Vườn tình - Chương 05
Chúng tôi trốn dưới những tán cây một lúc nữa, rồi Jona cúi
xuống nhặt cái gậy. Tôi không kịp ngăn hành động của em. Cái gậy đập vào
cái lều, tôi nghe một tiếng động kinh hãi khắp vương quốc đó. Chúng tôi
chờ nhưng không có chuyện gì xảy ra. Không ai đi ra cả. Jona nói: “Anh
lại đây.”
Cánh cửa không khóa. Tôi chỉ cần đẩy nhẹ một cái là nó
mở ra. Chúng tôi thò đầu vào trong. Tôi có cảm giác không có ai trong
đó. Trong đó tối quá không nhìn thấy gì. Chúng tôi bước thêm một bước,
một bước ngắn. Jona dựa hẳn vào người tôi và tôi nghĩ mình cảm nhận được
nhịp đập của trái tim em, hoặc nếu không thì đó là trái tim tôi. Rồi
mắt chúng tôi quen dần và tôi bắt đầu nhìn thấy. Có một cái gì đó như
một chiếc ghế nằm dưới đất, trên đó có chăn và da thú hay gì đó tôi
không rõ. Còn có một cái rương gỗ lật ngược và một chiếc đèn cũ kỹ treo
trên trần, một chiếc đèn tàu. Đó gần như tất cả những gì mà tôi đã nhìn
được. Sau đó Jona kêu lên. Tiếng kêu làm tôi đinh tai nhức óc, đầu tôi
quay ngược về phía sau. Tôi cảm thấy Jona níu vào tay tôi. Tôi rùng
mình. Tôi quay lại nhìn và thấy đôi mắt đỏ trong bóng đêm. Trong ngõ
ngách sâu nhất của túp lều, trong chỗ tối tăm nhất, không có gì khác
ngoài đôi mắt đó, những tưởng chúng tự bồng bềnh trong khoảng không. Đôi
mắt nhìn chúng tôi chằm chằm. Đúng lúc đó chúng tôi mới biết đó là quỷ.
Cả hai chúng tôi kéo nhau ba chân bốn cẳng chạy đi, chạy, chạy bạt
mạng. Không biết con quỷ đó có đuổi theo chúng tôi không. Chúng tôi chạy
một mạch về nhà... Váy Jona bị rách tả tơi, da của em bị xước nhiều
chỗ. Tôi những muốn liếm những vết xước đó để chăm sóc em.
Lần thứ hai chúng tôi nhìn thấy quỷ lại là lần cuối cùng.
Tôi
có bịt tai cũng bằng thừa, tôi hãy còn nghe tiếng hét của Jona. Đầu tôi
ong ong. Thế còn hơn là sự im lặng. Thế còn hơn là không gì hết. Bạn
biết đấy, em vẫn đang ở đó. Em đang ở với tôi. Em đã không rời xa tôi.
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn của em và siết rất mạnh. Tôi đúng là đang nắm
tay em. Em có thể đi đâu được chứ? Chúng tôi vẫn ở bên nhau, cả hai
chúng tôi. Chúng tôi sẽ mãi ở bên nhau, phải không nào? Những kẻ nào
phản đối là những kẻ dối trá. Đừng có nghe họ, Jona của anh ạ. Đừng có
tin họ...
*
* *
Chỉ có mình tôi biết hết mọi
chuyện. Những người khác còn có những lỗ hổng cần lấp đầy, và hẳn là họ
sẽ không bao giờ có thể lấp đầy. Đúng là như thế. Run rủi thế nào số
phận đã đặt trong tay tôi những tài liệu quý giá, những vật chứng chủ
đạo trong trò chơi kỳ cục không phải là duy nhất ấy. Chỉ có ở trong tay
tôi, tôi nhắc lại.
Ở đây tôi muốn nói đến những cuốn vở màu xanh
của Florence, tôi cũng muốn nói đến khoảng mười hai cuốn sổ của Ariel,
những cuốn sổ đóng gáy xoắn, cỡ nhỏ, tất cả đều giống nhau, nếu như
không phải là nội dung của chúng, trước mắt tôi hãy còn những tờ giấy
đầy rẫy những ký hiệu, những dòng chữ bị gạch xóa, bẩn thỉu, những nét
bút cẩu thả thường rất khó đọc. Tất cả, những cuốn vở hay những cuốn sổ,
giữa chúng có một mối liên hệ không tên.
