Vườn tình - Chương 13

Bà ta nhìn chúng tôi bắt tay nhau, miệng nở một nụ cười thỏa
mãn, như thể chúng tôi đang ký kết hiệp ước hòa bình thế giới và bà ta
là người xúc tiến. Ông bác vẫn chưa nói gì. Tôi nghĩ bạn của Florence là
một cách nói mơ hồ và tự hỏi thực ra cô cháu của họ đã nói với họ những
gì. Chúng tôi ngồi nhanh vào bàn ăn. Cho dù năm tháng trôi qua nhưng
mỗi khi nhớ đến bữa ăn này, tôi không thể không cảm thấy khó chịu. Cả
bốn người chúng tôi ngồi xuống và làm quen với nhau, tạo ra giữa chúng
tôi những mối liên hệ mà Florence là chỗ thắt nút: lúc đầu tôi nghĩ đây
là mục đích của cuộc gặp. Nhẽ ra việc này phải diễn ra một cách lịch sự
và thoải mái, thậm chí nồng nhiệt. Nhưng hoàn toàn không được như thế.
Tôi sớm cảm thấy điều gì đó không ổn. Cái gì đó đang bao trùm, một mối
đe dọa mà tôi không biết bản chất hay nguồn gốc, nhưng tôi bắt đầu cảm
thấy những mầm mống tác hại. Từng phút trôi qua, không khí đã trở nên
mỗi lúc mỗi nặng nề, bức bối. Tất cả chúng tôi đều biết điều đó nhưng bà
ta đã tấn công, nhiệt tình và ngang bướng, bà ta đã vùng vẫy hết cách,
với vũ khí duy nhất có được: lời nói. Bà ta nói. Bà ta chuyện trò. Bà ta
kể lể. Bà ta hỏi han. Bà ta chỉ nói chuyện với tôi. Giờ đây, tôi thường
so sánh bà ta với một con rối biết nói và coi trời bằng vung. Hoặc van
xin bà ta. Hẳn bà ta mong như thế. Bà ta không có cơ hội nào.

Tôi
không đủ khả năng để cứu giúp bà ta. Đúng là món thịt bê của bà ta tuyệt
ngon. Đúng là việc học hành tỏ ra thú vị. Đúng là năm đầu quả thực khó
khăn nhất nhưng phải cố gắng thôi. Đúng là công ăn việc làm giờ đây rất
hiếm. Đúng, đúng thế... Tôi nhìn ra cửa sổ và cố hình dung ra một em bé
đang chơi trong mảnh vườn trước mặt tôi. Một bé gái và một con chó.

Con chó đã chết. Thế bé gái ở đâu? Nó là ai?

Florence
im lặng. Em gần như không đụng vào thức ăn. Làn da của em còn trắng hơn
cả nước xốt. Mặt em thẳng băng nhưng trong mắt em, bóng tối bao trùm,
trong đáy sâu mắt em có phản chiếu những đám mây hội tụ từ từ và bền bỉ.
Tôi thực sự có thể thấy được điều đó.

Ông Armand ngồi ăn. Ông cắt
thịt, cắt bánh mì và chuyên tâm nhai, chỉ lo ăn mà không nghĩ gì hết.
Cách của ông ta đương đầu với hoàn cảnh. Một ông lính già. Hẳn ông ta là
người biết rõ nhất những gì sắp xảy ra. Ông thợ mộc khắc một trái tim
trong thân gỗ cứng nhất, ông hì hục làm cho nó cứng hơn, làm cho nó
không thể thấm nước. Kinh nghiệm đã mách nước cho ông ta. Mắt ông ta
không dán vào gì, cũng chẳng dính vào ai. Ông chỉ tin vào chính mình.

Tất
nhiên, tôi tự hỏi tại sao lại là ông bác và bà cô mà không phải ông bố
và bà mẹ? Tại sao Florence đã đưa tôi đến đây? Tại sao tôi chứ không
phải Ariel? Biết bao câu hỏi khác nữa.

