Đấu Trường Sinh Tử - Chương 04

Một lúc sau, Peeta và
tôi chứng kiến cảnh người hướng dẫn của mình cố gượng khỏi đống bầy nhầy vừa
nôn. Mùi tanh tởm của bãi mửa và hơi rượu suýt làm tôi trào cả bữa tối ra
ngoài. Chúng tôi liếc nhau. Rõ ràng Haymitch không giúp được gì nhiều, nhưng
Effie Trinket cũng có lý khi nói: một khi chúng tôi ra đấu trường, ông ấy là tất
cả những gì chúng tôi có. Cứ như đã ngầm đồng ý từ trước, Peeta và tôi mỗi người
khoác một tay Haymitch giúp ông ta đứng dậy.

“Tôi bị vấp à?” Haymitch
hỏi. “Mùi kinh quá.” Ông ta đưa tay lau mũi, quệt cả vết bẩn lúc nãy lên mặt.

“Để chúng cháu đưa ông
về phòng,” Peeta nói. “Rửa ráy một chút cho ông.”

Chúng tôi nửa dìu, nửa
bế Haymitch về phòng. Do không thể để ông ta nằm lên tấm trải giường thêu ren sạch
sẽ, chúng tôi lôi Haymitch vào bồn tắm và bật vòi sen lên. Ông ta hầu như không
biết gì.

“Được rồi,” Peeta nói với
tôi. “Bây giờ để đấy cho tớ.”

Lòng tôi dâng lên chút
cảm giác biết ơn, bởi tôi đang định cởi quần áo Haymitch, lau sạch những vết ói
trên ngực ông ta và lôi ông ta lên giường. Có thể Peeta đang tìm cách gây ấn tượng
tốt, để trở thành trò cưng của ông ấy khi Cuộc đấu bắt đầu. Nhưng với tình hình
này thì chắc ngày mai ông ấy chẳng nhớ gì đâu.

“Tốt thôi,” tôi nói. “Để
tớ gọi một người của Capitol đến giúp cậu.” Có vài người đang ở trên tàu. Nấu
ăn cho chúng tôi. Đợi chúng tôi. Bảo vệ chúng tôi. Nhiệm vụ của họ là chăm sóc
chúng tôi.

“Thôi khỏi. Tớ không cần
đến họ,” Peeta nói.

Tôi gật đầu và đi về
phòng. Tôi hiểu cảm giác của Peeta. Bản thân tôi cũng khó chịu khi nhìn thấy họ.
Nhưng để Haymitch cho họ lo liệu có thể là một cách trả thù. Tôi tự hỏi tại sao
cậu lại khăng khăng đòi chăm sóc Haymitch, để rồi đột nhiên nảy ra ý nghĩ, Bởi
cậu ấy là người tốt. Như khi cậu ấy đưa tôi ổ bánh mì.

Suy nghĩ này làm tôi chột
dạ. Một Peeta Mellark xấu xa. Ấn tượng về những người tốt thường đọng lại và khắc
sâu trong tâm trí tôi. Tôi không thể để điều đó xảy ra với Peeta. Ít nhất là
khi nghĩ về cái nơi chúng tôi sắp đến. Vậy nên, từ bây giờ, tôi quyết định tiếp
xúc với con trai của chủ tiệm bánh mì càng ít càng tốt.

Khi tôi về đến phòng,
xe lửa tạm dừng ở một nhà ga để tiếp nhiên liệu. Tôi nhanh tay mở cửa sổ, ném
những chiếc bánh quy mà cha của Peeta đã đưa cho tôi ra khỏi xe lửa và đóng sập
cửa kính xuống. Tôi không cần. Không cần thêm gì ở cả hai người bọn họ.