Ariel và Florence có
chung sở thích viết. Giãi bày tâm hồn, cởi mở tấm lòng của họ trên giấy.
Mỗi người theo cách của mình, mỗi người có phong cách riêng, hẳn
Florence là người có năng khiếu nhất về lĩnh vực này. Giờ đây tôi đang
cố gắng theo kịp cô ấy.
Tôi cũng cần phải nói rõ là Florence không
biết những tập giấy này đang nằm trong tay tôi. Cái này thuộc về những
bí mật nhỏ của tôi. Vì thế mà có những sự hiểu nhầm và oán hận. Nhưng
tôi nhận thức được rất rõ. Tất cả những lời nói, hành động của tôi chưa
bao giờ chỉ có tình yêu đưa đường chỉ lối.
Tôi biết Ariel Weiss ở
trường trung học, năm tôi học lớp mười một. Hồi ấy tôi đúng mười sáu
tuổi. Hắn không nhập học như tất cả mọi người mà chỉ xuất hiện vào đầu
quý hai. Sự xuất hiện rất được chú ý. Hắn đã bận quần áo màu đen từ đầu
tới chân, đã đẹp trai phong độ lắm rồi, đã tỏ ra biết đời là gì rồi. Một
người hùng đơn độc. Hồi ấy tôi nghĩ những kiểu người như thế chỉ có
trong tiểu thuyết.
Đẹp và bí ẩn kết hợp với sự mới lạ: hơn cả
những gì cần thiết để làm cho bọn con gái chết mê chết mệt. Giờ Ariel
hẳn là đề tài bàn tán của bọn con gái trong khi trong mắt họ, chúng tôi
từ chỗ tàng tàng đến chỗ không gì hết. Thậm chí cái tên của hắn cũng đủ
làm lu mờ những cái tên của chúng tôi, nào là Patrick và Philippe hay
Matthieu, những người trần thế khốn khổ - Ariel không phải là tên của
một vị thần linh hay sao?
Đối với mấy thằng nhóc trong lớp, bẽ
bàng vì sự cạnh tranh bất ngờ và được xem là không trung thực ấy, đó
trước hết là dấu hiệu của sự thất bại. Ngay cuối tuần đầu tiên, trên
bảng giáo viên chủ nhiệm, một hàng chữ “Ariel = Ômô” đã được viết bằng
phấn hồng như rồng bay phượng múa. Tất nhiên là nặc danh rồi.
Người ta hễ tự vệ được là cứ tự vệ.
Hầu
hết mấy thằng con trai ban đầu đều có ác cảm với vị khách không mời mà
đến đó. Chúng bắt đầu căm thù hắn, với một nỗi căm thù gần như bản năng
và cơ hồ dai dẳng. Tôi thuộc những người theo dõi tiếp trước khi đưa ra
quyết định dứt khoát.
Nhưng sự thể là tất cả chúng tôi, con gái
cũng như con trai, những cô gái si tình hay những chàng trai ghen tuông,
tất cả chúng tôi đã bị hắn cuốn hút. Tất cả đều đã bị mê hoặc.
Tôi
nghĩ Ariel biết mình có ảnh hưởng như thế nào. Mặc dù vậy, hắn không
lạm dụng. Bản chất của hắn là thế và hắn không tìm cách o ép bản chất
của mình, kể cả trong nghĩa này hay nghĩa khác. Ít nhất là chưa. Thời
điểm đó thì chưa. Chỉ sau này mới có tính toán.
Thế là tôi chờ
xem. Không theo phe nào. Không mủi lòng. Tôi bắt đầu quan sát con người
có khả năng, chỉ bằng sự hiện diện của mình, làm xáo trộn cuộc sống
thường nhật của chúng tôi, làm cho cuộc sống của chúng tôi tan thành mây
khói. Lúc đầu là từ xa, rồi càng ngày càng gần hơn theo mức độ bị mê
hoặc của mình. Tôi đã rình rập hắn. Tôi đã theo dõi hắn. Tôi đã có thói
quen nhớ từng cử chỉ, hành động của hắn. Mỗi lời nói của hắn như hoa
thơm cỏ lạ, ngay lập tức được thu nhận và cất giữ trong chiếc bình trí
nhớ của tôi. Tôi chờ đến tối để tha hồ uống lấy uống để. Tôi uống đi,
uống lại, uống cho cạn kiệt thì thôi. Khi bắt đầu chợp mắt, tôi tập hợp
từng khuôn, từng mảnh trên khuôn mặt hắn để tái tạo lại. Đêm, tôi mơ về
hắn. Khi hắn không làm cho tôi mất ngủ.