Bà cô đi đi lại lại giữa
bếp và phòng ăn. Món tráng miệng là phúc bồn tử - tôi nghĩ tên nó là như
vậy. Tôi còn nhớ có một khối tròn để ngay giữa bàn có màu trắng của kem
và màu đỏ sẫm của trái cây, điều này khiến tôi nghĩ đến cái đầu của một
thằng hề buồn bã. Sau đó chúng tôi uống cà phê được pha trong những cái
tách sứ. Florence châm một điếu thuốc, cả ông bác và bà cô đều đồng
thời liếc mắt nhìn em. Họ không hút thuốc. Florence đã không xin phép họ
hút thuốc. Họ không nói gì. Bà cô lại chạy đi và quay lại với một cái
đĩa đặt trước mặt Florence để làm cái gạt tàn. Im lặng bao trùm. Ông bác
khuấy cà phê. Chúng tôi đang ở trong những giây cuối cùng. Khi Florence
quay sang nhìn tôi, tôi thấy bầu trời bỗng trở nên nặng nề, u ám. Thể
nào nó cũng nổ tung.

Cuối cùng, Florence vừa rít một hơi thuốc vừa nói.

- Gia đình em đấy. Gia đình duy nhất của em...

Florence chờ vài giây để tôi có thời gian thẩm thấu những lời nói đó, rồi em nói tiếp:

- Thế nào? Anh thấy họ thế nào?

Như
thể chúng tôi đã về rồi, như thể họ không có mặt ở đấy. Chiếc thìa nhỏ
của ông bác bất động trong tách cà phê. Ông ta bắt đầu khe khẽ lắc đầu.
Tôi không biết Florence sẽ đi đến đâu. Tôi cố mỉm cười:

- Hai bác tử tế quá, tôi nói. Rất tử tế.

Tôi đánh liều nhìn bà cô nhưng bà ta không nhìn tôi. Mặt bà ta đanh lại, lạnh tanh.

- Đúng thế, Florence nói, bác và cô rất tử tế. Dễ thương. Bác Armand... Cô Coralie...

Florence
lần lượt nhìn ông bác, bà cô rồi bỗng chau mày lại. Cặp lông mày thanh
tú bị bẻ gãy. Giờ em có một vẻ đẹp gây phiền nhiễu, một vẻ đẹp làm đau
lòng người. Tàn thuốc rơi xuống bàn mà em không thấy. Em nói tiếp:

- Nhưng... hình như thiếu ai đó. Gia đình ta chưa đủ người thì phải. Phải không? Cháu nhầm phải không cô?

Người
phụ nữ không trả lời. Bà ta không thể trả lời. Bà nhìn cháu bà chằm
chằm với vẻ mặt của một người đang xem một cảnh tượng kinh hoàng, cảnh
chân trời nhô cao và đổ ngược trở lại, như một con sóng thần ào đến nuốt
chửng bà.

- Ái chà chà! - Florence nói - Cháu quên mất! Nó ở đâu
nhỉ? Hy vọng là bác và cô chưa chôn nó chứ? Matthieu phải làm quen với
nó mới được. Cháu nghĩ Matthieu chưa bao giờ thấy nó!... Bác và cô giấu
nó ở đâu? Trong tủ tường à? Hay trong nhà xe?

Tôi biết giọng nói
này. Giọng nói đó bắt đầu tăng âm lượng, bắt đầu khàng khạc, réo rắt như
một lưỡi cưa sắt bị cùn. Da tay, da lưng cho đến da trán tôi bỗng xù cả
lên. Bên cạnh, ông bác bắt đầu lắc đầu, từ trái qua phải, như một người
bị ức hiếp, một kẻ mê tín hay tức giận, tôi không biết. Tôi vẫn chưa
hiểu gì hết, những gì tôi muốn là không còn nghe thấy cái giọng đó nữa.

- Florence... Tôi thì thầm.

- Em nói thật với anh đấy, Florence nói. Lạ lắm! Anh không tưởng tượng nổi đâu. Anh phải nhìn thấy mới được.

Bỗng Florenee quay người lại và kêu toáng lên:

- Quasimodo!... Quasimodo!...

Kể
điều đó ra đây thật đúng là thô thiển, chỉ có thô thiển thôi, mặc dù
vậy, tôi thách người nào không cảm thấy chói tai khi nghe những tiếng
kêu đó. Tôi lại rùng mình. Lúc đó, bà cô buột miệng: “Lạy Chúa tôi!”,
hai tay bịt miệng. Nước mắt bà ta bỗng nhiên giàn giụa, ròng ròng trên
má. Ông bác tiếp tục lắc đầu.

- Florence... Tôi nói tiếp.

