Đức Phật và Nàng - Hoa sen xanh (Tập 2) - Chương 36 - Phần 01

CHƯƠNG 36 Thánh địa của miền núi tuyết

“Không cần chỉ dẫn tận tường,

Bậc trí giả vẫn thấu tỏ mọi sự;

Quả hồng có hương vị thế nào, Chỉ nhìn vỏ của nó là biết.”

( Cách ngôn Sakya )

Năm 1265, tức năm Ất Sửu, Âm Mộc theo lịch Tạng, tức niên hiệu
Hàm Thuần thứ nhất, nhà Nam Tống, tức niên hiệu Chí Nguyên thứ hai, Mông Cổ.

Bát Tư Ba ba mươi mốt tuổi, Kháp Na hai mươi bảy tuổi.

Bát Tư Ba và Kháp Na đã ăn Tết năm 1265 theo lịch của người
Hán trong ngôi đền Drikung Thil ở Modrogongkar, cách La-ta chừng một trăm dặm.
Đây là ngôi đền chính của phái Drikung, một trong những giáo phái lớn ởđất Tạng.
Hai giáo phái Drikung và Sakya ra đời cùng thời điểm nhưng trong khi phái Sakya
chật vật “trở mình” ở vùng Hậu Tạng nghèo nàn thì phái Drikung lại thảnh thơi
phát triển ở vùng Tiền Tạng giàu có, phì nhiêu. Trong vòng hơn một trăm năm,
phái Drikung đã phát triển thành giáo phái lớn mạnh nhất đất Tạng, thánh địa
La-ta cũng thuộc phạm vi thế lực của giáo phái này.

Tin tức Bát Tư Ba trở về quê hương từ lâu đã được truyền tới
các giáo phái lớn trên khắp đất Tạng nên phái Drikung, từng là kẻ thù lớn nhất của
phái Sakya, cũng chuẩn bị nghi lễ nghênh đón Bát Tư Ba rất mực long trọng. Pháp
vương Chung Dorje Rinpoche[2] năn nỉ Bát Tư Ba và Bạch Lan Vương ngự lại trong
ngôi đền Drikung Thil. Dù rất muốn nhanh chóng đến La-ta nhưng không tiện từ chối
lời mời nhiệt tình của Chung Dorje, Bát Tư Ba đànhở lại trong đền Drikung Thil
khoảng chục ngày.

[2]. Rinpoche trong
tiếng Tạng có nghĩa là “bậc thượng tôn chuyển thế”, được dịch sang tiếng Hán là
“Phật sống”.

Mối mâu thuẫn giữa phái Drikung và phái Sakya bắt đầu từ thời
đại của đại sư Ban Trí ĐạtMấy chục năm trước, phái Drikung cử một số nhà tu
hành đi Kora[3] vòng quanh núi thiêng Kailash[4] để cầu phúc. Trên đường đến
Kailash, đoàn người có ghé thăm đền Sakya và gặp đại sư Ban Trí Đạt. Đám người
này ỷ mình là người của giáo phái Drikung hùng mạnh nên đã cả gan buông lời xấc
xược, tỏ thái độ kiêu căng, ngạo mạn trước mặt đại sư. Đại sư thẳng thắn phản
bác, phê phán khiến đám thầy tu vô cùng tức tối. Sau đó, phái Drikung ỷ vào thế
lực của Mông Kha Hãn, đưa người đến Sakya, cho ngựa giẫm nát khu vườn thiền tịnh
của ngài Ban Trí Đạt, dỡ tung mái nhà, biến chỗở của ngài thành khu phố chợ khiến
các tín đồ Sakya vô cùng căm phẫn.

[3]. Vòng Kora quanh
Kailash, tổng cộng 52 km, còn gọi là cuộc hành thiền quanh núi thiêng - theo
chiều kim đồng hồđối với tín đồ Phật giáo và ngược chiều kim đồng hồđối với môn
đồđạo Bon. Với người Tây Tạng, cuộc hành thiền được xem là hành trình đi từ vô
minh đến khai sáng, từ kiêu mạn và tham đắm vật chất đến nhận thức thấu đáo về
nghiệp duyên cuộc đời. Khách hành hương có dịp đối diện với tâm thức mình, chứng
nghiệm những đổi thay trong tâm hồn mình. (Chú thích của dịch giả - DG.)

