Gió trắng - Chương 12 phần 1
Chương 12: Nắng chiều
Kính tặng bà nội Bùi Bội Khâm
Xe
đến Quảng Ngãi trời vẫn còn nắng. Quãng đường đi về hướng Ba Tơ bụi đỏ
thắm rực lên dưới ánh xiên chéo của nắng quái. Xe nhảy xọc xọc qua mấy
cái ổ gà. Bác tài xót xe, buột một câu chửi tục. Bỗng dì Hòa kêu:
- Nhìn kìa! Cầu vồng!
Cả
xe ồ lên, ngó ra cửa sổ. Trên nền trời còn nặng nước, một dải cầu vồng
lộng lẫy hiện ra, nối hai đường chân trời từ hai phía Đông Tây. Hoa chưa
từng thấy dải cầu vồng nào trọn vẹn đến thế, đủ bảy sắc, lồ lộ không hề
bị khuất lấp đoạn nào.
“Điềm
tốt đấy” - ông Toàn lẩm bẩm. Mặt ông vốn không sinh động, luôn trầm tư
đắm chìm trong những suy nghĩ khác thường nào đó, giờ càng đờ đẫn hơn.
Không hiểu sao Hoa cứ có cảm giác rờn rợn khi nhìn vào nước da tai tái
bung bủng của con người này. Cả mắt nữa, không chút sinh khí, không đáng
tin. Vậy mà bà ngoại lại tin ông ta, tin lắm. Từ khi cả nhà nhận được
thư của bác Đồng, bạn chiến đấu cùng đơn vị cậu Bình khi xưa, giới thiệu
ông Toàn chuyên tìm mộ chiến sĩ, không ngày nào trong nhà không nhắc
đến tên ông. “Bác Toàn bảo từ nay đến khi lên đường vào Quảng Ngãi, ngày
nào cũng cúng cơm cậu Bình, y như cúng 49, 100 ngày ấy. Không được
sai…” “Ông Toàn hẹn mấy hôm nữa sẽ xuống gọi hồn cho, chuẩn bị 7 quả
trứng luộc, nhớ phải đón ông ấy đúng giờ, kẻo mà hỏng việc…”
Hoa
đang học năm thứ hai trường Luật. Cô theo chủ nghĩa duy lý, không tin
vào cúng bái, thánh thần, cái gì cũng bắt bẻ, vì sao, sao lại thế, cơ sở
nào… Nhưng thấy bà ngoại sau bao nhiêu năm nằm liệt, chẳng đi đâu ra
khỏi nhà, nay gần như hồi sinh cùng với cái tên “Bác Toàn” được nhắc nhở
đến luôn luôn, cô không nỡ làm bà buồn. Nhưng kể cũng lạ, khi cô đọc
được thông tin trên tờ An ninh thế giới về một nhóm các nhà ngoại cảm
vẫn giúp người ta tìm mộ liệt sĩ, có tổ chức đàng hoàng, nói thì bà lại
thờ ơ. Ông Toàn là một nông dân chính gốc, quê ở Thái Bình. Mắt đục,
chân tay gân guốc, móng tay vàng khé vì khói thuốc. Nghe kể thì một hôm
ra đồng bị trúng sét, ông đâm ra nhìn thấu cõi âm, lên đồng gọi hồn áp
vong, chỉ đường cho người dương tìm đến âm hồn của những hài cốt thất
lạc. Thì ra, niềm tin không cần nhiều lý lẽ và cũng không có lý lẽ. Bà
tin ông Toàn bằng trực giác, và vì bà muốn tin. Còn Hoa, ngay cả khi cô
lý giải được một vấn đề gì đó rất cặn kẽ thì cô cũng không chắc mình đã
tin vào điều ấy!
