Đức Phật và Nàng - Hoa sen xanh (Tập 2) - Chương 52
Phần 4 Trở lại
Trung Nguyên
CHƯƠNG 52 Trở lại
Trung Đô
“Dù khó khăn nhường
nào,
Người cao thượng cũng
không chấp nhận của cải phi nghĩa;
Dù đói khát đến đâu,
Vua sư tử cũng không
thèm ăn miếng mồi ôi thiu.”
( Cách ngôn Sakya )
Năm 1269, tức năm Kỷ Tỵ, Âm Thổ theo lịch Tạng, tức niên hiệu
Hàm Thuần thứ năm, nhà Nam Tống, tức niên hiệu Chí Nguyên thứ sáu, Mông Cổ.
Bát Tư Ba ba mươi lăm tuổi, Chân Kim hai mươi sáu tuổi.
Xuân qua thu tới, thời gian chảy trôi như dòng nước. Từ
Sakya đến Đại Đô, chúng tôi đã đi suốt một năm, bốn tháng, đủ thấy mức độ gian
khổ của hành trình này. Tháng 1 năm 1269, Bát Tư Ba trở lại Trung Đô. Có điều,
lần này, bên cạnh chàng không còn bóng dáng cao gầy thân thuộc với nụ cười tươi
tắn, rạng rỡ luôn thường trực trên môi ấy nữa. Khi ra đi, Bát Tư Ba vừa tròn ba
mươi tuổi, ấp ủ biết bao hoài bão. Ngày trở lại, chàng đã ba mươi lăm tuổi, nếm
trải bao cay đắng, khổ nạn của cuộc đời.
Buổi lễ nghênh đón Bát Tư Ba được tổ chức trọng thểđến mức
ai nấy đều trầm trồ, xuýt xoa. Hốt Tất Liệt cho lập một đàn hương rất lớn ở nơi
cách kinh thành một dặm đểđón Bát Tư Ba. Trên đàn hương bày một bàn thờ rất rộng,
hàng trăm vương công quý tộc và quan lại triều đình xếp thành hai hàng ở hai
bên, đội nghi thức trang nghiêm, tề chỉnh, kéo dài từ hương đàn đến tận cửa
hoàng cung. Vì là Đại hãn nên Hốt Tất Liệt không đích thân ra đón, nhưng ngài
đã cử Hoàng tử Chân Kim cùng Hoàng hậu, phi tần và các đại thần trong triều đi
nghênh đón quốc sư. Vinh dự lớn lao này, Hốt Tất Liệt chỉ dành cho Bát Tư Ba.
Khi đoàn chúng tôi vừa đến đàn hương, Chân Kim đã đích thân
tới trước xe ngựa của Bát Tư Ba, đỡ quốc sư xuống xe. Nhiều năm không gặp, Chân
Kim đã trưởng thành lên rất nhiều, cậu ta để râu, thân hình cao lớn, vạm vỡ,
phong thái đường hoàng, bệ vệ. Cậu ấy ứng xử nho nhã, lịch duyệt, chứ không giống
đám quý tộc Mông Cổ cục mịch, thô lỗ, chỉ biết bắn cung, cưỡi ngựa kia. Tôi thầm
khen, quả là một đấng anh tài, hào kiệt, chả trách Khabi lại tự hào về cậu ta đến
vậy.
Thị vệ dắt đến một con voi Thiên Trúc khổng lồ, trên lưng buộc
một bảo tọa[18] được trang trí bằng các hàng châu ngọc đan chéo nhau. Sau khi
Bát Tư Ba ngự trên bảo tọa, tiếng trống, tiếng nhạc rầm rộ vang lên. Đội nghi
thức với cột khắc kinh văn, cờ hoa, ô lọng rợp trời, những dòng cờ phướn tung
bay dưới bầu trời xanh. Trên tất cả các con phố, người ta cắm cờ ngũ sắc rực rỡ,
dân chúng đứng chen chân hai bên đường, xúc động chiêm bái. Cảnh tượng trang
nghiêm, long trọng như thể ngày Phật Đản.
[18]. Có nghĩa là ghế
báu. (DG)
Lúc này, Hốt Tất Liệt đang ngóng chờ trên đại điện. Vừa thấy
Bát Tư Ba xuất hiện, ngài đã vội vã bước tới nghênh đón.
- Cuối cùng cũng về tới nơi! Năm năm trời, trẫm ngày đêm
thương nhớ quốc sư!
