Khúc Nam Ai - Chương 02-P2
Nhưng những bài giảng, những câu toán, từng giờ, từng phút
đi qua. Cái nóng bức đưa đẩy tôi vào nỗi chán nản. Hai chân tôi muốn được nhẩy
sáo. Cầm cây viết tôi không muốn ngồi mà chỉ muốn nằm dài, bò trên thảm cỏ, vừa
viết vừa nghịch với những bông cỏ thơm nồng. Đọc một bài tập đọc, tôi lại thích
vừa đọc vừa hát những bài vọng cổ, bài Lý con sáo, hoặc hát Ngựa Ô Nam chen lẫn.
Nhưng không, ở đây tôi phải ngồi đến mỏi cả lưng, nghiêm chỉnh ngó thẳng trước
mặt. Ôi thật là một cực hình.
Khi tiếng trống dứt vang lên, tôi ra lớp giữa tiếng hét vỡ lở
của đám học trò. Chúng nhảy qua cửa sổ, chúng leo lên bàn, chúng đuổi nhau,
chúng ồn ào. Đối với tôi mọi việc không có gì đáng chú ý bằng bầu trời thênh
thang ngoài kia, bằng những cử động tự nhiên, không gò bó. Tôi quay lưng đi ngược
để nhìn trường, để thấy mình đã được tự do.
Bụng đói cồn cào, nhưng tôi vẫn cố đi thật chậm để được một
mình, để thấy mình vẫn tự do chơi nhảy. Một mình mình đi, không ai ngăn, không
cấm, tôi lẩm nhẩm một câu vọng cổ quen thuộc. Cố tưởng tượng đến một vai ở
trong một vở hát.
- Thằng Thi, thằng Lang trọc đâu mà trò đi có một mình vậy ?
Tôi quay lại, cô bạn cùng lớp hồi sáng, Vân. Đang khi vui vẻ
tôi cười nói thản nhiên :
- Mấy tụi nó đi đâu hết trọi rồi. Trò về cùng đường với tui
hả ?
Tôi bắt chước xưng hô như Vân gọi tôi.
- Trò viết chữ đẹp ghê. Đẹp nhứt lớp đó.
- Tui mà viết đẹp ?
- Đẹp, tui nói đẹp chớ bộ. À, mà có phải trò ở nhà bà Thân
phải không ? Tui ở gần nhà bà đó. Tui với trò mượn vở được hỉ ?... Mấy đứa kia
nhà ở xa tụi nó không cho mượn vở đâu. Tui đau hoài nên cứ phải mượn vở chép
bài hoài. Khi mô tụi nó không cho là tui bị thầy cho dia rô đó.
- Khi nào muốn mượn vở trò cứ qua tui, mượn khi nào cũng được
hết á.
Tôi ưỡn người một cách anh hùng để nói những câu đó mà quên
mất những ý tưởng trốn học ban đầu. Vui miệng, tôi kể cho Vân nghe những mẩu
chuyện vui mà tôi góp nhặt được. Có lẽ những câu chuyện đó đối với Vân lạ lắm
nên mắt của cô bé cứ mở rộng tròn xoe, đôi môi hồng nhỏ luôn luôn thốt ra câu :
vui hỉ, chi lạ rứa, hoặc những tiếng cười khúc khích. Giọng nói là lạ, nhỏ nhẹ
và thái độ của Vân làm tôi thấy thích thú. Dòng máu mồm mép, diễn viên của tôi
nổi dậy, tôi kể cho Vân nghe những chuyến đi, những lần di chuyển, những bờ
kinh rạch chằng chịt, những con cá tra giãy đành đạch trên bờ, nổi lóp ngóp
trên mặt nước với đôi mắt đỏ au vào mùa nước mẳn nghĩa là nước ngọt lẫn với nước
mặn. Cứ thế đến nhà Vân hồi nào không biết. Ngôi nhà bị che khuất bởi vòng rào
dâm bụt và những hàng cây rậm của vườn trước. Vân rủ tôi vào nhà cho biết,
nhưng vì sợ má nuôi tôi chờ cơm nên tôi hứa sẽ thăm nhà Vân vào ngày khác. Đoạn
đường ngắn còn lại dẫn về nhà nghe vui và thênh thang. Từ đó, tôi có Vân là người
bạn thân thiết đúng nghĩa đầu tiên. Nhờ có bạn, có bè, tôi thấy đỡ chán nản
hơn. Tuy vậy, những giờ học, bó chân bó cẳng trong lớp cũng gây cho tôi khó chịu
cực độ, nhất là những hôm trời đẹp, qua cửa sổ, khung trời xanh mát gợi cho tôi
những con đường, những ruộng lúa, những ngày tháng nhẹ nhàng, thoải mái, và tôi
ao ước vô biên ngày được thoát khỏi chiếc lồng nhỏ hẹp của lớp học...