Cậu
Bình của Hoa là con út trong nhà, sau một loạt các anh chị Mong, Đợi,
Hòa… Mẹ Hoa là người thứ hai, tên Đợi. Bác Mong định cư bên Pháp, dì Hòa
và mẹ Hoa đều ở Hà Nội với bà, Cậu Bình hy sinh năm 1971 ở chiến trường
này. Năm ấy cậu chưa đầy 18 tuổi. Hồi nhỏ, Hoa thường hay sợ tấm ảnh
cậu Bình treo cao hẳn bên trên bàn thờ. Cậu nhìn qua dãy bát hương, ánh
mắt cứ cười cười nhìn theo Hoa, trốn đâu cũng không rời được. Mỗi lần bà
bảo Hoa vái cậu Bình đi, thì Hoa chắp tay vái vội vái vàng vài cái, mắt
cắm xuống sàn nhà. Về sau lớn lên, nghe mẹ kể về cậu, rằng cậu trắng
xinh nhất nhà, chưa kịp có người yêu đã lên đường ra trận, rằng cậu học
giỏi và nuôi gà cũng giỏi, đàn gà của cậu toàn được ăn châu chấu béo
mẫm..v..v. thì Hoa đã dám nhìn thẳng vào mắt cậu mà không sợ. Hoa thấy
mắt cậu rất hiền, và đôi khi qua làn hương khói, Hoa tưởng như cậu nháy
mắt cười. Từ đó đâm ra Hoa thấy cậu cháu Hoa đã thân nhau tự lúc nào.
Năm lớp 7, đi thi học sinh giỏi Văn cấp Quận, nhận đề về người lính, Hoa
còn tả cậu Bình. Về đọc cho bà nghe, bà quệt nước mắt khô, đỏ bỏng cả
má. Hoa hỏi cháu tả có giống không, thì bà gật đầu, cười mếu máo. Bà bảo
cậu nhỏ người lắm, năm ấy xung phong đi bộ đội, người ta có nhận đâu,
tuổi chưa đủ, cân nặng cũng thiếu. Cái ông phụ trách tuyển quân trên
quận còn đùa: “Tết này bảo mẹ nấu nhiều bánh chưng vào, ăn cho lớn rồi
đi đợt sau nhé!”… Thế mà cuối cùng thế nào vẫn xin được cái lệnh nhập
ngũ. Hôm cậu báo với bà, bà có buồn không bà? Nhưng chắc là hồi ý ai
cũng vui khi có con đi theo tiếng gọi của Tổ Quốc, nhỉ bà nhỉ? Bà thở
dài bảo không, chẳng hiểu là buồn hay vui, chỉ thấy người không được
bình thường. Cậu Bình tinh ý, hỏi: “Mợ sao vậy mợ? Hay mợ sợ con đi rồi
con chết?”… Cái thằng, gở mồm gở miệng… Không người mẹ nào tiễn con đi
lại dám nghĩ đến điều đó, họ không để những ý nghĩ như thế len vào đầu.
Bà thở như hắt ra, nói, ngày đi, cậu mặc quân phục mới rộng thùng thình,
mặt non choẹt, nhìn buồn cười lắm. Bây giờ mua đồ hàng mã hóa cho cậu,
bà cứ nghĩ, không biết cậu có lớn lên không, mặc cỡ này có vừa không. Bà
lẩm cẩm nhỉ, người chết làm sao lớn được. Cậu Bình cứ gầy nhỏ như thế
mãi thôi… Và trẻ như thế mãi, bà ạ, Hoa thì thầm.
Một
đêm Hoa mơ thấy cậu Bình về. Cậu mặc quân phục oách lắm, đeo hai súng
hai bên, đi như lướt trên sàn đá hoa. Cậu kể là đang đi đánh trận ghé
qua. Hoa hỏi, hòa bình rồi cơ mà, cậu? Cậu nói, mặt buồn rười rượi: “Lúc
nào chẳng có giặc hả cháu, kể cả khi đã hòa bình. Hoa tỉnh dậy cứ ngẩn
ngơ, không hiểu cậu nói thế là sao. Có bận Hoa lại mơ thấy Hoa đứng thắp
hương cho cậu, thì từ đôi mắt trong tấm ảnh bỗng chảy ra hai hàng nước
mắt. Hoa hỏi, cậu bảo, thương anh em đói, ém ngoài ruộng đã mấy ngày,
không ăn gì ngoài củ dong, xót hết cả ruột. Rồi cậu hỏi, sao cháu không
hóa vàng cho cậu. Hoa giật mình dậy, mới nhớ ra mấy hôm rằm, mẹ đặt tiền
vàng lên bàn thờ mà sau đó bận bịu quên không hóa. Sáng ra Hoa vẫn nhìn
thấy tập tiền đô âm phủ trên đĩa, bèn đem đi hóa, rồi không đừng được
lại kể với bà. Bà ôm tấm ảnh cậu Bình, lấy khăn sạch lau khắp mặt kính,
như thể lau nước mắt cho cậu. Rồi thắp cả một thẻ hương, khói nghi ngút.