Tiếng
thì thầm đáng thương trong cơn bão. Nói thật là tôi hoàn toàn thất
kinh. Tôi cảm thấy Florence đã ra đi, tôi cảm thấy em đang trôi dạt trên
sông và xa dần, tôi không muốn em bỏ tôi lại một mình, giọng nói của em
đang xâu xé tôi nhưng đó là những gì còn lại của tôi để không phải mất
em.

Rồi Florence không kêu nữa. Em chỉ lên trần nhà. Ánh mắt cuồng
điên. Em nói: “Em biết!”, rồi đứng bật dậy, gí điếu thuốc lên món dâu
béo ngậy mà em chưa ăn, em bảo tôi: “Matthieu, đi nào!”, rồi em đi về
phía cầu thang để lên tầng.

Tôi không biết phải làm gì, Bác Armand
cuối cùng cũng không còn có thái độ lảng tránh, câm lặng và vô dụng
nữa. Trán ông ta không còn động đậy, mắt ông ta dán vào mẩu thuốc lá vừa
cắm trên cái bánh. Tôi thấy ông ta cầm một cái đĩa đặt lên đầu gối xoa
xoa, rồi siết vào thật chặt.

Florence đã đặt chân lên bậc thang
thứ nhất. Một chiếc ủng cưỡi ngựa. Em quay lại. Như lúc nãy trong xe, em
nói tiếp: “Đi nào!” Không còn hăng hái nữa, chỉ còn có sự lạnh lùng và
thái độ quả quyết. Tôi từ từ đẩy ghế rồi đứng dậy.

Tôi những muốn
nói một lời xin lỗi, tôi không thể. Bà cô che miệng rên rỉ. Tôi tiến về
phía Florence. Khi theo em lên cầu thang gỗ, tôi có suy nghĩ ngốc nghếch
là chính ông bác là người đã làm cái cầu thang đó.

Ai là người quyết định?...

Mới tuần vừa rồi thôi, tôi còn xem Florence chơi với Nathan và tôi không thể ngăn mình tự hỏi câu hỏi này lần nữa.

Nathan
giờ đã gần bốn tuổi. Nó đang xếp hình kim tự tháp bằng những miếng
ghép. Nó đang tập trung cao độ. Florence giúp nó xếp. Cả hai đang ngồi
bệt xuống sàn nhà. Tôi thấy hai mẹ con đẹp tuyệt vời.

Ai là người
quyết định và với tư cách gì? Thẩm phán tối cao nào được phép đưa những
người này về phía ánh nắng và ánh sáng trong khi những người khác về
vùng tối tăm?

Tất nhiên, chúng ta có thể tự nhủ - tôi không biết như thế là kinh khủng hơn hay an tâm hơn - rằng nắm đấm vốn mù lòa.

Một
lúc nào đó, Florence ngước mắt nhìn tôi và tôi gần như chắc chắn là
những suy nghĩ của hai chúng tôi đi theo những con đường song song. Vì
những miếng ghép, có thể lắm. Tôi không còn được phép nhìn những đồ chơi
này một cách ngây thơ. Tôi không được phép quên. Florence lại càng
không. Chúng tôi không nói về chuyện đó bao giờ nhưng tôi biết là mọi
chuyện chưa kết thúc, mọi chuyện chưa tan thành mây khói. Như thế thì dễ
quá.

Trên tầng, trong ngôi nhà của ông bác và bà cô, có ba cánh cửa đang đóng.

Ba
phòng. Một phòng đã che chở cho tuổi thơ của Florence, những năm tháng
trẻ trung của em. Những ngày mưa em đã từng ở trong đó, những đêm dài em
đã từng ở trong đó, để ngủ, để mơ màng, có thể để run lên khi cố xua
đuổi những bóng ma sinh ra từ bóng tối. Tôi đã thoáng có những suy nghĩ
đó nhưng không có hình ảnh nào đến hòa vào đó. Như trước đó, trong khu
vườn, gương mặt của bé gái không chịu xuất hiện trước mắt tôi.