Nhưng rồi thời gian qua. Tôi dần dần lớn lên trong lớp học,
trong gia đình, bên bạn bè. Tôi quen với những danh từ đặc biệt địa phương, tôi
quen với cuộc sống mới, tôi cởi xác trở nên một đứa học trò ngoan nhất lớp. Bạn
bè đối với tôi là một thân thiết, một cần thiết. Con đường làng dẫn ra khỏi những
hàng cây rậm, chạy dài hút mắt đã ít gợi cho tôi ý tưởng ra đi. Cánh đồng xanh,
những chuyến xe qua lại cùng ít gợi nơi tôi sự thèm muốn chân trời xa lạ đến độ
muốn giục giã hai chân, muốn vươn hai tay ôm lấy bầu không gian trước mặt. Bây
giờ, có còn chăng là những tiếng đờn tiếng ca mà thỉnh thoảng tôi được nghe qua
cái máy phóng thanh công cộng. Những câu vọng cổ tự tiềm thức xa xôi trở về từng
chập. Có nhiều khi đang ngồi học bài, tôi buột miệng ca sáu câu vọng cổ. Hoặc
đang làm một bài tính, tôi lẩm nhẩm khúc Nam ai. Ba má nuôi tôi ghét điều đó lắm.
Bằng giọng nghiêm khắc, bà vẫn thường mắng tôi :
- Con học thì lo học, chơi thì lo chơi. Cái nghề ca hát tuy
không xấu, nhưng với tuổi của con, con phải học đã. Nhất là má không ưa mấy thứ
vọng cổ mùi riệu, anh anh em em, còn nhỏ cứ mơ mơ tưởng tưởng tới mấy thứ đó,
không học hành chi được.
Ba nuôi tôi chỉ tằng hắng một tiếng và nói ngắn :
- Lo học đi, lớn rồi, học hành xong xuôi rồi muốn chi cũng
được.
Ba má tôi không ưa, nhưng bạn bè chúng phục tôi sát đất. Hôm
bãi trường, tụi nó đề cử tôi ca vọng cổ. Thầy giáo khen hay ghê lắm. Tụi nhỏ cứ
thộn mặt ngồi nghe. Những giờ ra chơi, chúng hay bắt tôi ca hết bản này đến bản
khác. Nhất là Vân, trên đường đi học về, mười bữa đủ chục, nó thường bắt tôi
hát. Mà con nhỏ kỳ cục, thích mỗi một điệu Lý con sáo. Và bắt tôi dạy nó ca. Nhớ
lại bác Bảy Viễn trước đó dạy tôi ca bác đờn rồi gõ nhịp để tôi bắt nhịp cho
đúng, tôi tiếc sao mình không có đàn để bắt nhịp cho con Vân ca. Giá như tôi học
đờn sớm thì bây giờ cũng biết đờn rồi. Cuối năm lớp bốn phần thưởng dành cho
tôi là phần thưởng văn nghệ. Qua năm lớp năm, tôi cũng lãnh luôn phần thưởng
văn nghệ. Ngày lãnh thưởng ba tôi cười bảo má tôi rằng thằng này học chữ chẳng
hay ho bằng học ca cải lương. Má tôi cười bảo con cái không giống lông cũng giống
cánh.