Khói bay quanh quất, quấn vào mái tóc đã bạc gần hết của bà, khiến Hoa
thấy bà như gần như xa. Hoa thót tim một cái. Bà cũng đã 80 rồi còn gì.
Bao nhiêu năm hỏi han tìm tòi tin tức của đồng đội thân thiết của cậu
Bình mà không có kết quả, bà gần như kiệt sức. Có những hôm, bà ngồi thừ
cả ngày trên phản, tay cứ xoa xoa mặt phản đen bóng loáng. Hoa biết,
trước đây hồi còn đi học, cậu Bình hay thích cởi trần nằm trên tấm phản
này mùa Hè, mồ hôi của cậu thấm xuống phản, bà bảo đến giờ bà vẫn thấy
mùi chua chua. Hoa thì chẳng thấy mùi gì cả, nhưng mỗi lần trèo lên
phản, Hoa ngồi rất rón rén, cứ như thể đây là tấm phản riêng của cậu
Bình, chiều tối cậu về cậu nằm.
Cũng
chính vì thế mà dần dà, Hoa không còn cảm giác cậu Bình đã hy sinh, lại
chưa tìm được hài cốt. Hoa thấy cậu vẫn hiện diện trong nhà. Đi lại,
nói năng, chum miệng bắt chước tiếng chuột để gọi mèo, rồi có lúc hát ầm
lên bài hát “Lì và sáo” nữa… Đương nhiên, tất cả những điều ấy Hoa đều
nghe qua bà, mỗi chiều Hoa học bài xong, nhổ tóc sâu hay bắt bão đầu cho
bà, bà lại kể lể bằng cái giọng đều đều, khẽ như không muốn ai phải
giật mình, hay đúng hơn là không muốn chính mình bị giật mình mà dứt ra
khỏi những hoài niệm. Hoa phải căng tai ra nghe, lâu rồi cũng thành
quen, Hoa nghe được bằng hết. Đôi khi Hoa tưởng như Hoa nghe bằng bàn
tay, chỉ chạm tay vào người bà là đã thấy bao ký ức dội lên rồi.
* * *
Xuống
xe khách, đoàn nhà Hoa gồm 5 người bắt mấy cái xe ôm chạy về xã X. Mấy
bác xe ôm đen đúa nhiệt tình mời mọc nhà Hoa đi kẹp ba. “Có nhiêu đâu,
bả mươi ngà thôi mà!” Hoa định leo lên, thấy ba mươi ngàn thì cũng không
đắt, vì ông Toàn đã thông báo từ đây đến xã X cũng đi mất nửa tiếng.
Nhưng chú Hùng gọi giật Hoa xuống, bảo: “Bảy mươi ngàn, đi lại kẹp ba
thì đi làm gì!”. Ra thế! Hoa bật cười.
Nghĩa
trang liệt sĩ của xã X rất bé, nép bên rặng phi lao, bao quanh là một
bức tường rào cũ kỹ, tróc lở. Trời chiều, gió nổi lên vi vút. Hoa bất
giác hơi rùng mình. Bà, mẹ, dì Hòa và chú Hùng, chồng dì, cùng với ông
Toàn đang hí húi sắp lễ và bó hoa huệ lên đài tưởng niệm giữa nghĩa
trang. Gọi là đài tưởng niệm, chứ cũng chỉ là một cái cột bê tông to có
nơi làm bàn thờ, có ngôi sao vàng quét bằng vôi ve và dòng chữ Tổ Quốc
ghi công to cộ. Mọi người thắp hương lên thì trời bỗng tối sầm, mây đen
kéo về một góc trời. Gió đẩy hàng phi lao oằn oại, Hoa có cảm tưởng chỉ
một lát nữa thôi là dãy phi lao ngả rạp xuống đất và bầu trời nặng sẽ ập
xuống đầu mọi người trong đoàn. Tiếng gì vọng lên từ đất, từ rặng cây,
nghe như những tiếng oan hồn đang rên khe khẽ. Một giọt nước lạnh rơi
vào cổ Hoa. Cô hoảng hốt. Mưa bây giờ thì chết, chạy không kịp. Cả nhà
lo lắng. Hoa cuống lên, cô bất giác khấn to: “Thưa các liệt sĩ, các chú
ơi, cả nhà cháu đến tìm cậu cháu. Mưa thì làm sao mà tìm, làm sao mà gặp
nhau được. Các chú phù hộ cho nhà cháu với…”
Ở nhà, chưa bao giờ cô từng khấn to mà chỉ nghĩ thầm trong đầu những gì cô muốn nói với cậu Bình. Ai nghe thấy thì xấu hổ!