Chỉ trong một thời gian
ngắn - chưa đến ba tháng ở trường - tôi đã đến mức như thế này. Gác hết
tất cả các hoạt động khác, không còn chơi với một số bạn bè, bỏ bê việc
học hành, tôi chỉ còn hứng thú với hắn, quan tâm tới hắn. Ariel đã trở
thành niềm đam mê duy nhất của tôi. Ám ảnh của tôi.
Tất nhiên điều
này hắn không hề hay biết. Trong thời gian ba tháng đầu này, tôi không
nhớ là hắn có ban cho tôi dù chỉ một cái nhìn hay không. Tôi không nhớ
là hai chúng tôi đã không trò chuyện với nhau một tí nào dù chỉ là một
lần. Cho dù bỗng dưng ngày hôm sau tôi biến mất thì chắc gì hắn đã để ý
sự vắng mặt của tôi. Ngay cả vầng dương cũng không nhận ra sự phân li
bất ngờ của một trong hằng hà sa số vì tinh tú khốn khổ đang bay quanh
vầng hào quang của hắn. Những cảm giác thật lạ. Đúng là thái độ của tôi
thật lạ. Tôi có xu hướng phân tích và dò xét: lý do duy nhất mà tôi đưa
ra để giải thích cho cơn địa chấn cá nhân này, đó là hình như tôi thiếu
cái gì đó, thiếu ai đó, để cho cuộc sống của tôi thực sự có ý nghĩa. Và
người đó chính là hắn. Ariel. Mặt trời đen. Với hắn, rốt cuộc tôi đã tìm
ra những gì mà tôi không biết. Một cách giải thích đơn sơ và không mấy
thỏa đáng, tôi công nhận như vậy.
Nhưng tôi không có cách giải thích nào khác.
Bản
thân tôi khi ấy là một chàng trai hơi đơn độc và e dè. Một trai hiền,
như người ta nói, không bao giờ biết gây sóng gió là gì. Không mấy khó
khăn để tôi mường tượng ra con đường nhẽ ra đã là của riêng tôi: một con
đường thẳng, phẳng lì, thông thoáng từ đầu đến cuối. Tôi tin nhiều
người có quỹ đạo như vậy, chỉ vì trời trên đầu đất dưới chân đều chưa có
ngày mở rộng để cho họ thấy sự mênh mông vô hạn của những thế giới cần
khám phá.
Thiên đường cũng như địa ngục không phải là những nơi trừu tượng. Tôi biết điều đó, tôi đã từng đến đó.
Tuy
nhiên, thật lạ khi thấy rằng, về cơ bản, tôi vẫn luôn là một chàng trai
hiền như trước đây. Và cuộc sống được miêu tả như thế, gần như dưới
dạng tiềm ẩn, gần như đó là cuộc sống mà tôi hằng khao khát kể từ khi
Ariel rời bỏ nó. Tôi muốn Florence và các con của tôi luôn ở bên tôi.
Tôi muốn chúng tôi được sống an bình và thanh thản. Thứ hạnh phúc trong
suốt.
Không còn di chuyển nữa. Thế thôi.
Phải chăng như thế
để nói rằng Ariel đã chỉ là một cái ngoặc đơn, một sự lệch lạc quái dị
trong đời tôi, hay, tệ hơn nữa, một lầm lẫn tuổi trẻ?
Tôi những muốn trả lời là đúng như thế.
Ariel
dường như không bị tác động bởi thái độ của các học sinh khác đối với
mình. Hắn vượt qua tất cả những thứ đó. Phải nói rằng những thứ đó không
bay cao bay xa là mấy. Những lời mỉa mai cay độc của đám con trai,
những chiêu câu khách của bọn con gái. Thường thì người ta hài lòng với
việc nói xỏ nói xiên gì đó khi hắn đi qua, hoặc ngược lại là một tiếng
cười khùng khục, một tiếng thở dài ồn ào ngây ngất trong chốc lát làm
ngắt quãng những điệu nhạc lễ nhẹ nhàng. Người ta lườm hắn bằng những cú
lườm chết người hay bạc nhược, nhưng không hề đụng đến hắn ta. Không ai
dám thẳng thừng đối đầu với hắn. Trừ một thằng tên là Cartereau, một kẻ
tỏ ra thẳng thắn và chính xác hơn trong những đợt tấn công của mình,
tất nhiên là với mục đích củng cố vị trí đầu têu trong lớp của nó. Tôi
sẽ nói thêm về chuyện này sau.