[4]. Trong dãy
Himalaya, tuy không cao như Everest (8848 m) nhưng Kailash (6714 m) là ngọn núi
thiêng liêng nhất trong lòng hàng tỷ tín đồ Phật giáo, Hindu giáo, đạo Jains và
đạo Bon. Người Tây Tạng gọi Kailash là Kang Rinpoche - viên ngọc quý trong tuyết.
Theo Tạng kinh, đó là một quần
thể gồm năm đỉnh núi đại diện cho năm loại trí của Phật mà Kailash - pháp giới
trí, là trung tâm. Kailash còn được mệnh danh là “vũ trụ tâm linh”. Kinh Tạng
Phật giáo gọi Kailash là núi Tu Di, nơi có hang động của Tổ sư Milarepa, đạo
tràng của Tổ sư Liên Hoa Sanh và hang động của Bồ Tát Quan Âm. (DG)

Mối xung đột giữa hai giáo phái bịđẩy lên cao trào khi biến
thành vụ kiện tụng đình đám. Bản khâm của Sakya khi đó là ngài Shakya Zangpo đã
phải đeo gông, vượt núi cao đến La-ta đểđối chất với phái Drikung. Khi ấy Bát
Tư Ba vừa mới quyết định đi theo Hốt Tất Liệt, Mông Kha Hãn vẫn tại vị nên tất
nhiên sẽ nghiêng về phái Drikung. Vụ án đó kết thúc một cách không rõ ràng,
minh bạch, phái Sakya thua đơn thiệt kép. Nhưng sau đó, Hốt Tất Liệt lên ngôi Đại
hãn, địa vị của Bát Tư Ba ngày càng được nâng cao, phái Sakya không phải chịu
lép vế như xưa nữa, phái Drikung buộc phải cúi đầu làm hòa. Trở về quê hương lần
này, Bát Tư Ba mang trên vai trọng trách lớn lao, quy hoạch lại đất Tạng theo
chế độ cai quản vạn hộ hầu, chia lại đấtđai và dân cư của các ngôi đền. Những
việc làm này có liên quan mật thiết và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các
giáo phái nên phái Drikung sao dám thất lễ với Bát Tư Ba? Sự tiếp đón long trọng
này chính là cách phái Drikung bày tỏ thái độ cúi đầu làm hòa.

Điều này vừa đúng ý Bát Tư Ba vì chàng không muốn gây xung đột
với bất cứ giáo phái nào. Từ lâu chàng đã có ý định xóa bỏ mối hằn thù kéo dài
suốt mấy chục năm qua của hai phái Sakya và Drikung. Không chỉ vậy, ngay cả với
phái Phaktru thường xuyên tranh chấp với Sakya, Bát Tư Ba cũng đã gửi thư cho họ,
biểu thị thiện ý hàn gắn và chung sống hòa bình.

Chúng tôi đã có một cái Tết náo nhiệt tại ngôi đền Drikung
Thil với sự tiếp đón nhiệt tình của phái Drikung.

Ngày mùng Hai Tết Tạng, chúng tôi lên đường. Chung Dorje còn
bố trí cả một đội quân long trọng tiễn chúng tôi đi La-ta. Bát Tư Ba muốn tới
nơi trước dịp Tết của người Hán, vì chàng phải gửi thư chúc Tết Hốt Tất Liệt từ
La-ta.

Thế là vào một buổi sáng mùa đông tươi đẹp của ngày Ba mươi
Tết (theo lịch Hán), đoàn chúng tôi hùng dũng tiến vào cốđô La-ta một thời vàng
son của vương triều Tufan. Nơi đây chính là thánh địa Phật giáo mà ngày nay
chúng ta gọi là Lhasa.

Đền Jokhang lộng lẫy, nguy nga được Tán phổ Tùng Tán Cán Bố
xây dựng từ thời vương triều Tufan. Ngôi đền lấp lánh ánh vàng trên nền tuyết
trắng xóa hiện ra sống động trước mắt chúng tôi. Vừa tới nơi, Bát Tư Ba chẳng kịp
đến chiêm bái tượng Phật Thích Ca Mâu Ni mười hai tuổi mà Công chúa Văn Thành
rước từ Trường An xa xôi đến đây, vội vã ăn bữa trưa qua loa rồi giam mình
trong Phật điện Jokhang, đây là nơi ở dành riêng cho Bát Tư Ba, được các nhà sư
chuẩn bị hết sức chu đáo.

Hằng năm, theo thông lệ, Bát Tư Ba đều viết thư chúc Tết Hốt
Tất Liệt. Với tài văn chương, thơ phú của chàng, một bức thư chúc mừng năm mới
có gì khó khăn, nhưng không hiểu sao, lần này rất lạ lùng, chàng chỉ cho phép
Senge theo hầu. Bát Tư Ba lưu lại trong Phật điện rất lâu khiến tôi tò mò quá đỗi.