Không may, gói bánh quy
rơi xuống đất và bung ra trên bãi cỏ bồ công anh mọc cạnh đường ray. Tôi chỉ thấy
trong giây lát bởi con tàu đã lăn bánh trở lại, nhưng như thế là đủ. Đủ để nhắc
tôi về những bông hoa bồ công anh trên sân trường vài năm về trước…

Ngay khi quay đi khỏi
gương mặt thâm tím của Peeta Mellark, tôi thấy những bông hoa bồ công anh và biết
rằng hy vọng không hề tắt. Tôi cẩn thận hái hoa và bước vội về nhà. Tôi túm lấy
một cái sọt, dắt Prim đến Đồng cỏ và y như rằng, nơi đây đã được điểm tô bằng
những nhánh cỏ dại trổ hoa óng ả. Hái xong chỗ này, chúng tôi lại tiếp tục sục
sạo dọc theo bờ rào khoảng một dặm cho đến khi trong sọt đầy lá, thân và hoa bồ
công anh. Tối hôm đó, chúng tôi ăn ngấu nghiến món xa lát bồ công anh và phần
bánh mì còn lại.

“Còn gì nữa không chị?”
Prim hỏi tôi. “Mình còn kiếm được thứ gì ăn nữa không?”

“Chúng ta có thể kiếm
được mọi thứ,” tôi hứa với nó. “Chị vừa nhớ ra thứ này.”

Mẹ tôi có cuốn sách bà
luôn mang theo từ cửa hàng bào chế thuốc. Những trang sách làm bằng giấy da sờn
cũ chi chít hình vẽ những loài cây cỏ. Những dòng chữ ngay ngắn mô tả tên loài
cây, nơi hái chúng, khi nào thì nở hoa và tác dụng làm thuốc. Nhưng cha tôi còn
thêm vào cuốn sách những mục khác. Những loài để ăn, không phải để chữa bệnh. Bồ
công anh, thương lục, hành dại, thông. Prim và tôi dành cả tối để nghiền ngẫm
những trang sách ấy.

Ngày hôm sau chúng tôi
nghỉ học. Tôi dạo quanh ngoài rìa khu Đồng cỏ một lúc, cuối cùng lấy can đảm tiến
về phía hàng rào. Đó là lần đầu tiên tôi ra ngoài một mình mà không có cha mang
theo vũ khí bảo vệ. Tôi lấy ra cây cung nhỏ và những mũi tên cha tôi làm từ phần
trong một thân cây rỗng. Ngày hôm đó hình như tôi không vào sâu trong rừng quá
hai mươi mét. Phần lớn thời gian tôi nằm phục trên một nhánh cây sồi già, chờ
con mồi đến. Sau vài giờ, tôi may mắn giết được một con thỏ. Tôi từng săn được
vài con thỏ dưới sự hướng dẫn của cha. Nhưng đây là con đầu tiên tôi tự mình
săn được.

Chúng tôi không có thịt
để ăn đã nhiều tháng nay. Con thỏ như làm gợn lên điều gì đó trong mẹ tôi. Bà đứng
dậy, đi lột da thỏ và làm món thịt hầm với ít rau mà Prim hái được. Sau đó bà bỗng
trở nên bối rối và quay trở lại giường, nhưng khi xong món thịt hầm, chúng tôi
mang cho bà một tô.

Cánh rừng trở thành cứu
tinh của chúng tôi, càng ngày tôi càng lấn sâu vào đó. Tuy ban đầu còn dè dặt
nhưng tôi đã quyết tìm thức ăn nuôi cả nhà. Tôi nhặt trộm trứng ở tổ chim, bắt
cá bằng lưới, thỉnh thoảng tìm cách bắn một con sóc hay thỏ về nấu thịt hầm, hái
rau cỏ dại sinh sôi nảy nở dưới chân. Cây cỏ cũng phức tạp. Nhiều thứ có thể ăn
được, nhưng chỉ một lần lỡ miệng là bạn đi đời. Tôi xem xét và so sánh một lần
nữa những cây mình hái được với hình ảnh cha tôi đã về. Tôi đã cứu sống cả nhà.

Lúc mới bước vào nghề
săn bắn, ngay khi nhận thấy bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm nào như một tiếng hú từ
xa hay một tiếng cành cây gãy bất thường, tôi đều phóng nhanh về phía hàng rào.
Sau đó tôi bắt đầu mạo hiểm trèo lên cây để trốn thoát những con chó hoang.
Chúng nhanh chóng nhận ra không có gì và bỏ đi. Gấu và mèo rừng sống ở sâu hơn
trong rừng, có lẽ vì chúng không thích bụi than đen của quận chúng tôi.