Về phần tôi, tôi cần nhiều hơn thế.
Thời gian quan sát và tôn sùng từ xa đã qua. Tôi cảm thấy nhu cầu tiếp
xúc càng ngày càng bức thiết. Chưa bao giờ tôi có cảm giác mạnh như thế.
Cái
chiêu gián điệp của tôi không cho tôi biết thêm về Ariel là mấy. Tôi
biết hắn ở đâu: Ở trên một vách đá, bên bờ biển, trong một biệt thự xa
hoa, hẳn là biệt thự đẹp nhất thành phố, điều này chỉ làm cho hắn có uy
hơn. Tôi biết hắn có sở thích là thỉnh thoảng đi đến một cái vũng biệt
lập nào đó, nơi không ai trông thấy rồi đứng trên một tảng đá ngắm nhìn
gì đó dưới nước hoặc ngoài khơi. Hắn đứng đó vài ba phút. Một thói quen
khác của hắn mà tôi đã để ý qua nhiều lần theo dõi, một thói quen thú
vị: bên ngoài trường có một băng tội phạm trẻ em, những kẻ khi cần có
thể tống tiền hoặc bán thuốc phiện - người ta thường gọi chúng bằng một
cái tên chung là “tụi mạt hạng”. Bọn này đã bỏ học, chỉ quanh quẩn gần
đó vào giờ tan trường để bán hàng. Chúng tôi biết mặt chúng nó, và chúng
tôi chú ý tránh bọn chúng càng xa càng tốt.
Nhưng Ariel thì không
làm thế. Tôi đã bắt gặp hắn nhiều lần cố tình lân la lại gần những tên
vô lại đó và chuyện trò với chúng. Tôi thấy hắn đi cùng chúng đến một
quán bar tồi tàn được chúng chọn làm đại bản doanh tại trung tâm thành
phố. Tôi thấy chúng trao đổi nhau những thứ gì đó bí mật qua những cái
bắt tay giả vờ và mau lẹ. Điều mà không ai tin được, đó là bọn lưu manh
này đối xử ngang hàng ngang lứa với hắn. Chúng chào hắn. Chúng tôn trọng
hắn.
Điều đó thừa đủ để làm cho tôi càng tò mò hơn, nhưng quá ít để thỏa mãn sự tò mò đó.
Thêm
vào đó là kỳ nghỉ Phục sinh đang đến gần và điều này khiến tôi đắm chìm
trong lo sợ. Như thế đồng nghĩa với việc mười lăm ngày không gặp hắn,
tôi tự hỏi một cách nghiêm túc là mình có cầm cự được không, và cầm cự
như thế nào.
Trong hai tuần lễ dài lê thê này, phần lớn thời gian
tôi lởn vởn quanh nhà hắn. Tôi cố gắng để không bị để ý, điều này không
phải là việc nhỏ trong một khu phố giàu có và ít người lai vãng, nơi mà
một người đi bộ thôi cũng có thể bị xem là một kẻ trộm cắp hèn hạ. Nhưng
tôi bắt đầu giỏi phát hiện những nơi trú ẩn và có khiếu theo dõi những
kẻ đáng nghi.
Khốn nỗi điều đó không giúp ích gì cho tôi. Ariel
vẫn luôn vô hình trước mắt tôi. Tôi không thể nhìn thấy dù chỉ là bóng
dáng của hắn, dù chỉ một lần duy nhất, không phải vì tôi không dò xét
tất cả các cánh cửa sổ của ngôi nhà (lòng chắc mẩm cánh cửa này hay cánh
cửa kia là phòng hắn), hay không rình rập giữa những bóng cây um tùm
trong khu vườn tuyệt diệu mà những cửa sổ đó hướng ra. Tôi đã dành hàng
giờ cho việc ấy. Trên thực tế, thậm chí tôi không biết Ariel có ở đây
không nữa. Người duy nhất mà tôi đã thấy ở đó là một người đàn ông
khoảng năm mươi tuổi, người cao, gầy, đầu gần hói hết. Chiều hôm đó, ông
ta ra sưởi nắng ngoài thềm. Ông mặc một chiếc áo sơmi trắng và một
chiếc quần dài nhưng lại đi chân đất. Ông ngồi trên một chiếc ghế sắt,
tay cầm một cái ly rồi uống từng ngụm nhỏ suốt nửa tiếng đồng hồ. Sau đó
ông vào nhà. Tôi nghĩ đó là cha của Ariel. Tôi đã đúng. Điều mà tôi
không thể ngờ lúc đó, đó là vài năm sau, tôi có dịp được gặp lại người
đàn ông này khi ông ta đã chết, xác bị gập lại dưới vách đá, cách chỗ mà
lúc bấy giờ tôi nấp khoảng hai mươi mét.
