ nhắc nhẹ thôi, vì thời đó mọi
người đều khốn khổ như nhau, rằng: “Sao Vân lại không lên sàn tập khởi
động với mọi người”. Hình như chỉ chờ có thế, tôi ấm ức bục ra: “Tôi đã
tập rồi, khởi động rồi đấy chứ! Tôi bốn chục cân, đạp xe chục cây số,
đấy không phải là tập khởi động sao? Vào được đến nơi thở không ra hơi,
tôi còn hơi sức đâu tập với các anh các chị nữa”. Đấy là một sự thật chứ
không phải là cố tình hay ra vẻ. Phản ứng thì phản ứng vậy thôi chứ
biết phản ứng với ai! Giống như là tự đấm vào tường, tự làm mình đau
đớn, vì lãnh đạo cũng khổ chứ đâu chỉ có mình! Nhiều người khác cũng
khổ, nhưng họ ngoan ngoãn hơn, biết chịu đựng hơn. Còn tôi, sự thật là
tôi không đủ sức để mà ngoan ngoãn, mà múa may quay cuồng gì trong tình
trạng sức khỏe như vậy. Tôi chẳng có lựa chọn nào khác.
Đó là
những năm cuối thập kỷ bảy mươi, đầu tám mươi, nền kinh tế cả nước chìm
trong tăm tối thiếu đói chứ chẳng riêng gia đình nào. Lĩnh 49 đồng lương
tháng, tôi đưa mẹ một nửa góp tiền ăn, còn lại dùng mua đồ cá nhân. Hồi
đó, chưa ai dám bung xuống đường kiếm sống. Mọi thứ đều trông vào tem
phiếu ban phát. Hàng tháng, tôi được cấp hai mốt cân lương thực gồm mấy
cân gạo còn lại là mỳ hoặc bo bo, một ký rưỡi thịt, mười quả trứng, một
ký đậu phụ. Ngoài ra còn có phiếu mua cá biển, phiếu mua dầu, phiếu mua
vải, phiếu đổi bánh mỳ… tất tật đều tính bằng phiếu. Hôm nào lĩnh thịt,
cả nhà sẽ được một bữa ăn tươi. Người cơ quan đi mua thịt ở đâu đó mang
về, chia bôi ra mỗi người được một phần. Háo hức chờ đợi có khi phải đến
mười hai rưỡi trưa một giờ chiều mới được cầm cái mẩu thịt đã bắt đầu
bốc mùi. Nhưng ai cũng cố chờ vì thèm thịt cả tháng rồi. Có được thịt,
tôi lại phải chờ xe bus về Cửa Nam, sau đó đi bộ lếch thếch từ đó về nhà
ở Phan Đình Phùng. Mất mấy tiếng đồng hồ cả thảy. tại một trận mệt ù
tai nữa, bù lại cả nhà phấn khởi được một bữa tíu tít quạt chả làm nem.
Ngẫm
lại, chính những miếng thịt đã ngả màu, những bìa đậu cứng đanh chua
lòm đã đem lại niềm vui sống cho chúng tôi một thời, nuôi dưỡng niềm tự
hào trong sáng rằng mình đang được sự ưu đãi của chế độ. Qua những năm
tháng đói khổ nghiệt ngã ấy, tôi được rèn sức chịu đựng, chịu khổ Nhiều
lúc giật mình nghĩ không biết có phải vì hoàn cảnh đất nước khiến tất cả
đều phải chấp nhận thiếu thốn, hay người ta thực sự muốn rèn con người
thành thép cả? Có khi đó là chính sách điều hành, quản lý con người cũng
nên, bởi chính phủ nào mà chẳng phải có những chính sách trị quốc bình
thiên hạ! Làm sao khiến người dân nhất lòng đi theo lãnh đạo, bởi vì họ
phụ thuộc hoàn toàn vào nhà nước để sống chứ biết trông chờ vào đâu!
***
Thời
đó, gia đình nào có người làm trong cửa hàng bán gạo, bán dầu hay bán
bách hoá tổng hợp thì sướng hơn vua. Họ như có cả một chỗ dựa vững chắc.