Năm đó, Hốt Tất Liệt đã năm mươi tư tuổi nhưng vẫn tráng kiện
như ngày nào, gương mặt hồng hào, rạng rỡ. Trong khi, Bát Tư Ba tiều tụy, ốm yếu
hơn trước. Bát Tư Ba quỳ xuống vái lạy, nghẹn ngào:
- Đại hãn…
Hốt Tất Liệt vội đỡ Bát Tư Ba đứng lên, khẽ vỗ vào vai
chàng, động viên:
- Tay Chongni của phái Phaktru ấy chỉ giỏi mồm mép, trẫm đã
đuổi hắn về rồi. Trẫm vẫn tu tập theo pháp môn của phái Sakya. Quốc sư hãy nghỉ
ngơi một thời gian, sau đó mời quốc sư làm lễ quán đỉnh cho trẫm.
- Thưa Đại hãn, bần tăng trở về Trung Đô lần này không phải
để tranh giành sự sủng ái của Đại hãn, mà có việc đáng vui mừng muốn bẩm báo với
người.
Bát Tư Ba rút trong tay áo ra một bản tấu chương, trịnh trọng
dâng lên:
- Thưa Đại hãn, sau tám năm nghiên cứu, Bát Tư Ba đã hoàn tất
trọng trách sáng tạo ra loại chữ Mông Cổ mới, xin dâng lên Đại hãn. Đây là bản
“Ưu lễ tăng nhân chiếu thư”[19] do Đại hãn soạn thảo, đã được chép lại bằng loại
chữ Mông Cổ mới.
[19]. Ưu lễ tăng nhân
chiếu thư (Chiếu thư về việc kính lễ các nhà sư) là bản chiếu thư Hốt Tất Liệt
ban cho riêng Bát Tư Ba. Trong chiếu thư này, Nhà vua hết lời ca ngợi Bát Tư Ba
cùng với tôn giáo mà ngài đang tu tập. Đồng thời yêu cầu mọi người trong thiên
hạ phải kính lễ các nhà sư, tăng sĩ, không ai được phép tỏ ra khinh thường họ.
(DG)
Hốt Tất Liệt mừng vui khôn xiết, đón lấy bản tấu chương,
càng đọc càng hài lòng, phấn khởi:
- Tốt lắm, hay lắm! Loại chữ viết mới này sẽ bù đắp thiếu
sót của triều đại chúng ta, giúp chấn hưng nước nhà! Trẫm sẽ lập tức ban chiếu
thư, ra lệnh phổ biến loại chữ này trên toàn quốc!
Tháng Hai năm đó, Hốt Tất Liệt ban lệnh phổ cập chữ viết mới.
Kể từ ngày chiếu thưđược ban bố, toàn bộ công văn, giấy tờ trao đổi qua lại đều
phải được viết bằng loại chữ mới. Khi ấy, người ta gọi văn tự này là “chữ Mông
Cổ mới”. Sở dĩ “mới” là để phân biệt với chữ Mông Cổ kiểu Uyghur trước đây.
Không lâu sau, loại chữ này được đổi tên thành “chữ Mông Cổ” hoặc “quốc thư
Mông Cổ”. Khi loại văn tự này suy vong, người đời sau gọi nó là chữ Bát Tư Ba để
kỷ niệm người đã sáng tạo ra nó.
Cậu hai Rinchen và đại đệ tử Drakpa Odzer đã dọn dẹp, bài
trí xong xuôi phủ Quốc sưđể nghênh đón Bát Tư Ba. Tối hôm đó, Bát Tư Ba thay bộ
áo cà sa mới, nói với tôi:
- Lam Kha, tối nay Đại hãn thết tiệc tẩy trần cho ta, em cứở
lại phủ Quốc sư nghỉ ngơi, chờ ta về.
Rồi chàng ngừng lại một lát, ánh mắt thoáng chút do dự:
- Tối nay Hoàng hậu cũng đến dự tiệc, không có thời gian để
gặp em đâu. Ngày mai ta sẽđưa em đến tìm cô ấy.
Tôi cuộn tròn trên giường, gật đầu.
Sáng sớm hôm sau, Bát Tư Ba giữđúng lời hẹn, đưa tôi vào
cung gặp Khabi. Hậu cung của Hốt Tất Liệt vẫn giữ nếp sống của người Mông Cổ,
không thiết lập chếđộ ra vào cung quá nghiêm khắc như sau này. Vả lại, Bát Tư
Ba là thượng sư của rất nhiều hậu phi, hoàng tử, công chúa triều Nguyên nên
chàng được tự do ra vào hoàng cung.