Khi đó tôi đã biết chuyện của họ.
Nhưng
hiện tại, việc nhìn thấy người này đối với tôi chỉ là một sự an ủi quá
nhỏ nhoi. Từ những chuyến dò la này, tôi trở về tay không mà lại còn bất
mãn. Trơ trọi.
Kỳ nghỉ đáng nguyền rủa này chỉ có một mặt tích
cực: cuối cùng tôi đã tìm ra cách để tiếp xúc với thần tượng của mình.
Không phải là không vò đầu bứt tóc. Hẳn vì quá e dè, tôi tìm cách làm
một việc ngoạn mục cho lần đầu tiếp cận này. Một ngón gì đó thật lớn và
chắc ăn, vì tôi nghĩ sẽ không có cơ hội thứ hai. Cái gì đó như kiểu: một
mất một còn, được làm vua thua làm giặc. Trong vô số những kế hoạch lờ
mờ đã thoáng qua đầu, tôi chỉ nêu ở đây kế hoạch được thông qua.
Ở
nhà tôi có một thứ vũ khí. Một khẩu súng lục. Tôi không rõ nguồn gốc
của nó và vì sao mà nó ở đó. Cha tôi là một người ăn ở hiền lành nên tôi
không nghĩ ông đã tìm cách có đồ vật ấy, sử dụng nó lại càng không. Vả
lại, khẩu súng này được giấu kín trong một tủ tường, lẫn vào những đồ
vật linh tinh. Có thể nó đã bị lãng quên. Hai hay ba năm trước, tôi đã
mó được khẩu súng đó khi đang lục lọi gì đó. Cái gói được bọc tấm vải
dày bụi bặm có buộc một sợi dây nhỏ đã làm cho tôi phải suy nghĩ. Tôi
nhớ khi mở cái bọc đó ra, tôi đã khẽ rùng mình. Đó là một khẩu súng có
vẻ ngoài khá ấn tượng và rất giống với những khẩu súng mà các tội phạm
hay cảnh sát thường dùng trong phim ảnh. Vài phút sau, khi đã loại bỏ
nhiều kẻ vô hình và bất lương đang muốn lấy mạng tôi, tôi cẩn thận bỏ
khẩu súng đó vào chỗ của nó và sau đó đến lượt mình cũng quên bẵng đi.
Đến hôm đó.
Tôi
thấy ý tưởng của mình thật tuyệt. Một phát hiện. Tôi không lưỡng lự một
giây. Lợi dụng lúc cha mẹ vắng nhà, tôi lấy khẩu súng ra, vứt bỏ tấm
vải bọc rồi bỏ vào cặp. Tôi lại đi học. Khẩu súng vẫn chưa được rút ra
từ cái bao mới của nó, tôi để khẩu súng lẫn trong sách vở và đem theo
mình. Thật khoái khi tôi nghĩ đến nó! Rồi, hết ngày thứ năm, cơ hội mà
tôi đang rình rập cuối cùng đã lộ ra. Tôi theo dõi Ariel. Tôi bắt quả
tang hắn đi gặp bọn thanh niên hư hỏng trong phố một lần nữa. Bọn chúng
vào quán bar. Tôi chờ Ariel ra rồi tiếp tục theo dõi hắn. Khi gần đến
nhà hắn, tôi chạy hết sức mới đuổi kịp hắn. Tôi thấy chỗ ấy thích hợp vì
vắng bóng người. Có lẽ hắn nghe tiếng bước chân của tôi sau lưng nên
quay lại trước khi tôi gọi hắn.
- Chào cậu, tôi nói.
Hắn
không trả lời. Hắn im lặng nhìn chằm chằm vào mặt tôi. Cách đó một giờ,
trong lớp, tôi còn cách hắn hai hàng ghế, nhưng tôi biết hắn phải mất
một ít thời gian để nhận ra tôi. Như một người từ quá khứ hiện về trong
mơ hồ. Tôi có chuẩn bị cũng bằng thừa, hắn đã chơi tôi một vố khá đau.