Ngày 8 tháng Năm, tôi đến
Tòa Tư pháp, ký lấy tê-ra, mang về nhà phần ngũ cốc và dầu ăn đầu tiên đựng
trong chiếc xe đầy đồ chơi của Prim. Vào ngày mùng tám hàng tháng tôi đều được
lãnh như vậy. Tất nhiên tôi không thể dừng công việc săn bắn và hái lượm. Ngũ cốc
không đủ để nuôi sống chúng tôi, và cũng còn những thứ khác cần mua, như xà
phòng, sữa và chỉ may. Với những món không thiết yếu lắm, tôi bắt đầu mang đến
trao đổi ở chợ Hob. Tôi thấy sợ khi đến nơi ấy mà không có cha bên cạnh, nhưng
người ta cũng tôn trọng cha tôi nên để tôi buôn bán ở đó. Thịt gì thì thịt, ai
săn được cũng vậy thôi. Tôi cũng đến bán ở cửa sau nhà những khác hàng giàu có
hơn trong thị trấn, cố gắng nhớ những gì cha tôi đã dặn, ngoài ra cũng học được
một vài mánh khóe mới. Chủ hàng thịt sẽ mua thỏ chứ không mua sóc. Chủ tiệm
bánh thích sóc nhưng chỉ mua một con nếu vợ ông ta không có ở đó. Trưởng Đội Trị
an thích gà rừng. Ngài thị trưởng lại khoái ăn dâu.

Vào cuối mùa hè, khi
đang rửa ráy cạnh ao thì tôi chú ý tới một loài cây mọc xung quanh. Lá của nó
vươn cao như đầu mũi tên. Hoa nở với ba cánh màu trắng. Tôi quỳ gối xuống nước,
bới tay xuống lớp bùn mịn và lôi lên một vốc rễ củ. Những củ nhỏ màu xanh lợt
trông không giống khoai tây lắm nhưng đem luộc hoặc nướng thì ngon không kém.
“Cây Cát nhĩ[12],” tôi nói lớn. Loài cây mà tôi được đặt tên theo. Và tôi nghe
thấy tiếng cha nói đùa, “Chỉ cần con tìm thấy mình, con sẽ không bao giờ đói.”
Suốt hàng giờ liền, tôi dùng ngón chân và một que củi khuấy dưới đáy ao và nhặt
những củ nổi lên mặt nước. Đó là lần đầu tiên trong nhiều tháng chúng tôi được
một bữa căng bụng.

Mẹ từ từ trở lại với
chúng tôi. Bà bắt đầu lau dọn, nấu nướng và bảo quản một số thức ăn tôi mang về
cho mùa đông. Người ta cũng trao đổi thứ gì đó hoặc trả tiền cho chúng tôi khi
nhận thuốc của bà. Một ngày nọ, tôi nghe bà hát.

Prim run lên vì xúc động
khi thấy mẹ trở lại bình thường, nhưng tôi vẫn quan sát, chờ đợi đến khi bà bỏ
mặc chúng tôi lần nữa. Tôi không tin tưởng bà. Ở đâu đó trong tâm khảm tôi vẫn
ghét bà vì bệnh tật, vì sự buông lơi, vì những tháng ngày bà để chúng tôi phải
trải qua. Prim đã tha thứ cho mẹ, nhưng tôi vẫn do dự trước bà, dựng lên một
rào cản để bảo vệ mình khỏi sự thèm khát tình mẫu tử, và mọi thứ giữa chúng tôi
không thể trở lại như cũ được nữa.

Còn bây giờ thì tôi sẽ
chết mà chẳng thể chứng kiến mọi chuyện tốt đẹp hơn. Hôm nay tôi đã muốn gào
lên thật to với mẹ ở Tòa Tư pháp. Dù sao, tôi cũng đã nói mình yêu bà. Có lẽ mọi
thứ sẽ trở lại bình thường.