Đầu niên học, cuối niên học qua mau chóng. Tôi đã lên cấp
hai. Vân cũng lên lớp như tôi vậy. Bạn trai có nhiều đứa không lên đồng đều, đứa
thì phải ở lại lớp vì không đủ điểm, đứa ở nhà làm ruộng buôn bán. Mấy đứa lớn
theo cha mẹ làm nghề đi xa, lên tỉnh. Rốt lại, cũng chả còn bao nhiêu, bạn mới
đâu thân bằng bạn cũ. Có điều đặc biệt là từ khi tôi lên cấp hai, tôi học giỏi
ra. Có lẽ là nhờ ở việc học chung với Vân. Bài nào tôi với Vân cũng học chung,
và vì tự ái, vì sự tin tưởng của Vân ở tôi, lúc thì nhờ giải bài toán, lúc thì
nhờ giảng lại bài, tôi không chăm học cũng không xong bởi vì thật là xấu hổ khi
một người bạn hỏi nhờ giảng mà mình không biết gì. Vân cũng là con một, tôi
cũng là con độc nhất của ba má nuôi tôi, vì vậy cả hai đứa đều được hai gia
đình thương yêu như nhau. Ba má Vân thường nói với tôi mỗi khi tôi qua nhà Vân
học :
- Con biết cái chi thì chỉ bảo cho em với. Con Vân lớn đầu
mà còn khờ lắm nợ. Nghe con Vân nói cháu học giỏi lắm phải không ? Ờ, con trai
phải học như rứa. Hồi xưa, thời mấy bác bằng con Vân là phải ra đồng làm ruộng
chớ học với hành chi nữa, con gái không được học nhiều. Bây chừ khác xưa, dù
gái hay trai cũng có học mới nên.
Khi nghe nói như vậy, Vân thè lưỡi rụt đầu, còn tôi thì thẹn
đến chín người. Kể ra cũng không thẹn gì nếu ba Vân không nhìn tôi và Vân mà cười.
Cũng bởi vì vậy mà tôi trở thành một kẻ chỉ dẫn bất đắc dĩ.
Vân tin tôi ghê lắm, bất cứ bài nào không hiểu hoặc làm không ra, Vân cứ nhè
tôi mà nhờ giảng. Nhiều bài tôi bí mướt cả mồ hôi, điên cả cái đầu. Để khỏi phải
thẹn, tôi kiếm cớ nạt nộ Vân và giả vờ dỗi bỏ dở đứng lên đi về. Để tránh yếu
điểm của mình, để tự ái khỏi bị va chạm, tôi phải chịu đựng nỗi buồn dằng dặc từ
khi bước ra khỏi cổng nhà Vân. Một nỗi buồn không tên len lén trong tâm hồn.
Tôi thả chân theo con đường mòn đi tắt ra ruộng, vượt những khoảng dài. Tôi ra
mộ cha mẹ và bác Tư, bác Bảy. Lần nào cũng vậy, có chuyện gì buồn, hoặc cảm thấy
bơ vơ, tôi lại lần mò ra mấy nấm mộ quen thân, ngồi ở đó đến chiều tôi mới trở
về. Những ngôi mộ ngày nay đã phủ đầy một lớp cỏ mịn non. Những đám cỏ già
vương cao đều bị tôi cắt trụi nhổ tận gốc, bật cả rễ dính theo chút đất nâu hồng.
Bốn ngôi mộ vòng quanh nhau xúm xít như một vòng ngắn của cầu vồng. Cái đỉnh
tròn thuôn thuôn che giấu sự sống của những người thân yêu, cắt đứt mọi liên hệ
trần tục. Những buổi chiều mùa thu, từng đợt nắng vàng lọt qua kẽ những đám mây
nhuộm vàng đỉnh mộ. Gió la đà trên những cánh lúa uốn éo rì rầm mang hương thơm
của mùi đất, mùi lúa, mùi cỏ. Tôi khoanh tay ngồi giữa kẻ hở hai phần mộ ba và
mẹ, gục đầu lắng nghe tiếng côn trùng kêu khẽ mà ngỡ như lời thì thầm của ba mẹ
dưới đáy mồ sâu. Đến khi mặt trời đã khuất hẳn, và dãy núi xanh lam đầu phương
tây đổi màu tím thẩm đổ bóng lên trên vùng đồng ruộng giờ đã thay màu chập choạng,
gió rờn rợn trên cánh tay trần, lằn sống lưng gai gai, tôi mới uể oải đứng dậy
ra về, theo gót đàn trâu thả rong trên bờ cỏ.