Florence
đi đến tận cánh cửa ở phía cuối. Em đặt một tay lên nắm đấm và tay khác
lên cửa. Em cứ như thế vài giây. Tôi đứng sau lưng em, không thể thấy
mắt em nhắm hay mở và tôi sợ. Tôi cảm thấy mỗi lúc mỗi bức bối. Tôi muốn
nói với em là không cần thiết phải làm thế, là em có ý đồ gì đi nữa thì
thôi đi hãy còn kịp. Là tôi không cần bằng chứng. Florence đẩy cửa và
tránh ra để tôi vào. Tôi ngửi thấy mùi gì đó kinh khủng. Mùi thuốc tẩy
uế cực mạnh không thể át đi mùi hăng hâm hấp. Giá như nôn được thì tôi
đã cảm thấy nhẹ người hơn. Tuôn ra hết rồi bốc hơi. Florence nhẹ nhàng
khép cửa lại. Đó là phòng dành cho trẻ em. Cho em bé ấy. Trên bức thảm,
có một con sư tử biển đang chơi bóng. Màu đã phai. Dù đó là màu trắng.
Sàn nhà được trải những tấm thảm linoleum. Gian phòng ngăn nắp trật tự,
không có đồ chơi nào, chỉ có duy nhất một con hổ bông có lẽ rơi từ trên
ghế khi đứa bé ngồi xuống. Một cái ghế mà bác sĩ nha khoa hay dùng. Nó
được đặt đối diện với cửa sổ, những tấm riđô thêu rất đẹp đang che kín
cửa sổ này. Chúng tôi đứng ở phía sau riđô, cách vài bước, tôi chẳng
thấy gì nhiều: ngược ánh sáng, một cái đầu nhô cao hơn lưng ghế một tí,
một lọn tóc nâu. Chỉ có thế. Tôi nghe một tiếng gì khe khẽ mà chưa xác
định được. Tôi chờ Florence bước lên hoặc nói gì đó. Tôi cố gắng thở
càng ít càng tốt. Tất cả đều bất động, lơ lửng. Một gian phòng trẻ em
vào một buổi chiều mùa xuân dìu dịu.

Rồi bỗng nhiên tôi thấy có sự
cử động. Phần trên của cái đầu biến mất trong khoảnh khắc rồi xuất hiện
lại, đồng thời có một tiếng kêu. Trừ phi có những từ ngữ khác để gọi
tên âm thanh đó. Đó là một âm thanh mà có lẽ những con người đầu tiên
trên thế gian đã phát ra, những con người tiền sử. Một thứ âm thanh bắt
đầu bằng tiếng gì đó như là tiếng gầm và kết thúc bằng tiếng ré, một thứ
âm thanh xuyên thủng thịt da, làm lung lay hết sự chắc chắn và làm rung
động những niềm tin sâu kín nhất. Không còn gì có vẻ chắc chắn nữa,
không còn gì sau khi nghe thấy âm thanh đó. Chỉ có sự nghi ngờ còn ở
lại, sự nghi ngờ về bản chất đích thực của chúng ta.

Tôi có cảm
giác cả người tôi co rúm lại, xương, thịt, dây thần kinh, lục phủ ngũ
tạng, phần sâu kín nhất trong cơ thể tôi cũng tìm cách thoát khỏi tiếng
kêu này.

Phải chăng đó là tín hiệu mà Florence chờ đợi? Trong khi
mà tôi còn sững sờ, đơ dại thì tôi thấy Florence nhẹ nhàng đi vào phòng,
nét mặt nghiêm trang như khi lên cầu thang của một nhà thờ. Florence đi
quá chiếc ghế. Em quay người lại và nhìn xuống người đang ngồi trên
ghế. Một lúc lâu sau, em nói:

- Chào Nicolas.

Không bao giờ
tôi còn được nghe lại giọng nói êm ái, nhẹ nhàng lúc ấy của Florence,
ngay cả khi em nói với những đứa con mà em thương yêu nhất, những đứa
con của chúng tôi. Không bao giờ.

Em đặt tay lên cái đầu và vuốt ve mái tóc nâu.

- Em của em đấy, Florence nói. Em trai của em đấy. Nó tên là Nicolas.

Tôi
phải mất hơn một phút nữa mới cử động được. Bước đi được. Có nghĩ về
cái chết và thậm chí có chết đi nữa, thì giữa hai người đó có gì vậy? Cố
gắng hết sức tôi mới lấp đầy khoảng cách và đến lượt mình đi vòng qua
bên kia chiếc ghế. Tôi nhìn xuống. Tôi nhìn nó rất lâu. Tôi không biết
trong ánh mắt tôi thoáng có cái gì, sự kinh tởm, lòng thương hại, sự tức
giận, điều ác cảm, tôi không chắc lắm. Florence vuốt tóc nó. Nó lại kêu
lên tiếng kêu kinh khủng đó, tiếng kêu đó là âm thanh duy nhất mà nó
phát ra theo từng quãng và khá đều đặn suốt ngày. Khi đó, đầu nó bỗng
nhiên ngẩng lên rồi hất ra sau, mạnh mẽ, như tiếng một con ngựa khịt
khịt hay tiếng sừng bò tót chọc vào khoảng không.