May mắn lắm mới quen được một người như thế để đưa cái phiếu nhờ họ mua
cho mà không phải xếp hàng. Bởi cái sự xếp hàng là kinh khủng lắm! Muốn
đong gạo phải dậy sớm đi xếp hàng bằng cục gạch hay rổ rá cũ từ lúc
người ta chưa mở cửa. Nếu muốn có bữa ăn tươi, lập tức tất cả các con
đều trở thành công cụ xếp hàng hết. Chính trong cái khốn khó đấy đôi lúc
lại cảm thấy hạnh phúc. Nhìn ra xung quanh, hóa ra mình còn sướng hơn
những người dân thường rất nhiều. Mình được hưởng các tiêu chuẩn của cán
bộ nhà nước. Có tem phiếu cán bộ là ghê gớm lắm. Thời đó, vì tất cả
cùng nghèo khó như nhau, cùng mò mẫm trong một mặt bằng tăm tối nên
chẳng ai bì tị với ai. Ai cũng nghĩ, vì chiến tranh, vì hậu chiến, mọi
thiếu thốn khó khăn đều trở nên quá bình thường. Khổ nhưng không biết là
mình khổ, cứ vui vẻ chấp nhận và cam chịu tất ca.
Trước đổi mới,
hầu hết mọi người dân đều phải chịu đói rét, hoặc cố kiếm một việc gì đó
làm thêm để tự cứu mình. Tôi cũng vậy. Tám đồng công đan một cái áo
len. Một tháng cũng có thể đan được một, hai cái. Mẹ tôi cũng miệt mài
đan len, khi các con ngủ hết rồi vẫn đan. Nhất là vào dịp Tết, ai cũng
muốn diện áo len mới, thế là phải chạy đua với thời gian. Đan thật nhiều
để cố lo được nồi bánh chưng. Gia đình tôi là thế, Tết được tính bằng
nồi bánh chưng. Đại khái kiếm được số tiền này là đủ 10 cân gạo nếp, sổ
tiền kia là đủ thịt với dậu. Rồi lo nấu những nồi mứt khế, mứt mận để
tiếp khách đến chơi chúc Tết. Tự nấu nướng chứ làm gì có tiền mua. Vẫn
còn nhớ những mùa đông lạnh giá, rửa lá gói bánh tái lợt cả tay vì cóng
nhưng mà vui.
Tết năm 1984, lúc bấy giờ hình như chẳng còn nhận
được len mà đan nữa. Cái nhà hát Opera balet “bác học” của tôi nháo nhào
tìm cách lo Tết cho nhân viên. Những người trong tổ công đoàn hoạt động
vô cùng nhiệt tình. Họ chạy đôn đáo khắp nơi, đến các nhà máy, xí
nghiệp, cố gắng tìm một công việc phụ cho anh em nhà hát làm thêm lo nồi
bánh chưng. Cuối cùng, họ cũng may mắn tìm được một việc: dán hộp mứt
tết. Nhân viên ai muốn làm thì đăng ký. Nói chung tất cả đều muốn làm vì
ai cũng khó khăn cả, chẳng ai từ chối cơ hội kiếm thêm chút tiền lo cho
cái Tết nhà mình. Tôi cũng vậy. Đó là những ngày vừa chân ướt chân ráo
đi Pháp về, tôi cũng nhận bìa về làm hộp cùng với Khanh và Vy. Ba chị em
nhận trách nhiệm lo nồi bánh chưng.
Chúng tôi mua bột, nấu hồ làm
thành “món” keo dính, bày bừa đầy ra nhà. Những tấm bìa họ cắt sẵn, chỉ
việc dựng lên, quây 4 góc thành cái hộp, quết hồ lên cho dính vào nhau.
Để cho 4 góc dính vào nhau, chúng tôi dùng những cái kẹp quần áo kẹp
chúng lại, cái này kẹp vào cái kia thành một dãy dài. Những dãy hộp dài
như thế chạy dọc căn phòng 24 mét. Khi hồ đã khô, đậy 2 mảnh hộp vào
nhau thành cái hộp hoàn chỉnh. Cứ thế mải mê cắm cúi làm, xong một hộp
lại chồng lên cao thành những chồng hộp bày khắp xung quanh. Thành thử
tôi bị chìm giữa một tòa cao ốc hộp. Trời xẩm tối lúc nào không biết.