Tôi đứng nhìn qua cửa sổ
xe lửa một lúc, ước rằng mình có thể mở lại nó lần nữa, nhưng không chắc điều
gì sẽ xảy ra ở độ cao thế này. Tôi thấy ánh sáng của những quận khác ở đằng xa.
Quận 7 ư? Quận 10 ư? Tôi không biết. Tôi nghĩ về những người đang ở trong nhà họ
và chuẩn bị lên giường. Tôi nghĩ đến nhà mình, về mành chớp khép kín. Mẹ và
Prim bây giờ đang làm gì? Liệu hai người có ăn được bữa tối không? Với món cá hầm
và dâu chứ? Hay là chúng vẫn còn nguyên trên đĩa? Liệu họ có xem chương trình tổng
hợp những sự kiện trong ngày từ chiếc ti vi cũ kỹ mòn vẹt nằm trên cái bàn kê
sát tường? Hẳn là họ đã khóc nhiều hơn. Liệu mẹ tôi có đứng dậy nổi và vững
vàng bên Prim? Hay là bà đã lánh đi, để lại gánh nặng của cuộc đời đè lên đôi
vai yếu ớt của nó?

Chắc chắn Prim sẽ ngủ với
mẹ tối nay. Nghĩ đến việc con mèo Hũ Bơ già sẽ leo lên giường và canh chừng
Prim, lòng tôi dịu lại. Nếu nó khóc, con mèo sẽ rúc mũi vào cánh tay nó và quấn
quít ở đó cho đến khi nó nín và thiếp đi. Tôi mừng là mình đã không dìm chết
con mèo.

Hình dung về gia đình
làm lòng tôi tràn ngập nỗi cô đơn. Một ngày dài vô tận. Liệu có phải Gale và
tôi chỉ mới ăn những quả dâu vào sáng nay? Điều đó như xảy ra cách đây lâu lắm
rồi. Như một giấc mơ dài bị cơn ác mộng đè bẹp. Rất có thể sau khi chìm vào giấc
ngủ, khi tỉnh dậy tôi sẽ lại được trở về Quận 12, nơi tôi vốn thuộc về.

Trong ngăn kéo chắc có
nhiều đồ ngủ, nhưng tôi chỉ cởi áo và quần dài rồi leo lên giường với đồ lót. Mặt
giường làm bằng vải mềm và mịn. Mặt bông dày phủ lông tơ ngay lập tức giữ ấm
cho tôi.

Bây giờ thì tôi có quyền
khóc. Đến mai tôi vẫn có thể lau sạch dấu vết trên mặt. Nhưng không có giọt nước
mắt nào nữa. Tôi không còn hơi sức để khóc. Bây giờ tôi chỉ muốn được sống
trong một nơi khác. Tôi mặc cho xe lửa dập dình đưa mình vào quên lãng.

Khi tôi bị đánh thức bởi
tiếng động lạ, một thứ ánh sáng lờ mờ đang lách qua mành cửa. Tôi nghe thấy
Effie Trinket gọi. “Dậy, dậy, dậy. Hôm nay sẽ là một ngày quan trọng, cực kỳ
quan trọng!” Tôi gượng dậy và trong một thoáng tự hỏi liệu trong đầu người phụ
nữ này đang có những gì. Ban ngày bà nghĩ gì? Ban đêm bà mơ thấy gì? Tôi không
biết.

Tôi mặc lại bộ đồ màu
xanh vì nó cũng không bẩn lắm, chỉ là hơi nhàu do tôi để cả đêm dưới sàn. Tôi
chạm ngón tay vào vòng tròn bao quanh con húng nhại bé xíu bằng vàng; tôi nghĩ
về khu rừng, về cha tôi, về mẹ cùng Prim khi họ thức dậy, phải tiếp tục với cuộc
mưu sinh. Trong khi ngủ, tôi giữ nguyên mái tóc đã được mẹ tết cẩn thận trong
ngày chiêu quân, bây giờ nhìn nó cũng không tệ lắm nên tôi vẫn để như vậy. Mà
chuyện đó chẳng còn quan trọng. Giờ đây chúng tôi không còn cách Capitol bao xa
nữa. Một khi đến thành phố, người tạo mẫu sẽ quyết định trang phục cho tôi
trong lễ khai mạc tối nay. Chỉ hy vọng người đó không thích mẫu khỏa thân.

Khi tôi vào toa ăn,
Effie Trinket đi ngang qua tôi với tách cà phê đen trên tay. Bà lầm bầm những lời
thóa mạ trong họng. Haymitch, với khuôn mặt sưng húp và ửng đỏ sau cơn say ngày
hôm trước, trông khoái trá ra mặt. Peeta cầm một ổ bánh và trông có vẻ bối rối.