Có vẻ như nó không nhận thức được điều đó.

Tay của Florence vẫn giơ cao trên không khi nó kêu. Sau đó em tiếp tục vuốt tóc nó. Em nói:

- Hôm qua nó tròn hai mươi tuổi. Hai mươi tuổi tròn. Ta nên tặng nó gì nhỉ?

Đó
không phải là một câu hỏi thực sự và tôi không trả lời. Tôi biết lòng
tôi đang run lên nhưng không thể hiện ra ngoài. Tôi nhìn sinh linh có
tên là Nicolas này và cố tìm hiểu thực hư ra sao - mối liên hệ giữa cái
tên chung chung, tầm thường mà người ta đã đặt cho nó và con người thật
đang ngồi trước mặt tôi.

Một cậu bé hai mươi tuổi ngồi trên cái ghế mà bác sĩ nha khoa hay dùng.


nó, cái gì cũng quặt quẹo. Mỗi bộ phận trên cơ thể nó, từ ngón tay, cái
lưng, hàm răng, tất cả đều được tạo nên từ những đường nét gãy vỡ và
những góc cạnh ngoài trí tưởng tượng.

Nó đi giày đỏ, mặc một chiếc
quần cũ rích dài đến bắp chân, một cái áo ngủ không gài cúc, phía trong
là chiếc áo phông có in hình Gaston Lagaffe. Bộ ria mép vài ngày chưa
cạo phủ lấy cằm dưới, lưa thưa một vài sợi lông đen. Một vết cắt nhỏ ở
cằm, hẳn là do nó lắc đầu khi người ta cạo râu cho nó. Môi trên của nó
bị xô lại một bên, như có một lưỡi câu nào giữ lại, để lộ một hàm răng
màu hồng và đỏ máu. Người nhà đã đặt một chiếc gối sau lưng nó. Tôi
những muốn nắm bắt được cái nhìn của nó. Bắt gặp ánh mắt nó dẫu chỉ một
lần. Điều đó đã không xảy ra. Nó không nhìn Florence cũng chẳng nhìn
tôi. Mắt nó màu hạt dẻ, đẹp, sâu thẳm. Không biết nó có nhận thức được
sự có mặt chúng tôi không. Không biết nó có nghe chúng tôi nói gì hay
không. Không biết trong bộ não của nó có những suy nghĩ gì và hình ảnh
nào hay không.

Nó đang chơi trò xếp hình.

Thế đấy, âm thanh
mà tôi không thể nào xác định được. Chiếc ghế bành có gắn một mặt bàn di
động. Khoảng mười hai miếng ghép rải rác trên đó, những miếng ghép bằng
gỗ có màu sắc sặc sỡ, trên các bề mặt có in chữ và số. Cậu bé cố gắng
chồng đống lên nhau. Nó không xếp được. Nó không thể làm chủ được những
động tác của bản thân. Giữ miếng ghép giữa các ngón tay đối với nó đã
khó, đặt miếng ghép đó lên một miếng ghép khác lại càng là một nhiệm vụ
bất khả thi. Miếng ghép trượt ra, rơi xuống, thoát khỏi tay nó. Nó cầm
lên. Bắt đầu lại từ đầu. Không ngưng nghỉ.

Mặc dầu vậy, đôi khi,
chút ít kỳ diệu nào đó xảy ra - và điều đó gây xúc động như khi một đứa
bé tự buông tay và đi những bước đầu tiên. Miếng ghép này bám lên miếng
ghép kia trong vài giây, bằng một sự thăng bằng mong manh... mà thao tác
sau đó tác oai tác quái phá vỡ. Và phải làm lại toàn bộ.

Nên tặng nó gì nhỉ?

Chúng
tôi ở lại một giờ hoặc hơn thế trong căn phòng đó. Những cái nút thắt
lấy cổ tôi từ từ được nới lỏng. Tôi có thể thở một cách gần như bình
thường. Tôi có thể tập trung vào những lời Florence nói.