Chiều
hôm đó, cụ Phạm Văn Khoa đến nhà mời đi giao lưu trình chiếu bộ phim
Chị Dậu. Nghe tiếng cụ, tôi dạ rõ to, nhưng cụ đạo diễn không thể tìm
thấy tôi ở đâu. Từ đó, đi đâu cụ Khoa cũng kể chuyện tôi, một diễn viên
chính đang nổi trên màn ảnh, thế mà lại bị chìm lấp trong đống hộp mứt
Tết: “Tội nghiệp nó quá, rõ ràng đã nghe tiếng nó dạ rồi mà chỉ thấy
những hộp mứt Tết cao ngất ngưởng. Sang bên Pháp, bao nhiêu thằng Việt
kiều giàu có mê nó lắm, nhất định không chịu. Nào tiến sĩ nọ thạc sĩ
kia, nhưng nó nhất định về Việt Nam. Sao mà nó khổ thế, bây giờ lại ngồi
nhà dán hộp mứt Tết”. Với tình thương của một người cha, ông thực sự
xót xa, lo lắng cho tôi. Mãi sau, ông mới kể chuyện, lần sang Pháp đó,
ông định lặng lẽ mai mối cho tôi một tấm chồng nhưng không thành.
Biết
làm sao được, chẳng ai thoát được nỗi lo cơm áo gạo tiền vào những năm
đầu tám mươi manh nha đổi mới ấy. Cả nước rơi xuống đáy của sự đói kém,
thấy rõ ràng miếng ăn là miếng nhục, nhoài lưng ra chẳng kiếm đủ hai bữa
ăn. Thậm chí, trong nhân gian truyền nhau một câu: “Nhân phẩm rẻ hơn
thực phẩm”. Không trực tiếp phũ phàng giơ mặt rạ với đời được thì rút
lui vào trong làm thuê bằng cách nhận đồ gia công về nhà làm. Gãy lưng
dán hộp mứt với đóng hộp philatop, say sưa đến mức đi ngủ rồi tay vẫn
còn quờ quạng dán hộp mứt trong mơ.
Lặng lẽ và âm thầm làm gia
công kiếm tiền, hi vọng ở một góc khuất nào đấy không ai nhìn thấy mình,
nhưng không được. Nghĩ lại thấy thương cái thân mình thế! Nhận bìa về
thì dễ nhưng khi chở đống hộp cồng kềnh đi trả mới bi hài làm sao? Ngày
xưa, làm gì có tắc-xi tải. Mà có thì cũng làm gì có tiền thuê. Công dán
hộp mứt rẻ bèo. Đành phải thuê xích lô. Đó mới là lúc muối mặt, buộc
phải bê từng chồng hộp mứt xuống đường chằng buộc vào xích lô cùng với
người ta. Rồi lại phải áp tải ông xích lô đến tận xí nghiệp bánh mứt kẹo
ở Hàng Bồ. Chẳng hiểu sao cứ bị ngượng chín cả người.
Lao động là
vinh quang mà sao lại cảm thấy xấu hổ, nhục nhã? Tôi giả vờ thong dong
đạp xe, giữ khoảng cách “như một người dưng” với chồng hộp thành quả của
mình, mà vẫn thấy hai má nóng bừng. Bỗng đống hộp đổ tung tóe. Dây
chằng đứt. Thôi rồi, “chị Dậu” ơi? Chẳng thể chạy trốn đi đâu được! Tôi
ước bầu trời biến thành một màn đêm “đen như tiền đồ của chị” để chui
tọt vào đó và biến mất… Nhưng biến đi đâu được khỏi cái thực tại ấy bây
giờ?… Phải chính mặt mình giao trả hộp thì mới nhận được tiền công…
Cầm
chút tiền công ít ỏi ra về, đạp xe trong cái lạnh tháng giêng, đã ngửi
thấy hương thơm của nồi bánh chưng Tết tràn ngập ngõ phố Hà Nội, sao cứ
thấy nghèn nghẹn, xót xa một nỗi gì…
Để thích nghi với cuộc sống
ấy, người ta nảy ra rất nhiều sáng kiến, tạo nên rất nhiều thói quen cả
tốt lẫn xấu. Có những thói quen xấu ngấm vào máu cho đến tận bây giờ vẫn
không sao bỏ được. Tôi cũng thế. Ở thời buổi hàng hóa tràn ngập thế
này, vậy mà tôi vẫn bị tư tưởng đầu cơ tích trữ từ thời bao cấp ám ảnh.