Mái tóc Khabi đã điểm nhiều sợi bạc nhưng gương mặt vẫn ngời
ngời vẻ trang trọng, đài các, mọi cử chỉ, hành động đều toát lên phong thái của
bậc mẫu nghi thiên hạ. Cô ấy lệnh cho đám người hầu lui ra ngoài rồi cúi xuống
nhìn tôi, lắc đầu, thở dài:
- Trời đất ơi, sao lại ra nông nỗi này? Ba trăm năm tu luyện
đã thành công cốc! Trong tộc hồ ly màu lam chúng ta, làm gì có ai bi đát như cô
chứ!
31 1
Tôi ngoảnh mặt đi, không thèm để ý đến cô ấy. Tôi đã tàn tạ,
thê thảm thế này rồi mà cô ấy vẫn không quên chọc tức tôi.
- Thưa Hoàng hậu, Lam Kha đã trải qua rất nhiều cay đắng, đã
nếm đủ những đau đớn, khổ sở mà người thường khó lòng chịu đựng nổi. Cô ấy rơi
vào tình cảnh thảm thương thế này, tất cảđều vì bần tăng.
Bát Tư Ba nhẹ nhàng vuốt ve tôi rồi chắp tay, trịnh trọng
vái Khabi một vái:
- Bần tăng đưa cô ấy đến gặp người là muốn hỏi, liệu cô ấy
có thể khôi phục được linh khí không?
Khabi túm cổ tôi, nhấc lên. Tôi giẫy đạp, vùng vẫy nhưng
không ăn thua. Cô ấy quan sát tôi thật kĩ rồi hờ hững đáp:
- Nói là khó thì cũng chẳng khó, chỉ cần chăm chỉ tu luyện,
từ từ sẽ khôi phục được thôi.
Tôi quên là cổ mình đang bị thít chặt đến nghẹt thở, tròn
xoe mắt nhìn cô ấy. Bát Tư Ba lo lắng hỏi:
- Phải mất bao lâu?
Cô ấy phì cười, đặt tôi vào lòng Bát Tư Ba, liếc xéo tôi một
cái:
- Thành quả tu luyện suốt ba trăm năm, làm gì có chuyện muốn
khôi phục là khôi phục ngay được! Còn phải xem vận số của từng người ra sao.
Người thông minh, tài trí thì chỉ cần ba, bốn năm là đủ, kẻđần độn, ngu si, có
thể phải tu lại ba trăm năm cũng nên.
Tôi trừng mắt lườm cô ấy, nói thế chẳng bằng không nói.
Cô ấy ngẫm ngợi một lát rồi gật đầu với tôi:
- Thế này đi, nể tình chúng ta là đồng loại, từ lâu lại có
quan hệ thân thiết, ta sẽ truyền linh khí cho cô. Tuy không thể giúp cô lập tức
phục hồi nhưng chí ít cô có thể trò chuyện như xưa.
Tôi giật mình ngẩng lên, không tin nổi vào tai mình. Cô ấy
trở nên tốt bụng từ khi nào vậy? Truyền linh khí cho người khác sẽ hao tổn rất
nhiều năng lượng của bản thân, nếu không phải là người thân thiết nhất của
mình, trên đời này, làm gì có kẻ nào bằng lòng làm việc đó?
Cô ấy chẳng buồn đếm xỉa đến ánh mắt băn khoăn của tôi, đặt
ngón tay lên vết sẹo hình hoa sen trên trán tôi và niệm chú. Một luồng khí nóng
truyền từ ngón tay cô ấy vào ấn đường của tôi, chỉ trong chốc lát đã lan khắp
cơ thể, cho tôi cảm giác vô cùng thư thái, dễ chịu. Một lát sau, cô ấy ngừng lại,
lấy hơi, nhìn tôi. Tôi thử cất tiếng gọi:
- Lâu Cát…
Tuy giọng nói vẫn còn khản đặc nhưng rõ ràng tôi đã có thể
trò chuyện. Bát Tư Ba vui mừng khôn xiết:
- Lam Kha, hay quá! Em lại có thể trò chuyện được rồi!