Tôi bèn lẻn vào Phật điện để rồi há hốc miệng, tròn mắt quan
sát mọi thứ xung quanh. Phật điện được trang hoàng nguy nga, lộng lẫy không kém
gì cung điện của Hốt Tất Liệt ở Trung Đô. Xem ra, các thế lực ởđất Tạng đã đầu
tư rất nhiều công sức và tiền bạc để lấy lòng Bát Tư Ba. Nhưng chàng đâu có để
tâm đến sự sang trọng, xa hoa của nơi ăn chốn ở này, chỉ lẳng lặng ngồi xếp bằng,
chăm chú viết thư, chốc chốc lại dừng bút ngẫm ngợi, không hề ngẩng lên. Sau
khi hạ bút thảo những nét cuối cùng, chàng cẩn trọng xem xét lại một lượt rồi mới
bỏ vào phong thư, đóng con dấu của riêng chàng, xong xuôi mới gọi Senge tới:

- Hãy cử người cấp tốc chuyển thư này về Trung Đô. Nhớ kĩ,
chỉĐại hãn mới được phép mở thư!

Senge không khỏi ngạc nhiên:

- Thưa thầy, đây vốn là thư chúc Tết hằng năm thầy vẫn gửi Đại
hãn kia mà, vì sao phải gấp gáp như vậy?

Thần sắc nghiêm nghị, Bát Tư Ba đứng lên cử động đôi chân đã
tê dại của mình:

- Trong thư này, ngoài lời chúc mừng năm mới, ta còn trình
bày những dự định bước đầu về kế hoạch phân chia thường dân và tín đồởđất Tạng,
ta gọi là kế hoạch phân chia cư dân Mid và Lad. Việc này phải được sựđồng ý của
Đại hãn.

Senge càng ngạc nhiên hơn:

- Mid và Lad ư? Thưa thầy, đệ tử chỉ biết Lad là cư dân thuộc
quyền cai quản của các tu viện lớn ởđất Tạng. Họ trồng cấy trên đất đai thuộc sở
hữu của các tu viện nên chỉ cần nộp thuế cho tu viện. Đây là quan hệ phổ biến ởđất
Tạng sau khi vương triều Tufan sụp đổ. Còn Mid thì đệ tử không biết.

Bát Tư Ba gõ nhẹ những ngón tay xuống mặt bàn, vẻđăm chiêu,
tư lự:

- Bốn trăm năm qua, đất Tạng bị chia năm xẻ bảy, các tu viện
cắt đất, khoanh vùng cai quản, hầu hết các hộ dân trên đất Tạng đều thuộc quyền
cai quản của tu viện. Nhưng nay, đất Tạng đã quy thuộc Mông Cổ, dân cư nơi đây
buộc phải gánh trách nhiệm đóng thuế và nghĩa vụ lao dịch với quốc gia. Ta gọi
những người dân phải nộp thuế cho nhà nước là Mid.

Senge nhíu mày, phân tích sắc sảo:

- Nhưng các tu viện lớn đã chiếm một số lượng lớn đất đai và
dân cư suốt nhiều năm qua, hầu hết tài sản của đất Tạng đều thuộc về tu viện. Nếu
buộc các tu viện trao trả cư dân Lad của họ, để biến những người này thành cư
dân Mid của nhà nước, chắc chắn họ sẽ phản đối.

Bát Tư Ba khẽ gật đầu:

- Trò nói đúng. Kế hoạch này ảnh hưởng đến lợi ích trực tiếp
của các tu viện lớn, trong đó có cả tu viện Sakya. Nếu buộc toàn bộ dân cư thuộc
sở hữu của tu viện trở thành Mid là điều không thể. Trước khi lên đường, ta đã
thảo luận với Đại hãn về vấn đề này rất lâu, khó khăn lắm mới thuyết phục được
ngài chấp thuận chếđộ quản lý đặc biệt, dành riêng cho đất Tạng. Đó là, những
cư dân thuộc quyền cai quản của tu viện, chịu trách nhiệm phụng thờ Phật Tổ, sẽ
được miễn nghĩa vụ lao dịch và thuế khóa. Những cư dân còn lại buộc phải thực
hiện nghĩa vụ này.

Senge quan sát vẻ mặt của Bát Tư Ba, thận trọng hỏi:

- Thưa thầy, phải chăng Đại hãn đã giao toàn quyền quyết định
tu viện nào được phép sở hữu bao nhiêu Lad, chuyển đổi bao nhiêu Mid cho thầy?

Bát Tư Ba chậm rãi gật đầu, nét mặt căng thẳng.