“Ngồi xuống! Ngồi xuống!”
Haymitch nói, vẫy tôi lại. Vừa ngồi xuống ghế, tôi được phục vụ ngay một đĩa thức
ăn to khủng. Trứng, giăm bông cùng một vốc khoai tây chiên. Liễn trái cây được ủ
đá để giữ hoa quả tươi. Rổ bánh mì trước mặt có thể nuôi sống gia đình tôi
trong một tuần. Cạnh đó là ly cam ép xinh xắn. Ít ra là trong suy nghĩ của tôi.
Tôi từng được nếm thử cam vỏn vẹn một lần, vào ngày Tân niên khi được cha mua tặng
một quả như một món quà đặc biệt. Một tách cà phê. Mẹ tôi vẫn ao ước cà phê lắm,
thứ mà nhà tôi khó có thể mua, nhưng tôi chỉ thấy nó đắng và nhạt. Một tách màu
nâu sẫm đựng thứ gì đó tôi chưa thấy bao giờ.

“Người ta gọi nó là sô
cô la nóng,” Peeta nói. “Ngon phết.”

Tôi hớp thử một ngụm thứ
nước ấm nóng, ngọt và đặc quánh rồi rùng mình. Dù còn nhiều món khác bày trước
mặt, tôi vẫn không màng cho tới khi hạ tách sô cô la xuống. Rồi tôi bắt đầu ăn
thả phanh, ngoạm từng miếng thật lớn, cố gắng để không bị nghẹn. Mẹ từng nói
tôi luôn ăn như thể sẽ không bao giờ được ăn lần nữa. Và tôi đáp, “Con không
mang về thì lấy đâu mà ăn.” Nghe đến thế mẹ tôi im re.

Khi dạ dày tưởng như sắp
nứt toác, tôi ngả ra sau, nhìn mọi người một lượt. Peeta vẫn còn ăn, cậu đang bẻ
bánh nhúng vào sô cô la nóng. Haymitch không để ý lắm đến đĩa thức ăn của mình,
nhưng ông nốc hết cốc nước ép màu đỏ pha loãng bằng một thứ chất lỏng trong suốt
từ một cái chai. Nghe mùi thì chắc là cồn. Tôi không quen Haymitch, nhưng vẫn
thường thấy ông ta ở chợ Hob, ném những nắm đồng xu vào khay tiền của bà bán rượu
đế. Rồi ông ta sẽ lại lè nhè khi chúng tôi đến Capitol thôi.

Tôi nhận ra mình thậm
ghét Haymitch. Chẳng trách Quận 12 chưa bao giờ có cơ hội. Đó không chỉ vì
chúng tôi không đủ ăn và thiếu luyện tập. Một số đấu thủ ở quận tôi vẫn thừa khỏe
mạnh để tham dự. Nhưng hiếm khi nào chúng tôi tìm được tài trợ và lão ta là một
nguyên nhân đáng kể. Những tay nhà giàu tài trợ cho thí sinh - vì họ đang đặt
cược vào thí sinh ấy hay đơn giản là muốn mình có cái quyền khoe khoang khi cược
người thắng cuộc - đều chờ đợi một ai đó nghiêm chỉnh hơn Haymitch để bàn bạc.

“Vậy ông sẽ cho chúng
cháu lời khuyên chứ,” tôi nói với Haymitch.

“Đây là lời khuyên. Hãy
giữ mạng sống,” Haymitch nói và phá lên cười. Tôi đưa mắt nhìn Peeta trước khi
nhớ ra là mình cũng không biết nói thêm gì. Tôi ngạc nhiên khi thấy nét khắc khổ
trong đôi mắt ông. Nhìn bề ngoài ông cũng có vẻ đôn hậu.

“Buồn cười thật đấy,”
Peeta nói. Đột nhiên cậu hất văng chiếc cốc trong tay Haymitch. Chiếc cốc vỡ
toang dưới nền nhà làm một dòng nước đỏ như máu chảy lan về đuôi toa tàu.
“Nhưng không buồn cười với bọn cháu chút nào.”