Tôi sung sướng, vùi đầu vào lòng chàng, gọi đi gọi lại tên
chàng. Khabi tủm tỉm:
- Thôi thôi, đừng tình tứ trước mặt ta nữa. Tìm nơi vắng vẻ
mà tâm tình, thủ thỉ.
Gương mặt Bát Tư Ba đỏ như gấc chín, tôi xấu hổ quay mặt đi.
Khabi lấy lại dáng vẻđoan trang, thục hiền của một hoàng hậu, dặn dò tôi:
- Cô vẫn còn nhớ các pháp môn đó chứ? Hãy chăm chỉ tu tập và
đừng quên điều này, càng tu luyện hiệu quả cô càng có cảm giác buồn ngủ. Điều
này hết sức bình thường, không nên lo lắng.
Tôi và Bát Tư Ba đưa mắt nhìn nhau, ánh mắt chàng ngập tràn
niềm vui. Kể từ khi Kháp Na qua đời, tôi chưa bao giờ thấy chàng cười. Nhưng
hôm nay đã khác, nụ cười rạng rỡ, mãn nguyện của chàng khiến tim tôi loạn nhịp.
Tôi vội vã quay mặt đi để che giấu cảm xúc đó.
Suốt khoảng thời gian sống trong phủ Quốc sư, Bát Tư Ba
không lúc nào nguôi ngoai mỗi khi nhìn sang phủ Bạch Lan Vương phía đối diện.
Vì thế, Hốt Tất Liệt đã đề nghị chàng dọn vào ở trong ngôi chùa Đại Hộ Quốc
Nhân Vương vừa khánh thành, nằm bên sông Cao Lương. Ngôi chùa này do Hoàng hậu
Khabi công đức tiền của để xây dựng, người ta trồng hàng nghìn cây mẫu đơn
trong chùa. Hoa mẫu đơn, tiếng Tạng là “mai đóa nhiệt oa”, nghĩa là: vườn hoa.
Mùa xuân về, hoa mẫu đơn đua nhau nở rộ, rực rỡ chẳng khác nào vườn Thượng Uyển
trên Thiên cung.
Từ ngày trở về Trung Đô, Bát Tư Ba lại đầu tắt mặt tối. Bát
Tư Ba là người đứng đầu Tổng chế viện mà Hốt Tất Liệt lập ra để cai quản nền Phật
giáo của đất nước và các công việc chính sự liên quan đến vùng Tufan. Thêm vào
đó, chữ Mông Cổ vừa được ban lệnh phổ cập, Bát Tư Ba phải đích thân truyền dạy
mọi người cách sử dụng vì chàng là người sáng tạo ra hệ thống chữ viết mới mẻ
này. Vì thế, ngày nào chàng cũng đi sớm về muộn, bận bịu thâu đêm suốt sáng,
tôi chỉđược gặp chàng chốc lát vào buổi tối.
Còn tôi, tôi có việc quan trọng phải làm. Hằng ngày, ngoài
lúc ăn uống và ngủ nghỉ, tôi dành trọn thời gian và tâm sức cho việc tu luyện.
Giờđây, tôi đã thoát khỏi nỗi tuyệt vọng và đang nỗ lực không ngừng nghỉ vì mục
tiêu: lấy lại hình hài con người! Lần đầu tiên trong đời, khát khao cháy bỏng ấy
đến với tôi khi trái tim tôi rung động trước vị quốc sư tuổi trẻ tài cao, được
mọi người sùng bái ấy. Còn bây giờ, khi đã nếm trải đủ những cay đắng, khốn
cùng của cuộc đời, đã biết thế nào là sinh ly tử biệt, đã hiểu thế nào là tình
yêu đích thực, trái tim tôi chẳng thể rung động được nữa. Trong lòng tôi lúc
này, Dharma xếp vị trí số một. Tôi muốn có được hình hài con người đểđược ôm
con trai tôi vào lòng.
Đúng như Khabi dựđoán, sau mỗi ngày khổ luyện, tôi lập tức
chìm vào giấc ngủ say. Thường thì, khi Bát Tư Ba về phòng, đã thấy tôi thiếp đi
mê mệt. Hôm sau, khi tôi thức giấc thì chàng đã rời khỏi phòng ngủ từ lâu, chỉ
còn chút hơi ấm vương lại trên gối và cốc sữa bò bốc hơi nơi đầu giường nhắc nhở
tôi rằng, hôm nay, chàng lại tiếp tục vòng quay của chuỗi ngày đi sớm về muộn.
