Venise và những cuộc tình Gondola - Phần 09
BỒ ĐÀO NHA
Trên đời này còn có một Lisbon
Dù
Bồ Đào Nha nằm sát nước láng giềng nổi tiếng Tây Ban Nha, ít người nào
chịu khó tìm đến với đất nước cũng lừng lẫy một thời với những chuyến
thám hiểm tìm vùng đất mới này.
Từ Paris, tôi lấy máy bay đến thủ
đô Lisbon với nhiều hồi hộp và phấn khích. Người sếp gốc Paris đã tử tế
giới thiệu tôi đến trú ở nhà một gia đình sống ngay trung tâm. Chủ nhà
ra phi trường rước tôi khá thân thiện và phân bua về tình hình kẹt xe
tại Lisbon. Hình như với bà Maria, nạn kẹt xe thật đáng xấu hổ. Xe hơi
tràn lan khắp nơi, ai cũng lấy báo ra vừa đọc vừa nhích trong trật tự.
Thỉnh thoảng một vài tiếng còi vang lên nhắc nhở người trước đang chăm
chú với một tin giật gân nào đó. Nếu Maria từng đến Việt Nam, hẳn bà
không việc gì phải đỏ mặt lên và cứ phân trần dông dài về cái nạn kẹt xe
giờ cao điểm này.
Thành phố trên bảy ngọn đồi
Càng khám
phá Lisbon tôi càng thấy bất ngờ bởi nét duyên lạ của một thành phố châu
Âu ít được nhắc đến. Lisbon nằm trên bảy ngọn đồi liền kề nhau nên nhà
cửa nhấp nhô rất ngộ nghĩnh. Từ ngọn đồi này sang ngọn đồi kia, người ta
dùng thang máy. Và để di chuyển từ thấp lên cao, dân Lisbon sử dụng
những chiếc xe điện chỉ dài bốn mét. Đây là nét đặc biệt nhất
của Lisbon so với những thành phố khác ở châu Âu. Những ngôi nhà nhỏ
xinh xắn được ốp gạch men có những họa tiết màu xanh của sứ. Việc dùng
gạch men azulejos làm vật liệu trang trí là một trong những nghệ thuật
kiến trúc đặc trưng của Bồ Đào Nha. Hàng cọ dài thẳng tắp và những con
đường lót đá kỳ công theo những họa tiết tinh xảo với hai màu đen trắng
cũng là nét lạ của đất nước này.
Đại lộ Liberdade, có nghĩa là “Tự
do”, là một trong những con đường đẹp nhất châu Âu, sang trọng và rực
rỡ không thua gì Champ Elysée của Paris. Cây cột cao có tượng Marquez de
Pombal nằm ở đầu đường là một trong những di tích tưởng nhớ công trạng
của hầu tước Pombal, người đã dùng ý chí sắt đá xây dựng lại Lisbon từ
đống tro tàn vì trận động đất năm 1755.
Saint Georges: vương miện thành phố
Quảng
trường Figueira với pháo đài Saint Georges có mười tòa tháp trải dài
theo lối kiến trúc của người Moor. Pháo đài nằm trên ngọn đồi cao nhất
nên dù đứng ở bất kỳ đâu ở Lisbon ta cũng nhìn thấy Saint Georges ngạo
nghễ và xinh đẹp như một vương miện của thành phố. Bà Maria e dè nhìn
thân hình không năng thể thao của tôi, hỏi có đủ can đảm leo mấy trăm
bậc thang lên pháo đài trứ danh này ngắm thành phố không. Bật cười sau
cái lắc đầu ngại ngùng của tôi, Maria dắt tôi đến thang máy Santa Justa.
Tôi ngỡ ngàn nhìn thang máy bằng sắt nằm ngoài trời như một cái tháp
duyên dáng được trang trí bằng những đường viền đăng ten bao phủ bảy
tầng lầu. Thang máy cao bốn mươi lăm mét nên đứng trên đỉnh ta tha hồ
thấy Lisbon trải dài bên dưới. “Thang máy này xây từ năm 1902 lận đó -
Maria tự hào cho biết - do kiến trúc sư người Bồ Đào Nha Mesnier du
Ponsard, một đồ đệ của Gustave Eiffel”.
Chúng tôi bách bộ tiếp đến
Praca do Comercio, tức là quảng trường Thương Mại. Đây là quảng trường
chính của Lisbon, rộng ngút mắt với các tòa dinh thự của chính phủ bao
quanh. Từ đây có thể nhìn ra dòng sông Tagus ôm lấy thành phố. Buổi tối
khi chồng đi làm về, bà Maria bảo ông đưa tôi ra bến cảng, chỉ cho tôi
thấy chiếc cầu treo xa xa trong ánh đèn vàng là làn mưa phùn lất phất.
Cây cầu do nhà độc tài Salazar cho xây và khánh thành năm 1966. Vào thời
điểm đó, cây cầu treo dài hai cây số rưỡi, rộng sáu mươi mét này được
xem là kỷ lục của châu Âu.