Haymitch im lặng một
thoáng, rồi đấm vào quai hàm Peeta khiến cậu ngã ngửa. Khi Haymitch quay lại định
rót ly rượu khác, tôi chặt con dao xuống bàn vào khoảng giữa tay ông với chai
rượu, suýt nữa hớt mất mấy ngón tay ông. Tôi co người để tránh ông đánh trả,
nhưng ông không có ý định đó. Thay vào đó, Haymitch ngồi xuống và liếc bọn tôi.

“Ái chà, chuyện gì thế
này?” Haymitch nói. “Cuối cùng thì năm nay tôi cũng có hai chiến binh thực sự rồi
sao?”

Peeta gượng dậy từ dưới
sàn và vốc lấy nắm đá trong liễn trái cây. Cậu ấy bắt đầu đắp đá lên phần máu bầm
dưới cằm.

“Đừng,” Haymitch ngăn cậu
lại. “Để nguyên vết bầm ở đấy. Khán giả sẽ nghĩ cậu vừa gây sự với một đấu thủ
khác trước cả khi cậu làm thế ở đấu trường.”

“Như vậy là trái luật,”
Peeta nói.

“Chỉ khi nào người ta bắt
quả tang cậu. Vết bầm sẽ chứng tỏ cậu đã đánh nhau, mà cậu lại không bị tóm,
như vậy tốt hơn,” Haymitch nói. Ông ta quay sang tôi. “Cháu có làm được gì với
con dao trên bàn không?”

Sở trường của tôi là bắn
tên. Nhưng tôi cũng dành ít thời gian tập phóng dao. Thỉnh thoảng khi bắn bị
thương một con thú, tôi thường phóng thêm mũi dao trước khi đến tóm cổ nó. Tôi
nhận ra nếu muốn gây chú ý với Haymitch thì bây giờ chính là lúc. Tôi rút dao
ra khỏi bàn, kẹp chặt lưỡi dao và phóng vào bức tường phía bên kia. Thực ra tôi
chỉ hy vọng nó sẽ cắm chặt vào tường, nhưng nó lại rút vào khe hở giữa hai ô tường,
khiến tôi có vẻ xuất sắc hơn khả năng vốn có.

“Đứng lại đây nào. Cả
hai đứa,” Haymitch nói, hướng đầu về phía giữa phòng. Chúng tôi nghe theo và
ông đi vòng quanh cả hai, thỉnh thoảng lại thúc vào người chúng tôi như xem xét
những con thú, kiểm tra cơ bắp, quan sát mặt mũi của bọn tôi. “Ừ, hai cháu
không hoàn toàn vô tích sự đâu. Trông săn chắc đấy. Sau khi làm việc với người
tạo mẫu, các cháu sẽ trở nên lôi cuốn.”

Peeta và tôi không thắc
mắc gì về chuyện đó. Đấu trường tuy không phải cuộc thi sắc đẹp, những những đấu
thủ ưa nhìn nhất có vẻ lôi cuốn được nhiều nhà tài trợ hơn.

“Thôi được, ta và các
cháu sẽ có một thỏa thuận. Đừng can thiệp vào rượu của ta, và ta sẽ cố giữ tỉnh
táo để giúp các cháu.” Haymitch nói. “Nhưng các cháu phải làm đúng những gì ta
đã dặn dò.”

Việc này không có gì to
tát, nhưng nó là bước tiến đáng kể so với việc mười phút trước đó chúng tôi
không có ai chỉ dẫn cả.

“Tốt thôi,” Peeta nói.

“Vậy theo ông,” tôi
nói, “khi bọn cháu vào đấu trường, chiến thuật nào là tốt nhất ở Cornucopia[13]
để một người…”

“Bây giờ chỉ cần nhớ điều
này. Ít phút nữa, chúng ta sẽ tiến vào nhà ga. Các cháu sẽ được giao cho những
người tạo mẫu của mình. Có thể các cháu sẽ không thích cách họ làm. Nhưng dù thế
nào đi nữa, đừng phản đối,” Haymitch nói.

“Nhưng mà…” tôi dùng dằng.