Nhưng trong những lần gặp hiếm hoi, tôi hết sức thảng thốt
vì hình như Bát Tư Ba đã già đi vài phần so với lần gặp trước. Năm nay chàng mới
ba mươi lăm tuổi, vậy mà những nếp nhăn nơi đuôi mắt và trên trán cứ ngày một đậm
hơn, sâu hơn. Tuy những nếp nhăn khiến chàng trở nên từng trải hơn, vững chãi,
trang nghiêm hơn, nhưng thực sự nó không hợp với tuổi tác của chàng. Tôi biết
những năm qua chàng đã quá lao tâm khổ tứ vì việc chung, lại phải chứng kiến
người thân của mình qua đời, nhưng dù vậy, khoảng thời gian ở Sakya, chàng
không già nua nhanh chóng như trong vòng một năm trở lại đây.
Tôi đã khuyên can và nài nỉ chàng đừng quá lao lực nhưng
chàng chỉ mỉm cười đáp lại, tiếp tục thức khuya dậy sớm, tiếp tục già nua đi
như thế.
Ngày tháng đưa thoi, chớp mắt đã hết một năm. Năm 1270, thể
theo nguyện vọng của Hốt Tất Liệt, Bát Tư Ba tổ chức lễ truyền pháp quán đỉnh Mật
Tông[20] cho Nhà vua. Hốt Tất Liệt ban tặng cho Bát Tư Ba ngọc ấn của vua Tây Hạ
mà năm xưa Thành Cát Tư Hãn đã đoạt được khi công phá Tây Hạ. Ngọc ấn này đã được
gia công thành ngọc ấn lục giác khi ban tặng cho Bát Tư Ba. Đồng thời, Hốt Tất
Liệt sắc phong Bát Tư Ba làm đế sư với lời ca ngợi: “Ngài là bậc trên thông
thiên văn dưới tường địa lý, đệ tử của đấng Phạm Thiên, hóa thân của Phật Đà,
người đã sáng tạo ra chữ viết mới, gánh vác việc triều chính.” Bên cạnh việc
ban ngọc ấn và sắc phong làm đế sư, Hốt Tất Liệt còn ban thưởng cho Bát Tư Ba rất
nhiều vàng bạc, châu báu, lụa là, gấm vóc. Tất nhiên, toàn bộ số của cải này đã
được Bát Tư Ba chuyển về Sakya làm kinh phí xây dựng đền Nam Sakya.
[20]. Quán đỉnh Mật
Tông là nghi lễ trong Phật giáo Kim Cương Thừa mà theo đó, các pháp được truyền
theo hình thức tantra thông qua công đức vô lượng và năng lực của đại sư truyền
pháp. (DG)
Mùa hè năm đó, Sakya báo tin: bản khâm Shakya Zangpo viên tịch!
Đại sư Shakya Zangpo đã ngoài sáu mươi, khi chúng tôi rời
Sakya, sức khỏe của đại sưđã yếu đi nhiều. Mất mát này khiến Bát Tư Ba đau buồn
một thời gian dài. Sau khi xét suy mọi bề, Bát Tư Ba gửi thư về Sakya, lệnh cho
Kunga Zangpo kế nhiệm chức vị bản khâm đời thứ hai.
Tôi vô cùng kinh ngạc:
- Chàng giao cho một người thân phận thấp kém như Kunga
Zangpo chức vị lớn lao ấy, chàng không sợ mọi người sẽ phản đối sao?
- Kunga Zangpo đi theo ta và Kháp Na từ nhỏ, năng lực của cậu
ta, ai nấy đều thấy rõ. Cậu ta là người già dặn, chín chắn, suy nghĩ thấu đáo,
thận trọng. Công trình đền Nam Sakya là một công trình vĩđại, xét thấy cả phái
Sakya chỉ có mình Kunga Zangpo có thểđảm nhiệm được trọng trách này.
Chàng đặt bút xuống, thổi cho khô các nét mực rồi quay sang
nói với tôi:
- Còn về chuyện xuất thân, hiện cậu ấy đã là con rể của phái
Sakya, thế là đủ.
- Người xưa nói không sai: “Yêu ai yêu cảđường đi.” - Tôi thở
dài, trong lòng cứ phấp phỏng lo âu. - Bởi vì cậu ta là người mà Kháp Na tin tưởng
nhất nên chàng cũng tin tưởng cậu ta tuyệt đối.