Khi Hoa lùi xuống, thấy ông Toàn thoáng mỉm cười. Cô đỏ mặt quay đi, hơi nhăn mặt khó chịu.
Mười
phút sau, mặt trời đang xuống bỗng ló ra khỏi mây, trời đã hửng. Mây
đen dạt bớt đi. Và thật không thể tin được, gió lặng, không có thêm giọt
mưa nào. Mọi người thảng thốt nhìn nhau, vừa vui mừng, vừa kinh sợ. Hoa
thấy đôi chút hãnh diện. Được thể, cô vừa tiến đến ngôi mộ ở góc nghĩa
trang, vừa đi vừa khấn: “Cậu Bình ơi, cậu về với cả nhà nhé. Cậu ở đây
nhé, cháu biết là cậu ở đây rồi!”…
Ngôi
mộ nhỏ được xây lại bằng bê tông, trên tấm bia có hình ngôi sao đỏ và
dòng chữ “Mộ liệt sĩ chưa có tên”. Mẹ, dì Hòa đều òa lên khóc. Dì Hòa kể
lể: “Em ơi, em chết trẻ chết thiêng mà sao không xui anh chị tìm đường
đến với em sớm… Để bây giờ đã gần 20 năm rồi mới được gặp nhau…”. Hoa
đến gần bà, ôm lấy đôi vai già nua như đang còng xuống, thấy bà run nhè
nhẹ. Má bà ướt đẫm, nhưng Hoa không nhìn thấy nước mắt chảy. Cứ như thể
nước mắt thấm từ trong da thấm ra, cả má, cả cổ, cả tay và đến chân
những ngọn tóc bạc của bà cũng đẫm nước.
Chú
Hùng lăng xăng nhặt cỏ, cắm hoa, đặt lễ. Chú đặt cả lễ lên các mộ gần
đó. Có mộ có tên, có mộ vô danh. Chỉ giống nhau ở chỗ, tất cả đều được
xây kích cỡ đều tăm tắp như một, và sơn trắng toát. Bộ đội khi là người
âm cũng như bộ đội trên dương thế, cái gì cũng đồng đều, là một khối
không tách rời, những người đồng đội đi bên nhau trong quân ngũ và nằm
bên nhau trong nghĩa trang…
Ông
Toàn có vẻ bần thần. Ông đứng lặng nhìn chòng chọc vào ngôi mộ, đôi mắt
mờ đục càng như mờ đi, chỗ da ở thái dương ông giật giật rất kỳ quặc,
rồi thốt nhiên ghé tai nói gì đó với chú Hùng. Chú Hùng trợn mắt, lắc
đầu, rồi lại gật gật lia lịa… Chú bỏ hương hoa lại đó, bảo Hoa sắp tiếp
rồi quày quả bước ra khỏi nghĩa trang. Từ cổng nghĩa trang có con đường
đất chạy dài qua cánh đồng, đến một dãy nhà xây kiên cố, có biển đỏ treo
to trên cổng.
- Ủy ban xã đấy. - Ông Toàn giảng giải.
Chú
Hùng đi một hồi trở về cùng một người đàn ông trung niên. Anh ta mặc
quân phục nhưng không đeo quân hàm. Chú Hùng giới thiệu:
- Đây là anh Doanh, phụ trách thương binh xã hội của xã.