Tôi nói luôn:
- Cậu gặp phiền toái gì à?
- Phiền toái ư? Hắn hỏi lại.
-
Với những thằng cha đó. Những thằng ở cổng trường đấy. Hình như mình đã
thấy cậu đi với chúng nó. Mình thắc mắc không biết cậu có gặp rắc rối
gì không...
Sự thể không như tôi mong đợi. Tôi những mong một
giọng điệu chắc chắn và cứng rắn hơn. Một giọng điệu hoàn hảo. Giọng của
một lãnh chúa thực sự.
- Không, - hắn nói - không có phiền toái gì. Tôi lắc đầu.
- Nếu cậu cần mình giúp một tay thì đừng ngại nhé. Những gì cần mình có trong này.
Tôi vỗ vỗ cái cặp của mình. Tôi chờ một câu hỏi nhưng hắn không e hè.
- Cậu muốn xem không? Tôi nài nỉ.
Hắn
tiếp tục nhìn tôi chằm chằm mà không nói gì. Tôi cho đó là một sự tán
đồng. Tôi không thể chịu đựng được nữa. Tôi mở cặp ra và thò tay vào,
tôi liếc ngược liếc xuôi, rồi trong khi mà trong đầu lùng bùng tiếng
trống, tôi từ từ, rất từ từ lôi khẩu súng ra.
Không hài lòng với
chính mình. Thanh kim loại diệu kỳ trong lòng bàn tay. Nếu xoay được
khẩu súng trên đầu ngón tay trỏ như những tay cao bồi miền Tây thì tôi
đã làm rồi.
Tôi đã nói là tôi mới mười sáu tuổi mà. Và tôi bị đam
mê làm cho mù quáng. Làm sao tôi có thể nhận ra sự buồn cười và tình
cảnh thê thảm lúc đó?
Một nụ cười phác họa trên bờ môi hắn. Cả nỗi niềm trắc ẩn của hắn. Đó là phản ứng rõ ràng duy nhất của hắn.
- Đồng ý, - hắn nói - mình sẽ để ý.
Rồi
hắn quay lưng đi, bỏ mặc tôi một mình trên vỉa hè với khẩu sung nặng
một ký trên tay và ý muốn nhảy xuống sông mà chết quách cho rồi...
Tôi
đi chưa được năm trăm mét đã phải vội vàng đậu xe bên vệ đường. Tôi
nhoài người ra và nôn thốc nôn tháo trên vỉa hè dưới con mắt tức giận
của một ông già đang đưa chó đi đạo. Mùi cà phê Arabica bốc ra từ ruột
gan. Đó là những gì tôi có trong bụng. Ông già kéo xích chó để cho con
vật không lại hít bãi nôn. Tôi dựa người vào capô để bụng bớt co thắt.
Rồi tôi ngồi lại, thề sẽ không bao giờ đặt chân đến thành phố này nữa.
Khi
đi về tôi chạy xe không nhanh hơn. Tôi cần tái tạo không khí trong xe:
cửa đóng kín, tiếng vù vù nhẹ nhàng của động cơ, một kênh nhạc cổ điển
mà rốt cuộc tôi đã dò được. Tôi nhận ra Brahms. Bản giao hưởng số 1 cung
đô trưởng. Cần gạt nước mưa đánh lạc nhịp. Mẹ tôi những muốn tôi trở
thành nhạc trưởng.
Hy vọng vỡ tan. Tôi đã mất mười một năm học
xướng âm và piano trước khi mẹ tôi nhận ra sự thể và chấp nhận thất bại:
thằng con đáng yêu của bà có khiếu với nghệ thuật này như một con tê
giác có khiếu với bộ môn khiêu vũ. Cha tôi thì ngao ngán trong thầm
lặng. Ông những muốn tôi đeo đuổi sự nghiệp nhà binh theo gương ông. Hy
vọng bẽ bàng. Mặc dù vậy, cảnh sát quốc gia có một số điểm giống với
quân đội: tính nghiêm ngặt và kỷ luật được coi là những đặc trưng chung
cho hai ngành, và gây chiến để gìn giữ hòa bình là sứ mệnh chung đầy
nghịch lý của cả quân đội và cảnh sát. Cớm chẳng qua là một nghề bất đắc
dĩ. Cha tôi ít đau lòng hơn mẹ tôi về cái nghề này.