Chàng trầm ngâm không nói, ngước nhìn màn đêm buông xuống
ngoài cửa sổ. Gió đêm mang theo hơi nóng của ngày đầu hạ ùa vào phòng, thổi bay
cánh màn. Chàng đột nhiên thẫn thờ, buột miệng:
- Sắp ba năm rồi!
Tôi ngỡ ngàng, lập tức hiểu ra điều chàng muốn nói. Tôi cúi
đầu, nước mắt lã chã, lòng đau quặn. Kháp Na đã rời xa chúng tôi gần ba năm rồi…
Ngày đêm với tôi không còn ý nghĩa nữa, ngoài những lúc miệt
mài khổ luyện, tôi dành trọn thời gian để nghĩ về con trai. Không biết thằng bé
đã lớn thêm được chút nào chưa? Không biết đã bi bô tập nói chưa? Chắc là con
tinh nghịch, đáng yêu lắm. Chắc là con càng ngày càng giống cha. Mong là lúc mẹ
lấy lại được hình hài con người, mẹ vẫn có thể ôm con trong tay.
Bát Tư Ba ngày một già nua. Cứ cách một thời gian, ngắm nhìn
chàng, tôi lại thấy chàng già đi rất nhanh. Chàng mới ba mươi sáu tuổi nhưng
hai năm trở lại đây, chàng dường nhưđã già đi hơn mười tuổi. Những đường nét
thanh tân trên gương mặt chàng đã hoàn toàn biến mất. Vóc dáng gầy gò càng thêm
tiều tụy, lưng chàng còng xuống, chiều cao giảm hẳn, nếp nhăn trên trán ngày
càng vằn vện, quá nửa chân tóc là màu trắng. Chàng rất chăm chỉ cạo đầu, hễ thấy
chân tóc trắng là lập tức cạo sạch. Trước đây, mỗi lần chàng ra ngoài là đám
đông các thiếu nữ lập tức xúm lại, chiêm ngưỡng, trầm trồ, nhưng giờđây, cảnh
tượng đẹp đẽđó không còn tái diễn nữa.
Một ngày nọ, tôi gắng gượng chống lại cơn buồn ngủđể chờ
chàng về. Tôi đã cấu vào chân mình để giữ cho đôi mắt không khép lại. Sau giờ Hợi,
khi bàn chân tôi đã sưng đỏ, tôi mới thấy chàng bước vào phòng. Tôi nhảy lên
lòng chàng khiến chàng giật mình:
- Lam Kha, sao giờ này còn chưa đi ngủ? Em phải chịu khó ngủ
thật nhiều mới nhanh phục hồi linh khí được chứ!
Tôi trách móc:
- Ngày nào chàng cũng chỉ ngủ có ba canh giờ, sau đó rời khỏi
phòng, giải quyết cả núi việc. Nếu em không nhẫn nại chờđợi, chắc chẳng khi nào
gặp được chàng.
Chàng vuốt ve cái đầu nhỏ của tôi, vẻ mặt chẳng có gì là hối
lỗi:
- Chữ Mông Cổ vừa được ban hành, ta phải hướng dẫn quan lại
trong triều cách dùng, còn phải soạn bài giảng nữa. Ta cũng muốn đưa em đi
cùng, nhưng chắc chắn những công việc này sẽ khiến em cảm thấy buồn chán, nên
em hãy chăm chỉở lại đây tu luyện thì hơn.
- Em chờ chàng về không phải vì em cảm thấy buồn chán! - Tôi
hơi bực, thúc cái mũi nhọn vào cánh tay chàng. - Chàng còn nhớ những lời dặn dò
của Kháp Na không? Kháp Na không muốn chàng quá lao lực vì giáo phái hay vì trọng
trách thống nhất đất Tạng. Kháp Na muốn chàng sống cho bản thân mình.
Nghe nhắc đến Kháp Na, chàng chỉ biết im lặng. Tôi thở dài:
- Lâu Cát, cho dù chàng không bận tâm đến sức khỏe của bản
thân, không màng đến việc dung mạo của mình ngày một già nua thì chàng cũng phải
nghĩđến Dharma chứ? Nếu chàng qua đời, Dharma sẽ ra sao? Một đứa trẻ như nó làm
sao gánh vác nổi trọng trách của giáo phái?
Chàng khép hờđôi mắt, hàng mi dài rung động, nụ cười gượng gạo:
- Đừng lo, Đại hãn ban cho ta rất nhiều loại thuốc bổ quý hiếm.