Tháp Bélem và bánh caramen
Ngày
hôm sau, hai con trai song sinh của bà Maria xung phong đưa tôi tiếp tục
thăm thành phố. Được hai hướng dẫn viên đẹp trai như những vị thần La
Mã mới mười tám tuổi đưa đi, tôi thấy Lisbon… hấp dẫn hẳn lên. Chúng tôi
lấy xe điện ra Tháp Belém. Tháp xây bằng đá sáng màu, nằm ở lưng chừng
mặt nước sông Tagus. Bên trong tháp Belém, người ta trang hoàng như một
chiến hạm tượng trưng cho tinh thần đam mê thám hiểm bằng những chuyến
vượt biển của người Bồ Đào Nha.
Họ dẫn tôi đến tiệm bánh kem
caramen ở gần tháp Belém. Quán đã có mặt từ năm 1837 với kiểu dáng cổ
kính của những bức tranh gạch men màu trắng xanh. Chỉ đạt đến mức đón
tiếp ngày càng đông khách, phải mở rộng thêm. Bánh này làm bằng bột gạo
có mật ong, bơ và quế. “Đơn giản vậy nhưng chẳng ai bắt chước được”,
Marc và Mathieu giải thích. Hương quế thơm dịu hòa với vị mằn mặn của
bơ, vị ngọt thanh của mật và độ nướng vừa tới làm caramen tan ra của
chiếc bánh khiến tôi muốn… ngừng thở.
Những ngày tiếp theo chẳng
còn ai rảnh rang đưa đi thăm thú nhưng tôi lại hoàn toàn thoải mái được
tự do chiêm ngưỡng Lisbontheo kiểu của mình. Tôi không ghé vào các bảo
tàng nghệ thuật rất phong phú của thành phố theo đề nghị của bà Maria vì
kiến thức quá eo hẹp của mình trong lĩnh vực này. Tôi thích đi bách bộ,
ngắm những tòa nhà có lối kiến trúc lạ mắt nhấp nhô trên bảy ngọn đồi,
những hàng cây ô-liu xanh mướt thanh bình, những con hẻm nhỏ lót đá kỳ
công. Bất chợt trên những bước chân vô định của mình, tôi rơi vào một
góc sân có ngôi giáo đường bé nhỏ, và tiếng chuông thánh thiện vang lên.
Những bà mẹ trẻ đẩy xe nôi hẳn đang cầu an cho con mình.
Thư thái và thanh bình
Dù
chỉ lưu lại Lisbon một tuần lễ ngắn ngủi, tôi thấy thật yêu thành phố
này. Lisbon quá hiền hòa, dù hiện đại nhưng con người vẫn giữ lại cho
mình tác phong thư thái. Chẳng thấy ai rảo bước thật nhanh, chen lấn
tranh thủ hay tỏ thái độ nôn nóng. Ai cũng bình tĩnh, thong thả và thân
thiện với nụ cười túc trực trên môi. Khác xa với
dân Paris hay London làm ra vẻ bận rộn, hay kiêu kỳ và thích nhăn nhó.
Lại càng không thể so sánh dân Bồ Đào Nha chân thật với dân Ý hay Tây
Ban Nha vốn nhiều “thủ thuật” để móc túi (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng)
du khách. Đất nước này nằm giáp hai mặt với Đại Tây Dương và Địa Trung
Hải nên con người cũng được ảnh hưởng sự mạnh mẽ và phóng khoáng của
người dân biển.
Tôi còn một ấn tượng khó phai khác ở Lisbon. Không
như dân Ý và Tây Ban Nha, người Bồ Đào Nha, đặc biệt là giới trẻ, rất
chịu khó học ngoại ngữ. Tôi nói tiếng gì là được đáp lại bằng tiếng đó
(dĩ nhiên tôi chưa thử thách họ bằng tiếng Việt). “Quê” nhất là tôi bày
đặt nói tiếng Bồ Đào Nha mua thẻ điện thoại. Ông già bán hàng kiên nhẫn
lắng nghe rồi cười đề nghị “Cô cứ nói ngôn ngữ nào mà mình muốn, đừng
vất vả làm gì!”. Yêu mến người dân nơi đây, tôi tự nhủ sẽ xây dựng một
nhân vật nam thật “manly” người Bồ Đào Nha. Khi tôi nói ý định này với
vợ chồng người chủ nhà Fernando - Maria đêm chia tay, thật bất ngờ ông
chủ đề nghị “Lấy tên tôi làm tên nhân vật chính nhé!”. Fernando
trong Oxford thương yêu không có tí gì “dính dáng” đến ngoại hình tròn
trịa của ông, ngoại trừ tính bộc trực, nhiệt tình và thân ái.
Bởi
Lisbon, tôi tiếc cho một thành phố quá xinh đẹp và duyên dáng lại không
chịu khó làm marketing để thu hút khách thập phương. So với những thành
phố châu Âu khác, Lisbon nào kém cạnh gì. Tuy hàng năm thủ đô Bồ Đào Nha
cũng đón hơn hai mươi triệu du khách, nhưng Lisbon phải xứng đáng hơn
con số này. Nhưng ngẫm lại, người Bồ Đào Nha đâu thèm khoe khoang, họ cứ
bình thản sống, ung dung thụ hưởng cảnh thanh bình và tự biết, trên đời
này còn có một Lisbon…