“Không nhưng gì hết. Đừng
phản đối,” Haymitch nói. Ông cầm lấy chai rượu trên bàn và ra khỏi toa tàu. Khi
cánh cửa khép lại sau lưng ông, toa tối dần. Bên trong vẫn còn một chút ánh
sáng nhưng ở bên ngoài có vẻ như màn đêm đã lại buông xuống. Tôi nhận ra chúng
tôi đang ở trong đường hầm đi xuyên qua núi tiến vào Capitol. Dãy núi tạo thành
một rào chắn tự nhiên giữa Capitol và những quận ở phía Đông mà không phải băng
qua hầm. Lợi thế địa hình này là một nguyên nhân chính khiến cuộc nổi dậy thất
bại, dẫn đến việc hôm nay tôi trở thành một đấu thủ. Vì buộc phải vượt qua ngọn
núi này nên phiến quân đã biến thành miếng mồi ngon cho không lực Capitol.

Peeta Mellark và tôi đứng
trong im lặng trong lúc tàu chạy. Đường hầm kéo dài ngun ngút làm tôi nghĩ đến
hàng tấn đá đang chia cách tôi với bầu trời, rồi lồng ngực tôi thóp lại. Tôi
ghét bị ép mình trong đá theo cách này. Nó khiến tôi lại nhớ đến hầm mỏ và cha
tôi, bị kẹt, bất lực tìm kiếm ánh mặt trời rồi bị vùi trong bóng tối mãi mãi.

Cuối cùng con tàu cũng
đi chậm lại và ánh sáng đột ngột tràn ngập căn phòng. Chúng tôi không thể đừng
được. Cả Peeta và tôi chạy đến cửa sổ để xem những gì chỉ được thấy trên ti vi;
đó là Capitol, thành phố cai quản Panem. Những thước phim không hề bịa đặt về sự
hào nhoáng của nó. Nếu có, chỉ là chúng đã không quay hết sự lộng lẫy của những
tòa nhà lấp lánh dưới ánh cầu vồng rực rỡ, sừng sững trong không trung, những
chiếc xe hơi bóng loáng lăn bánh trên đường phố rộng thênh thang, những đám người
chưng diện phá cách với mái tóc quái dị và khuôn mặt hồng hào chưa bao giờ biết
đến cái đói. Những màu sắc đó đều có vẻ giả tạo, màu hồng quá sẫm, màu xanh lá
quá sáng, màu vàng quá chói mắt, giống như những chiếc đĩa tròn dẹt đựng kẹo đường
sặc sỡ mà tôi chưa bao giờ mua nổi nằm trong một tiệm đồ ngọt nhỏ xíu ở Quận
12.

Người ta bắt đầu chỉ trỏ
chúng tôi đầy phấn khích khi nhận ra con tàu chở những đấu thủ đang lăn bánh
vào thành phố. Tôi lùi ra khỏi cửa sổ, cảm thấy buồn nôn bởi sự hào hứng của họ,
bởi sự hào hứng được xem chúng tôi bước vào chỗ chết. Nhưng Peeta vẫn đứng yên
đó, đúng hơn là đang vẫy tay và tươi cười trước đám đông mắt chữ O mồm chữ A. Cậu
chỉ ngừng lại khi con tàu tiến vào ga, tách chúng tôi khỏi tầm nhìn của họ.

Thấy tôi nhìn săm soi,
Peeta nhún vai: “Ai biết được?” cậu nói. “Trong số đó biết đâu có ai giàu có
thì sao.”

Tôi đã đánh giá sai
Peeta. Tôi nhớ lại những cử chỉ của cậu kể từ ngày chiêu quân. Cái siết tay
thân thiện với tôi. Cha cậu xuất hiện với những chiếc bánh quy và hứa sẽ chăm
nuôi Prim… liệu có phải Peeta đã bảo ông ấy làm vậy? Những giọt nước mắt của cậu
ở ga. Tình nguyện lau người cho Haymitch nhưng sáng nay lại thách thức ông khi
chiến thuật lấy lòng có vẻ không thành. Và bây giờ thì lại vẫy tay trước cửa sổ,
tìm cách ghi điểm với đám đông.

Tất cả những mảnh ghép
vẫn ăn khớp với nhau, bỗng nhiên tôi có cảm giác Peeta đã có sẵn một kế hoạch.
Cậu không chấp nhận cái chết. Cậu đã bắt đầu chiến đấu để sống sót. Điều đó
cũng có nghĩa là Peeta Mellark, chàng trai đã cứu sống tôi bằng ổ bánh mì ngày
nào, giờ đang cố gắng chiến đấu để tôi phải chết.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3