Người đàn ông tên Doanh bắt tay mọi người, rồi bối rối nói với bà bằng chất giọng Quảng Ngãi nhưng không quá khó nghe:
- Bòa và mấy eng chị về nhà tui nghỉ tạm đã. Ăn côm…
Nhưng
cái tin mà anh Doanh đưa đến làm cả nhà không còn tâm trí nào mà về nhà
anh ăn cơm được nữa. Anh cho biết, mộ này là mộ rỗng! Cách đây mới có
vài ngày, có người từ Huế vào xin bốc đi rồi. Bà sụp xuống, chân run,
đứng lên không nổi. Lúc này bà mới rên lên, Hoa nghe mà nước mắt cứ tuôn
ào ào: “Giời ơi, con ơi, mợ biết chắc là con ở đây kia mà!”
Sao
mộ rỗng không ghi mộ rỗng, lại để thế này? Mẹ Hoa thắc mắc. Anh Doanh
càng bối rối tợn. Lúng túng mãi, anh mới nói, đôi khi hài cốt liệt sĩ đã
có người bốc về quê rồi nhưng người ta không khai lên trên, để nhận
thêm ít tiền chi phí trông coi mộ. Anh Doanh nói rồi cứ đứng như trời
trồng, bẻ tay đôm đốp. Anh bảo: “Bòa và mấy cô thông cảm…”
Cả
nhà im lặng. Hoa thấy buồn buồn. Nhưng lạ là cô không hể có cảm giác
giận hay bức xúc như cô, một sinh viên học Luật, vẫn thường vậy mỗi khi
nghe chuyện nọ chuyện kia nơi này nơi kia xử lý không đúng nguyên tắc.
Cô hay kêu ca, phản biện, ý kiến ý cò đến nỗi bọn cùng lớp cứ trêu: “Hoa
ơi, mày bức vừa vừa thôi, không có là đi đâu cũng bị xúc đi đấy!”.
Bây
giờ, cô thấy hơi nghẹn ngào. Không rõ cô thương cậu Bình, thương các
liệt sĩ, thương những ngôi mộ rỗng, hay thương những người cứ phải loay
hoay tìm cách kiếm vài đồng bạc, kể cả bằng việc đùa giỡn với các âm
hồn! Nhìn anh Doanh, Hoa thấy cũng chẳng thể giận được những người như
thế này. Gầy, cao, nước da sạm, gương mặt khắc khổ nhưng mắt sáng, chân
thật và dễ mến.
Ông Toàn bứt đầu bứt tai: “Mới cách đây một tuần, hồn còn về chỉ dẫn cho tôi mà. Thật không thể tin nổi!”.
Anh
Doanh mời cả nhà vào Ủy ban xã để anh lục giấy tờ tìm địa chỉ gia đình
đã đưa hài cốt trong ngôi mộ kia đi. Mọi người lếch thếch bước thấp bước
cao đi theo anh Doanh, nhưng vẫn không quên khấn vái một hồi trước
những ngôi mộ, kể cả ngôi mộ rỗng.
- Bác và mấy chị thu lễ đi! - Anh Doanh giục.
-
Chưa hết hương mà! Lát quay lại lấy cũng được! - Mẹ chỉ đạo. Anh Doanh
dợm miệng định nói gì rồi lại thôi. Anh lòng khòng bước đi, một bên vai
lệch trĩu xuống như đang phải gánh một gánh nặng vô hình.
Ủy
ban xã giờ muộn vẫn thấy có người đang làm việc. Chú Hùng ghé tai mẹ
Hoa, khẽ nói: “Em đã mua thuốc lá biếu hết cả lượt rồi đấy. Chị có đề
nghị gì thì cứ thoải mái, họ cũng dễ chịu lắm!”.
Hoa
nhìn quanh. Căn phòng khá khang trang, được quét vô vàng nhạt. Trên
tường treo đầy bằng khen, gần như kín cả bức tường. Hoa hết cả mắt, Hoa
vội chuyển cái nhìn vào mấy người trong phòng. Một người đứng tuổi đang
giải quyết việc gì đó với hai bố con cô bé trẻ măng, mắt tròn tròn, ngơ
ngác, đôi bàn tay cứ xoắn xuýt vào nhau dưới gầm bàn, những ngón tay
đen, hơi cáu bẩn. Có lẽ cô làm ruộng.
Chừng như đã xong việc, ông bố đứng dậy lả giả: “Thôi, mấy anh lồm việc, cha con tui về.”