Gia đình của ba má nuôi tôi không phải là một gia đình phú
nông. Giống như những gia đình khác trong cái quận lỵ nhỏ bé nghèo nàn này,
chúng tôi chỉ được đầy đủ no ấm khi được mùa. Và trái lại, những năm lụt lội,
hoặc nắng hạn, đó là những giờ phút đen tối cho mọi người. Cũng không phải năm
nào trời cũng mưa thuận gió hòa. Và cái năm cuối cùng hết cấp hai, tai họa trời
đổ xuống bằng những trận mưa to liên tục với những cơn bão tốc nhà. Hết mưa rồi
gió, hết gió rồi mưa. Tiếng liếp cửa đập vào thình thình lúc nào cũng nẩy như
muốn bứt khỏi chiếc đòn dài to bằng bắp chân tôi. Trời mù mịt, mây tím thẩm đen
đặc. Những màn mưa dầy đặc đan không dứt trong bầu không gian ảm đạm. Mưa như đổ
ập từ trên trời xuống. Mưa như từ dưới đất dâng lên. Nước ở sông liên tiếp được
báo hiệu lên cao mãi. Nước chảy không xiết đã bò vào nhà, đã cuốn trôi những vật
dụng nhẹ, nhỏ, bỏ sót trên mặt đất. Hết cơn bão dữ, trời vẫn mù mịt và mưa liên
miên từ ngày này sang ngày khác. Mặc dù đã quen với mùa mưa của miền Trung,
nhưng tôi quả thật chưa bao giờ được biết một cơn mưa lại dai dẳng và lớn đến
thế. Chúng tôi khỏi phải đi học. Công việc độc nhất của mọi người là ngồi trên
giường, bó gối nhìn trời, chờ bữa. Ba tôi nhìn mưa với đôi mắt thất vọng, lo
âu, ông thỉnh thoảng chép miệng :
- Trời hại rồi, trời hại rồi. Lúa mới trổ đòng đòng mà mưa lụt
thế ni thì còn chi nữa nè trời. Đám khoai lang bán Tết nữa chớ. Ruộng bí đao...
Trời hại rồi... Trời không có mắt hả trời ?...
Lúc đó, tôi chưa biết đến cái hậu quả của những cơn mưa bão
miền Trung như thế nào. Vì vậy, mưa đối với tôi thú vị lắm. Nằm trên giường ấm,
trong căn nhà vững vàng, bữa cơm nóng sốt, tôi không để ý nghĩ vẩn vơ đi đâu, mắt
chỉ biết chú ý đọc truyện để lo cho bài thuyết trình Việt văn sẽ phải làm trong
tháng tới. Thỉnh thoảng, xuống lội nước giúp mẹ tôi cho mấy con lợn ăn, hoặc đếm
xem bầy gà trong chuồng có đủ số, có con nào cù rũ vì mắc nước.
Hơn một tuần lễ dằng dặc mưa, trời mới tạnh dần. Mặt trời đầu
tiên rẽ đám mây còn vần vũ trên cao tỏa ánh sáng yếu ớt xuống mặt đất. Nước rút
lần đẩy đưa những đám rác rến, rơm cọ vướng mắc vào góc nhà, hàng rào, chân cột.
Trời đất như vừa đổi mới. Đám khoai mì trước nhà ngã rạp. Bầy gà chạy tán loạn
đào xới ý như quá đói sau những ngày mưa bão. Hàng dâm bụt ngã nhào hất cả những
thân cây tre làm hàng rào bật gốc. Những cánh lá rơi rụng đầy sân nhớp nháp. Ba
tôi hối hả xách cuốc, xách liềm, gánh rổ, kêu tôi và má tôi ra đồng. Tôi định
qua nhà Vân để hỏi xem khi nào thì đến trường và những ngày lụt bão, Vân có
chuyện gì không. Thế nhưng dáng điệu nóng nảy của ba má nuôi tôi chắc là chuyện
quan trọng lắm lắm. Tôi thay chiếc quần cộc và đi chân đất theo ba má nuôi ra
ruộng.