Thấy trên thị trường cô cái gì mới, hay hay là phải mua liền một lúc mấy
cái. Vì sợ hết. Tích cóp để dành, chờ lúc cần đến dùng dần. Không bao
giờ mua đủ dùng mà phải mua dư ra, để thừa ra mới yên tâm. Nỗi lo thiếu
thốn ăn sâu vào tiềm thức đến nỗi tôi không thể chịu được sự lãng phí.
Từng phải đi hứng từng giọt nước máy nên nhìn ai lãng phí nước thì không
chịu được. Phải tiết kiệm. Phải đề phòng. Phải dự trữ. Vẫn còn tâm lý
hoảng sợ, không biết người ta có cung cấp đủ dùng không hay ngày mai lại
bảo hết rồi! Đi nước ngoài cũng vẫn bị cái tật ấy. Nhìn thấy cái gì
cũng muốn mua, muốn khuân về…
Nhớ lại thời kỳ này, tôi nhận thấy
trong cái mất bao giờ cũng có cái được. Được sự cứng rắn như “thép đã
tôi”. Bây giờ đời sống nhênh nhang, không giàu nhưng không còn phải lo
cái ăn cái mặc, tạm gọi như vậy, nhưng tôi không bao giờ sợ khổ nữa. Dù
có khó khăn thế nào, có mệnh hệ nào, mình vẫn có đủ nghị lực để vươn
dậy, vượt qua. Tôi tin rằng, những ai đã trải qua thời đói nghèo ấy,
bằng mọi cách, kể cả là những cách ảo tưởng nhất, đều biết tự cứu lấy
mình…
***
Lần đầu tiên đi Pháp theo phim Chị Dậu, năm 1984,
tôi xoay xở mãi mới mượn được một cái áo dài. Có một chị bạn lớn tuổi
đưa cho một cái nhẫn mặt ngọc rất to, dặn rằng, qua Pháp gặp ai đó nhờ
bán hộ, và cũng nhờ họ mua luôn cho mấy hộp sâm. Mang về Việt Nam bán
lại, lời ra được một chút. Lộc đi nước ngoài là ở chỗ đó chứ làm gì có
vốn mà đi buôn. Thương tôi nghèo, chị cứ ấn cái nhẫn vào tay bảo: “Cứ
cầm lấy mang đi, nếu không bán được thì mang về”. Cái nhẫn mang sang đến
nơi còn bị chê nứt, nhưng may sao vẫn bán được và tôi có hai hộp sâm
mang về.
Tôi vui lắm. Cả nhà tôi cũng vui. Vì thời đó, sâm được
coi là một thứ thần dược. Có củ sâm dự trữ trong nhà nghĩa là yên tâm
lắm!
Nghèo khổ đau ốm làm gì có thuốc, sâm trở thành thứ chữa được
bách bệnh. Người ta mua sâm phòng thân. Những lúc mệt mỏi, suy nhược
quá thì cắt ra một lát mỏng mà ngậm. Người nọ rỉ tai người kia như thể
đang làm điều gì mờ ám: “Vân nó có sâm mang về từ nước tư bản nên đó là
sâm tốt”. Tôi đích thân mang về thì hiển nhiên đó là sâm… Pháp, hoặc chí
ít cũng do Pháp nhập của Triều Tiên, vậy là sâm chính cống rồi! Họ tin
tưởng đến lấy mỗi người một củ nhỏ. Tôi vẫn nhớ tên của nó là sâm Cổng
Thành, bây giờ có bán đầy ra cũng chẳng ai mặn mà gì. Nhưng ngày xưa, vì
chẳng có gì khác để tin dùng nên người ta tự phong cho nó là thần dược
để có cái mà hi vọng chăng?