Senge hít một hơi thật sâu, đầu óc nhạy bén của cậu ta lập tức
nhận biết được tầm quan trọng của vấn đề:

- Nếu được phân vào hàng ngũ những cư dân Lad, sẽ không phải
đóng thuế cho triều đình và không phải chịu nghĩa vụ lao dịch. Trở thành cư dân
Mid, tức là sẽ không phải nộp tô thuế cho tu viện. Điều này ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền lợi của các bên! Đất Tạng có bao nhiêu giáo phái, bao nhiêu tu viện,
lẽ dĩ nhiên các giáo phái và tu viện đều sẽ dốc sức để giành lấy về phần mình
thật nhiều cư dân Lad và nhượng cho triều đình thật ít cư dân Mid.

Bát Tư Ba đăm chiêu:

- Về phần Đại hãn, ngài mong rằng số lượng cư dân đóng thuế
cho mình càng nhiều càng tốt. Đô thành của ngài vừa xây dựng lại, ngài còn cả
cuộc chiến cam go, trường kỳ với nước Tống ở phía nam nên quốc khố là vấn đề vô
cùng cần kíp.

Senge chậc lưỡi:

- Thầy bị kẹp ở giữa thế này, phải làm sao cho ổn thỏa, cho
đẹp lòng các bên đây?

Bát Tư Ba khẽ khép mắt, hai tay đưa lên xoa bóp huyệt thái
dương:

- Ta hiểu rõ sẽ vô cùng gian nan, bởi vì phái Sakya vừa là một
giáo phái ởđất Tạng, lại vừa là đại diện của Đại hãn. Chúng ta phải xét suy mưu
lợi cho đất Tạng, đồng thời cũng phải suy nghĩ cho Đại hãn. Rất khó khiến đôi
bên đều vừa lòng đẹp ý, ta chỉ có thể dốc hết sức mình, cầu lấy sự công bằng,
thỏa đáng mà thôi.

- Trách nhiệm của thầy quả là vô cùng nặng nề. Chả trách, suốt
dọc đường đi, thầy luôn đăm chiêu, suy nghĩ. - Senge tỏ ra lo lắng, rồi chợt nhớ
ra điều gì, vội hỏi. - Đệ tử hiểu rồi, phái Drikung ân cần khoản đãi chúng ta
như vậy, chắc chắn pháp vương Chung Dorje của họđã đưa ra đề nghị gì với thầy,
đúng không?

Bát Tư Ba cười buồn, tán dương Senge:

- Trò rất thông minh! Đúng vậy, Chung Dorje viện cớđền
Drikung Thil cách La-ta không xa, khẩn cầu ta cắt toàn bộ dân cư của La-ta cho
phái Drikung.

Senge xì mũi tức tối:

- Lão già khôn ngoan ấy quá tham lam! La-ta từng là cốđô của
vương triều Tufan, đất đai phì nhiêu, cư dân đông đúc. Chia toàn bộ cư dân
La-ta cho họ, phái Drikung nghiễm nhiên sẽ trở thành giáo phái hùng mạnh nhất đất
Tạng!

Bát Tư Ba khẽ lắc đầu:

- Ta hiểu thâm ý của ông ta, trong thư gửi Đại hãn, ta cũng
ghi rõ nguyện vọng của phái Drikung. Nhưng nguyện vọng của họ có đạt được hay
không, ta không thể quyết định, Đại hãn sẽ tựđịnh đoạt.

Senge suy nghĩ một lát rồi gật gù:

- Nếu Đại hãn không chấp thuận, phái Drikung cũng không thể
oán trách ai.

Rồi cậu ta cung kính cúi người, thưa với sư phụ rằng:

- Thưa thầy, bức thư quan trọng nhường này, chi bằng hãy
giao cho con, con sẽđích thân chuyển đến tận tay Đại hãn và trình bày rõ ràng với
ngài những suy nghĩ của thầy.

Bát Tư Ba gật đầu:

- Đúng đấy, con thông minh, lanh lợi, lại có tài ăn nói, chắc
chắn sẽ biết cách giải thích tường tận với Đại hãn.

Senge vui mừng nhận lệnh:

- Con sẽ thúc ngựa thật nhanh, chỉ nửa năm là có thểđến được
Trung Đô. Thưa thầy, con hứa, ngày này sang năm sẽ trao ý chỉ của Đại hãn đến tận
tay thầy!

Senge đã tận lực cho chuyến công cán này. Tuy chỉ làm phận sự
của người đưa thư nhưng sẽđược tiếp kiến Hốt Tất Liệt. Thế nên, đối với một người
nuôi tham vọng thăng tiến như Senge thì đây là cơ hội ngàn năm có một. Sau đó,
quảnhiên Senge đã tận dụng dịp may hiếm có này để phô diễn tài năng trước mặt Hốt
Tất Liệt. Đây là lần đầu tiên vị tể tướng tương lai của triều Nguyên xuất hiện
trước mặt Hốt Tất Liệt.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3