Bố
con họ gật đầu chào nhà Hoa rồi đi như chạy, nhưng rõ ràng là được việc
nên hai người cười tươi lắm. Cô bé líu ríu vấp một cái đau điếng dưới
hè. Anh Doanh nhìn theo, lắc đầu cười: “Cha con nhà ấy đến xin đăng ký
kết hôn cho con gái với thằng rể xóm dưới. Con gái mới 16, chưa đủ tuổi.
Tụi tui phải bật đèn xanh thích cưới thì cứ cưới thôi, hai nôm nữa đến
đăng ký rẹc rẹc là xong!”.
Đang
rầu rĩ mà cả bầu đoàn thê tử nhà Hoa cũng phải cười xòa. Lại một lần
nữa Hoa ngạc nhiên với chính mình, vì cảm giác vui vẻ khi thấy một
chuyện vô nguyên tắc nữa!
Quay
lại nghĩa trang xã thu lộc, cả nhà mới hiểu vì sao anh Doanh nhắc mọi
người thu lễ sớm. Mấy cái đĩa bánh, kẹo hoa quả, xôi oản đã trống trơn.
Anh Doanh bảo: “Trẻ chăn trâu rình ở đây suốt ngày!”
Tối
hôm đó, cả nhà được đưa về nhà anh Doanh ăn cơm tối. Chú Hùng bắt xe ôm
ra đường cái, mua vội mấy đòn giò lụa mang vào góp thức ăn. Mâm cơm có
cá nục kho, thịt cũng kho, một bát canh mướp già nhiều xơ và đặc biệt là
có một đĩa dưa hấu non thái mỏng, chấm nước mắm. Anh Doanh giải thích ở
đây nắng nóng, rau không có nhiều, ăn dưa hấu non thay rau cho mát.
Ruồi bay vo ve quay mâm cơm, không thể đuổi hết. Trẻ con nhà anh Doanh
có hai đứa bé, một trai một gái sàn sàn trứng gà trứng vịt, và một thằng
cu đang ẵm trên tay. Hai đứa trẻ hì hụi ăn độc mỗi món giò lụa khách
mang đến, mặc dù bố chúng đã lừ mắt mấy lần. Chúng nó cười rất tươi, mặt
thì đen nhẻm. Anh Doanh ít nói, cả bữa ai hỏi thì trả lời, chủ yếu là
mẹ và vợ anh tranh nhau tiếp khách. Hoa ù hết cả tai vì cái giọng thổ
ngữ địa phương, gần như cô không hiểu gì mấy. Cô cười trừ suốt từ đầu
đến cuối. Vâng vâng dạ dạ mà cứ hoang mang, không biết vâng dạ có đúng
chỗ không. Đôi khi chú Hùng phiên dịch lại cho Hoa. Chú Hùng cũng từng
đi bộ đội nên giọng nói các vùng miền chú khá thạo. Hoa hỏi thằng bé
con, con đầu của anh Doanh:
- Cháu tên gì?
- Dạ, con tên Di!
Thế
là suốt buổi, hai cô cháu rỉ rả với nhau. Cô nói, cháu nói, gần như
chẳng ai nghe ai, nhưng Hoa thấy vui thế. Mãi đến khi xong bữa, thằng bé
khoe sách vở, cô mới ngã ngửa ra là cu cậu tên là Duy chứ không phải là
Di như cô vẫn gọi nó từ đầu đến giờ. Hoa đỏ hết cả mặt, nhưng rất may
không ai để ý. Qua lời kể lộn xộn và khó nghe của Duy, Hoa biết là “các
cô chú” đi tìm mộ rất hay tá túc nhà Duy, mỗi năm có khi đến vài ba
đoàn. Vùng nào còn rất nhiều hài cốt chưa được quy tập sót lại trên cánh
đồng, dưới chân núi, và đâu đó quanh những khu rừng phi lao thưa thớt.
Hoa thấy người lúc lạnh, lúc nóng, lần đầu tiên cô thấy chiến tranh ở
gần đến thế. Đêm, cô nhìn ra bầu trời có một vạt sao lệch, thầm nghĩ,
nếu mỗi vì sao ứng với một liệt sĩ, thì có khi sao trên trời đêm nay
cũng không đủ. Cậu Bình ơi, cậu đang ở nơi nào? Gió lại nổi lên, cô lại
nghe tiếng âm hồn rỉ rả, như từ đất, từ núi, từ dòng sông vọng về…