Tôi cũng thế. Tôi cũng đã hồn nhiên tự đánh lừa mình để tồn tại bằng những lát sâm thần thánh của thời đó…
Một
lần, một người bạn của gia đình đã dúi vào tay bố tôi vài lát sâm và
bảo: “Ông cầm về cho con Vân, bảo nó trước khi diễn balet, ngậm một lát
nhỏ cho có sức mà múa. Đây là sâm tốt đấy, người ta biếu ông nhà tôi.
Bảo nó cho vào cái bát nhỏ hấp vào nồi cơm cho mềm ra rồi ngậm”. Tôi
mừng lắm, ngậm ngay miếng thần dược quí hóa. Nó đơn giản là những lát
thái mỏng mềm nâu nâu khô khô dai dai. Dù chẳng phải là sâm, là gỗ đi
chăng nữa, nhưng cứ tin nó có tác dụng quả cũng thấy đỡ mệt thật! Đêm
ấy, diễn được khen, lại tự nhủ, có lẽ nhờ lát sâm thần thánh ấy! Đó là
“phép thắng lợi tinh thần” tuyệt vời. Một khi đã ngậm cái miếng gỗ mềm
được gọi là sâm ấy vào miệng thì phải có niềm tin là mình sẽ khỏe hơn,
mình sẽ lướt bay trên năm đầu ngón chân một cách điêu luyện hơn, và chắc
chắn mình không thể gục ngã trước khi hoàn thành vở balet hai tiếng
rưỡi. Đồng nghiệp của tôi đã từng kiệt sức ngất xỉu ngay trên sàn diễn.
Còn tôi, qua bao nhiêu buổi biểu diễn, phải chăng tôi vẫn sống được là
nhờ những lát sâm tưởng tượng đó.
***
Ở Pháp về, nhiều người
hỏi tôi thấy “bọn tư bản” nó thế nào, có bị “sốc” không? Tôi trả lời,
tôi chẳng bị choáng ngợp gì. Bởi tôi nghĩ, đó là một thế giới khác không
phải của mình. Mình đi theo kiểu cưỡi ngựa xem hoa, loang loáng như là
một giấc mơ, hưởng những đãi ngộ, ưu ái của bầu không khí thân thiện rồi
về. Thế thôi. Đó không phải là cuộc sống thực nên chăng chút động lòng
ham hố. Đúng là hoàn cảnh ấy dễ khiến người ta choáng ngợp, nảy sinh ham
muốn. Nhưng chẳng hiểu sao, có lẽ vì quen sống nghèo rồi, tôi chẳng ham
muốn có một cuộc sống khác. Với tầm nhìn hạn hẹp của một cô gái mới
lớn, lại đang đắm đuối một mối tình ở nhà, tôi luôn giữ được thăng bằng.
Tôi xác định rõ ràng: đấy là cuộc sống của người ta, mình cỏ cuộc sống
của mình. Dù thế nào tôi vẫn cứ thích trở về nơi tôi đã sinh ra, nơi tôi
đã quen thuộc. Dù có bụi bặm tôi vẫn cứ thích hít thở nó vì nó là bụi
bặm của tôi, ở cái nơi tôi lớn lên. Nghe có vẻ lạ lùng, nhưng quả thực,
tôi chẳng màng đến cuộc sống của người ta một chút nào.
Tôi cho
rằng, đã là người nghệ sĩ là phải làm ra cái gì đó để cho người dân mình
hưởng đầu tiên. Ở nước ngoài, với một nền văn hóa khác, cách thưởng
thức nghệ thuật khác, ai hiểu mình? Mình làm được cái gì? Là cái gì? Sẽ
chỉ là bọt biển, là con kiến. Vô hình chung, tự mình tiêu diệt chính
mình thôi. Làm nghệ thuật ở quê hương, dù hay dở thế nào, người ta còn
hiểu được mình, còn đón nhận mình.
Nhưng bấy giờ, phần lớn người
đời nghĩ khác. Người ta cứ thích suy đoán theo kiểu làm phức tạp vấn đề.