Ngày nào Dampa cũng sắc cho ta uống. Ta hứa với em, sau khi kết thúc chuỗi ngày
bận rộn này, ta nhất định sẽ nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng một thời gian và dành nhiều
thời gian cho em hơn.
Tôi muốn nói thêm nhưng không biết phải nói sao. Chàng lúc
nào cũng vậy, chẳng bao giờđể ý đến sức khỏe của mình. Suốt cuộc đời, chàng
chưa bao giờ sống cho riêng mình.
Chàng vỗ nhẹ vào lưng tôi, dỗ dành:
- Em mau ngủđi, ta xem qua một lượt các công văn của Tổng chế
viện gửi đến rồi sẽđi nghỉ ngay.
Cơn buồn ngủ lập tức ập đến, trước lúc thiếp đi, hình như
tôi có cảm giác bị nhấc bổng lên và đưa đi đâu đó, có tiếng bước chân quen thuộc.
Sau đó, tôi không còn biết trời đất gì nữa.
Tết năm 1271, Hốt Tất Liệt dẫn theo Khabi và Chân Kim đến
chùa Đại Hộ Quốc Nhân Vương lễ Phật, cầu phúc. Chân Kim đã lẻn đến gặp tôi. Cậu
ta mang cho tôi món gà rán của quán Đức Thắng mà tôi thích nhất. Tôi thốt lên
kinh ngạc rồi nhào đến ngấu nghiến, cắn xé món thịt thơm ngậy. Bạn bè chơi với
nhau từ bé có khác, hiểu rõ tôi thích gì nhất. Lần nào đến chùa, Chân Kim cũng
là người giúp tôi cải thiện bữa ăn.
- Tiểu Lam, lẽra em phải là một hồ ly già cả rồi mới phải chứ!
Vì sao ta không thấy em già đi chút nào? Bộ lông của em vẫn bóng mượt như thế,
đôi mắt vẫn xanh lam, đáng yêu như thế.
Chân Kim vừa nhìn tôi thả sức thưởng thức món ngon vừa bật
cười khúc khích, thò tay đùa giỡn với chiếc cằm của tôi.
Tôi khinh khỉnh nhìn cậu ta. Nếu thấy tôi lúc vừa trở về
Trung Đô, chắc chắn cậu ta sẽ không nhận xét như vậy. Lúc ấy, đôi mắt của tôi
tái dại, lông lá xác xơ, tơi tả. Mất hai năm trời khổ luyện, tôi mới lấy lại dược
dáng vẻ như bây giờ. Những ngày qua, tôi đã cảm nhận một cách rõ rệt, linh khí
trong cơ thểđang ngày càng nhiều lên. Khứu giác, vị giác, thính giác và thị
giác của tôi đều đã phục hồi. Tôi thử biến phép thì phần lớn đều thành công. Có
lẽ chẳng bao lâu nữa tôi sẽ lấy lại được hình dáng con người!
Chân Kim đột nhiên buông một câu hỏi lạ lùng:
- Không biết ở trên trời cô ấy có được bình an không?
Cậu ta cúi đầu, thở dài, hàng lông mày dày, rậm xô lại, chừng
nhưđang có rất nhiều tâm sự.
- Năm năm qua ta chưa lần nào gặp lại cô ấy.
Tôi sững sờ, cậu ta đang nói về tôi sao? Chuyện đã xảy ra
lâu lắm rồi, Khoát Khoát Chân đã sinh cho cậu ta đứa con trai thứ ba - Thiết Mộc
Nhĩ, vậy mà cậu ta vẫn tưởng nhớ cuộc gặp tình cờ vào ngày lễ Sitatapatra đó ư?
Tôi khẽ lắc đầu. Đối với cậu ta, cô gái tóc xanh, mắt xanh ấy chẳng qua chỉ là
một ảo ảnh mà thôi.
Vì buổi chiều tham ăn, chén cả con gà rán mà Chân Kim mang
cho nên tôi hầu như không đụng đũa vào đĩa thức ăn buổi tối. Ăn uống xong xuôi,
tôi cuộn tròn trên giường, lăn qua lăn lại một hồi vẫn không thấy buồn ngủ. Lạ
quá, hai năm qua, tối nào cơm nước xong một lúc là tôi buồn ngủ rũ mắt kia mà,
vì sao hôm nay không hề có cảm giác muốn ngủ?
Tiếng bước chân quen thuộc của Bát Tư Ba vang lên ngoài cửa.