Florence
giải thích là nó vẫn luôn thế. “Luôn thế”, em nói. Từ khi ba hay bốn
tuổi gì đó, nó được đặt lên chiếc ghế có thể chỉnh các tư thế. Tư thế
ngồi, tư thế nằm. Nó ở đó, đêm cũng như ngày. Ông bác và bà cô không còn
sức lực nào mà bồng nó lên giường. Nó không còn giường nữa. Khi còn
nhỏ, Florence không hiểu sự khác biệt giữa hai chị em. Em không hiểu tại
sao em trai của mình lại không chịu chơi với mình, tại sao nó không
chịu nhìn mình, nói chuyện với mình, trả lời mình. Em tự nhủ có lẽ mình
đã vô tình làm gì đó không đúng nên làm nó phật ý. Em nghĩ là nó không
thích em. Em hy vọng là mọi chuyện sẽ qua. Nhưng điều đó đã không xảy
ra. Em vẫn mãi mãi không hiểu.

Em bảo với tôi là em nghĩ mình đã
làm tất cả những gì có thể. Không khiên cưỡng. Bởi vì em thương em mình.
Em ở lại với em mình nhiều thời gian hơn bất cứ ai khác. Em bỏ phòng
riêng của mình để đến đây chơi. Em đem búp bê của mình đến. Em đóng vai
cô giáo, đóng vai người bán hàng. Em làm bài tập ở đó. Em đọc bài to để
em mình cùng nghe. Em đọc bảng cửu chương và bảng chữ cái. Em kể cho em
mình đã làm gì trong ngày, kể cho em những ước mơ. Đối với nó, ước mơ
của em không có gì là bí mật.

Mùi hôi, Florence không ngửi thấy.
Em đã quen với mùi hôi thối kinh hoàng ấy. Em đã quen với sự im lặng và
những tiếng kêu. Quen với tất cả. Trừ cái nhìn trống vắng.

Giá như
em có thể hi sinh một cánh tay, một cái chân, giá như em có thể hi sinh
mình để đổi lại một cái nhìn đích thực cho nó thì em đã làm rồi. “Em
thề là em đã làm rồi”, Florence nói.

Em không thể làm gì hơn.

Mười
bảy tuổi, em đã đi xa. Florence càng ngày càng ít khi về thăm em. Em về
cũng chỉ vì em trai mình thôi. Em không thể biết là nó có nhận ra mình
hay không.

Em nói với một giọng bình tĩnh, đều đều, tay vẫn không
ngừng xoa đầu cậu bé. Y như người ta đọc lại những bức thư viết cách đây
đã lâu, những bức thư được viết bằng máu và nước mắt nhưng giờ đã khô.
Thỉnh thoảng bị tiếng kêu làm cho gián đoạn. Em búi tóc cho cậu bé.

Ai
quyết định? Lỗi tại ai? Tại sao? Người ta không thể tự chất vấn cho dù
vẫn biết đó là những câu hỏi sẽ không có lời giải đáp, những câu hỏi vô
nghĩa. Cánh cửa vẫn mở và gió buốt giá ùa vào phòng. Không ai giữ chìa
khóa cả.

Và rồi, lấy cái giọng y như giọng của Florence, tôi mạnh
dạn nói là thái độ của Florence với ông bác và bà cô hẳn là vô căn cứ.
Trách họ làm sao được? Tôi nói là đối với họ, thử thách quá kinh khủng
và họ đang cố gắng hết mình. Florence không nên đè nặng lên vai họ những
khổ đau, buồn tủi của chính mình. Florence không phản đối. Em cũng
không gật đầu tỏ ý đồng tình.

Chỉ có một lần duy nhất bỗng nhiên
em tỏ rõ phản ứng của mình. Khi tôi hỏi em là đã bao giờ họ nghĩ đến
việc đưa cậu em đến một trung tâm điều trị chưa. Em quay về phía tôi:

- Điều trị ai? Florence sổ toẹt. Người ngoài hành tinh chắc?

Tôi thấy đau lòng vì mình đã tạo ra cái bĩu môi trên miệng em, cái nhìn đầy phẫn nộ trong mắt em.

Chính
vào ngày hôm đó, trong căn phòng này, tôi đã quyết định thú nhận tình
yêu của mình với Florence. Cuối cùng tôi đã thú nhận: tôi yêu Florence
từ khoảnh khắc đầu tiên. Lời tỏ tình của tôi không an ủi được em.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3