Theo chân làn sóng di tản sau 1975, một số nghệ sĩ miền Bắc cũng tìm
cách ra đi đến một miền đất hứa nào đó. Họ nghĩ tôi dại vì đã bỏ lỡ
nhiều cơ hội trở thành nghệ sĩ Việt kiều! Họ không tin vào những suy
nghĩ nghiêm túc giản dị của tôi, thậm chí tôi còn bị cho là ngây thơ giả
vờ. Bởi vì, những cái gọi là lẽ thường ở đời, tôi cứ bị ngu ngơ! Thực
ra, tôi chỉ nói thẳng nói thật những gì mình nghĩ. Sống như là mình
muốn.
Đến bây giờ, nhiều khi tôi vẫn rất ngạc nhiên, không hiểu
sao người ta không dám nói ra sự thật về chuyện yêu ghét của bản thân.
Lúc nào cũng phải mang một tâm lý cảnh giác đề phòng, phải che đậy. Và
dường như là đánh mất niềm tin, không ai còn muốn tin ai, không ai có
thể tin ai được nữa. Cái gì cũng bị che dấu đi, cũng có mặt trái của nó.
Thậm chí cái phần bị che dấu ấy là phần chính, còn phần phô ra ai cũng
biết lại là phần phụ, là giả dối.
Nhiều khi cái giả thống trị cái
chân, con người ta không biết làm gì khác, đành tập cho mình thói quen
hàng ngày sống với sự giả dối. Biết sự thật nhưng không nói ra, chỉ muốn
yên thân nên im lặng, và cứ tưởng thế là vô tội. Nhưng rõ ràng, biết sự
thật mà im lặng, nghĩa là đã đồng loã với sự giả dối rồi. Sau vài lần
bị những cú sốc về niềm tin như thế, tôi cũng bị nhiễm thói nghi ngờ lúc
nào không biết…
Một lần, tôi cùng anh dạo chơi Hồ Gươm. Ngẫm thấy
buồn cười thật, tôi sinh ra và lớn lên ở Hà Nội mà chưa một lần nào đi
dạo Hồ Gươm. Thì ra, đi bộ quanh Hồ Gươm là một cái thú thư giãn tuyệt
vời. Xung quanh hồ, ngùn ngụt hối hả xe cộ, mình cứ đủng đỉnh chậm rãi
mà đi, mà thưởng ngoạn đất trời. Chiều xuống, ánh nắng cuối ngày còn sót
lại trên tán cây phượng làm rực lên cả một góc hồ. Cảnh tranh tối tranh
sáng rất đẹp. Anh muốn chụp một bức ảnh làm kỷ niệm. Thấy một gã trai
phất phơ đi đến, tôi chưa kịp phản ứng gì, anh đã đưa máy ảnh nhờ chụp
hộ. Bỗng nhiên, lòng tôi cồn lên nỗi lọ sợ, nhỡ gã cứ cầm máy ảnh mà
chạy biến đi thì sao? Vì đây là cái máy ảnh rất đắt tiền. Nhưng sự đã
rồi, buộc phải tin thôi. May mà chẳng có chuyện gì bất trắc cả, vậy tại
sao cứ phải nghi ngờ, nghi ngờ eả lòng tốt của người khác. Về sau, xem
lại bức ảnh, tôi thấy nét mặt mình rất lạ, miệng cười thật tươi nhưng
không sao che dấu được ánh nghi ngờ dâng đầy khóe mắt. Chợt nhói lên nỗi
ân hận xót xa… Giá như có thể nói được một lời xin lỗi.
***
Sống
mà luôn phải nghi ngờ thì mệt quá. Thà cứ tin đi còn hơn. Mù quáng cũng
được. Ảo tưởng cũng được. Như ngày xưa mình đã từng tin. Tin vào vẻ đẹp
thánh thiện của những cánh thiên nga mong manh trong trắng; tin vào sự
cứu rỗi của một nét nhạc nâng tâm hồn con người hướng về cái Thiện; tin
vào những bước vũ điệu bay bổng thỏa mãn ước mơ chiến thắng sức ỳ của
thân xác để tâm hồn được thăng hoa cùng cái Đẹp; tin vào sự mầu nhiệm
của những lát sâm…
Ôi những lát sâm thần thánh…