Tôi tủm tỉm cười, nằm im trên giường vờ ngủ say. Cánh cửa kẹt mở, chàng bước về
phía tôi, ôm tôi lên. Tôi định mở miệng dọa chàng nhưng lại thấy chàng cất bước
rời khỏi căn phòng.
Vòng vèo hồi lâu, tôi càng lúc càng nghi hoặc, chàng định
đưa tôi đi đâu? Đến trước cửa một căn phòng lạ lẫm, chàng đẩy cửa bước vào như
thể rất thông thuộc. Căn phòng được bài trí đơn sơ, một người con gái yêu kiều
đang ngồi xoay mặt về phía cửa sổ. Nghe tiếng động, người con gái lập tức quay
đầu lại, mỉm cười:
- Thầy đến đấy à?
Tôi toát mồ hôi khi nhận ra người đó là Khabi!
*
- Đến tận bây giờ tôi vẫn có thểđọc thuộc bản chiếu thư ban
hành chữ Bát Tư Ba của Hốt Tất Liệt.
Tôi đứng lên, chầm chậm cất bước trong căn phòng, khe khẽđọc:
- Trẫm dùng chữ viết ghi lại lời nói, ghi lại những sự kiện
để cho người đời nay biết những việc của người đời trước. Quốc gia của trẫm bắt
nguồn từ phương Bắc, phong tục cổ hủ, chưa có chữ viết của riêng mình, văn tự
mà người Mông Cổ sử dụng là mượn từ chữ Hán và chữ Uyghur. Xét thấy các nước
lân bang đều có chữ viết riêng, gặt hái được những thành tựu văn hóa rực rỡ. Những
điều mà người đời tôn trọng là những điều ghi trong các cuốn sách… Do đó, trẫm
đã hạ lệnh cho ngài Bát Tư Ba sáng tác ra chữ mới của Mông Cổ, dịch tất cả các
chữđể mọi người đọc được mà hiểu biết mọi chuyện.
Chàng trai trẻ tỏ ra băn khoăn:
- Hốt Tất Liệt ra sức phổ cập chữ Bát Tư Ba là thế, vậy thì
vì sao về sau, loại chữ ngày không được tiếp tục lưu truyền?
- Bởi vì hình dạng của kiểu chữ này rất khó nhận biết.
Thêm vào đó, một sốđịa phương vẫn phỏng theo kiểu chữ Triện
của người Hán nên lại càng khó nhận biết hơn. - Tôi lật mở những bức hình trong
sách và chỉ cho chàng trai trẻ từng chữ một. - Bởi vậy, mặc dù triều Nguyên đã
nhiều lần hạ lệnh yêu cầu quan lại và dân chúng sử dụng chữ Bát Tư Ba khi ghi
chép, viết lách, và thực chất là cũng có một số thư tịch được viết bằng chữ Bát
Tư Ba, nhưng phần đông dân chúng vẫn tiếp tục dùng chữ Hán. Thế nên, chữ Bát Tư
Ba chủ yếu chỉđược sử dụng trong các văn kiện của quan lại.
Cậu ta quan sát và thử mô phỏng một chữ Bát Tư Ba, rồi gật
gù, nói:
- Quả thật rất khó phân biệt.
- Sau khi triều Nguyên suy vong, chữ Bát Tư Ba dần dần bịđào
thải, cuối cùng trở thành văn tự chết.
Chàng trai ngẩng lên hỏi:
- Vậy vì sao ngay cảở Mông Cổ cũng không còn lưu truyền loại
chữ này?
Tôi cười:
- Bởi vì nhà Nguyên chỉ là một trong bốn nước lớn của đế quốc
Mông Cổ, chữ Bát Tư Ba chỉđược sử dụng ở triều Nguyên, các nước Mông Cổ khác
không sử dụng loại văn tự này. Triều Nguyên sụp đổ, người Mông Cổ bị người Hán
đuổi khỏi Trung Nguyên, chữ Bát Tư Ba từng được sửdụng rộng rãi ở Bắc Nguyên một
thời gian. Sau đó, cùng với việc những người sử dụng loại chữ viết này bị các bộ
lạc Mông Cổ khác đồng hóa, chữ Bát Tư Ba từđó bị diệt vong.
Chàng trai trẻ thở than:
- Vậy nên ngày nay, chúng ta chỉ có thểđọc được chữ Bát Tư
Ba trên các di vật văn hóa.