Cảnh tượng đầu tiên đã khiến tôi cởi bỏ tức thì những điều lạc
quan trong những ngày trùm chăn kín trong nhà. Cánh đồng lúa ngập nước mênh
mông như một dòng sông. Vài ngọn lúa trổi đầu được trên mặt nhưng bông lúa thì
xác xơ tím ngắt. Bên vườn thì lại bi đát hơn. Những dàn cây bí, đậu đũa, mướp đắng
ngã rạp chìm trong màn nước lờ đờ. Nơi ruộng khoai lang chỉ còn thấy cái dáng đen
đậm dưới sâu. Chỉ còn một cây mì độc nhất vươn cao hây hẩy xanh mướt lá như một
phép lạ cuối cùng.
Nhìn ruộng, má tôi chợt ôm mặt khóc nức nở. Ba tôi ngồi bệt
trên bờ cỏ ướt ôm mặt rầu rĩ. Tôi đứng chơ vơ và đột nhiên cảm thấy tất cả những
bi đát của viễn ảnh những ngày sắp tới.
Không phải một mình ba tôi mà những người hàng xóm, những
gia đình nông dân khác cũng vậy. Rải rác trên con đường dài, giữa đồng ruộng trống
không, những nông dân đang đứng thẩn thờ nghĩ đến ngày mai.
- Anh Hiệp.
Tôi quay lại :
- Ủa, Vân, ruộng vườn hư hết trọi rồi.
Vân khóc nức lên.
- Nhà Vân cũng rứa. Ba má Vân khóc hết nước mắt đằng kia
kìa.
Tôi im lặng. Không ai nói với ai lời nào. Mặt trời trên cao
lồ lộ. Nắng bốc hơi nước từ mặt đất ẩm thấp phà lên chân khó chịu. Vân lẳng lặng
bỏ đi về phía ruộng mình. Tôi không giữ lại, vì má tôi càng lúc càng khóc dữ.
Nhưng chỉ được một lúc, ba tôi như chợt tỉnh, ông ngồi dậy bắt đầu làm việc để
cứu vãn lại mùa màng. Chúng tôi chú ý đến vườn nhiều nhất. Lúa thì đành chịu chỉ
chờ tát nước và bông nào chịu được thì sống. Nước lên đến háng. Chúng tôi cởi
trần. Những vồng khoai lang gập ghềnh bên dưới. Lá có chỗ đã mục úa rữa, có chỗ
vẫn còn xanh. Với nhát cuốc ba tôi bớt mò từng vồng khoai lang. Tôi nhấc lên nhẹ
nhàng quẳng lên bờ để má tôi bứt lấy củ. Tôi mò từng mô đất để tìm những củ
khoai còn sót lại. Đến trưa, chúng tôi mới đào xong khoai. Ba tôi chỉ dừng lại
độ mười phút để ăn một nắm cơm với vừng, uống một tí nước rồi lại tiếp tục đến
vồng khoai mì, xem xét lại những dàn đậu đũa, dàn mướp đắng, bí đao. Lạ thật, vẫn
còn những trái tươi tốt khả dĩ dùng được.
Tối hôm đó, chân tay tôi mỏi nhừ. Người rời rã, đau nhức nhối
khó chịu. Ba tôi cũng vậy, ông ngồi hút thuốc rê, lặng thinh nhìn má tôi lọc những
củ khoai tốt. Phân nửa số khoai đem về bị hà ăn. Bà để một bên dành cho heo. Những
củ tươi được để cạnh đống lửa đốt sẵn hong khô để dành, những củ hư hao một phần
hay một nửa thì được gọt sạch chỗ hà ăn, xong xắt nhỏ phơi khô để ghế với cơm.
Đậu, khoai mì cũng vậy, chỉ trừ những trái ôi quá. Bí đao thì ba tôi định để dồn
đưa lên chợ bán lấy ít tiền mua thêm gạo dự trữ. Ông nói :
- Trời hại quá. Không đủ gạo ăn cho mà coi. Chết, đói kém tới
nơi rồi.