Đức Phật và Nàng - Hoa sen xanh (Tập 2) - Chương 35

Phần 3 Trở về Sakya

CHƯƠNG 35 Muôn dặm đường về

“Học giả dẫu bị gài bẫy,

Cũng không dễ dàng mắc mưu;

Kiến nhỏ dù không có mắt,

Nhưng bò nhanh hơn loài khác.”

( Cách ngôn Sakya )

Năm 1264, tức năm Giáp Tý, Âm Mộc theo lịch Tạng, tức niên
hiệu Cảnh Định thứ năm, nhà Nam Tống, tức niên hiệu Chí Nguyên thứ nhất, Mông Cổ.

Bát Tư Ba ba mươi tuổi, Kháp Na hai mươi sáu tuổi.

Sau hành trình hai tháng vất vả trên vùng đồng bằng Hoa Bắc,
chúng tôi đến Lan Châu, rồi tới Tây Ninh. Hai thành phố quan trọng này là nơi tập
trung đông đảo các dân tộc ở biên giới phía tây. Trên những con phố chật hẹp,
dòng người qua lại tấp nập với đủ loại trang phục có màu sắc khác nhau, họ trao
đổi với nhau bằng rất nhiều thứ ngôn ngữ, quả thực vô cùng phức tạp. Cả Bát Tư
Ba và Kháp Na đều tinh thông tiếng Mông Cổ, tiếng Tạng và tiếng Hán, nhưng ởđây
họ còn nói tiếng Khương, tiếng Uyghur và các thứ tiếng địa phương khác. Thậm
chí, trong cùng một ngữ hệ, khẩu âm của từng vùng cũng rất khác nhau, thế nên,
thường xuyên xảy ra cảnh tượng ông nói gà, bà nói vịt.

Đúng lúc Bát Tư Ba đang đau đầu vì sự hỗn tạp của các loại
ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp với cư dân địa phương thì Senge xuất hiện.

Khi đoàn chúng tôi dừng lại ở Tây Ninh để nghỉ ngơi, dưỡng sức
thì một thanh niên người Tạng tên là Senge tìm đến, nói rằng muốn theo hầu Bát
Tư Ba. Vào thời thịnh trị của vương triều Tufan, tổ tiên của Senge được tán phổ
phái đi trấn giữ vùng biên cương Thanh Hải, nhưng sau đó, vì đức vua không ban
bố lệnh rút quân nên họ tộc của Senge đã cư trú đời đời trên mảnh đất này.
Senge là người giỏi ngoại ngữ thiên bẩm, có thể nói lưu loát tiếng Hán, tiếng Tạng,
tiếng Mông Cổ và cả tiếng Uyghur.

Bát Tư Ba để Senge làm thông dịch cho mình, thường xuyên đề
nghị cậu ấy thông báo về tình hình đời sống của người Tạng trên dải đất Thanh Hải.
Senge là người năng đi, năng biết, kiến thức phong phú, lại thông minh, lanh lợi
nên rất được Bát Tư Ba tín nhiệm.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

Khoảng cuối tháng Bảy, đầu tháng Tám, Senge đưa anh em Bát
Tư Ba đến thăm hồ Thanh Hải. Nước biếc dạt dào làm nổi bật vẻđẹp của dãy núi
Côn Luân uốn lượn, xanh ngút ngát phía xa xa. Cỏ hoa rì rào lay động trong làn
gió nhẹ mùa hạ, cảnh tượng bát ngát, tươi đẹp ấy khiến người ta ngỡ ngàng, con tim
rộn ràng hòa ca. Dùng tay vốc một vốc nước trong veo, tinh khiết, tâm hồn chừng
như cũng được gột rửa, bỗng trở nên nhẹ nhõm, thanh thản lạ kỳ. Hai anh em họ lặng
ngắm cảnh hồ, dãy núi tĩnh lặng phía xa, sóng nước lăn tăn, ánh hoàng hôn phủ
lên bóng dáng gầy guộc của họ. Khung cảnh tuyệt đẹp ấy, bảy trăm năm sau vẫn in
đậm trong trái tim tôi, mãi không phai nhòa.

Sau khi rời Tây Ninh, theo kế hoạch ban đầu, chúng tôi sẽ vượt
núi Côn Luân, vượt sông Trường Giang ở thượng nguồn, sau đó tiếp tục vượt đèo Tanggula
để vào đất Tạng. Đây chính là tuyến đường Thanh - Tạng. Tuyến đường này tuy khá
cao so với mực nước biển nhưng đường đi không quá gập ghềnh, khó chịu. Năm xưa,
đại sư Ban Trí Đạt đã dắt díu hai chú nhóc, vượt chặng đường này đểđến đất
Lương Châu. Nhưng Bát Tư Ba đã chọn hướng đi khác: vào đất Tạng qua Dogans[1].

[1]. Nay là vùng đất
Tạng giao giữa Thanh Hải và Tứ Xuyên.

Vùng Dogans, từ nam chí bắc cắt ngang dãy Côn Luân, dãy
Bayan Har và dãy Tanggula, đường đi là núi đồi trập trùng, muôn phần hiểm trở,
những đoạn bằng phẳng hơn thì đều là mạng lưới đầm lầy dày đặc. Tuy vậy, nếu đi
theo tuyến đường này, có thể rút ngắn thời gian vào đất Tạng một tháng. Vì nóng
lòng trở về Sakya, Bát Tư Ba đã không nề hà chọn tuyến đường đầy gian nan này.

Ra khỏi thung lũng Huangshui với độ cao chỉ hai nghìn mét so
với mực nước biển, chúng tôi bắt đầu phải đối mặt với cung đường vô cùng gian
khổ, núi cao chồng chất núi cao. Cứ qua một khe núi là nhiệt độ lại giảm mạnh,
vào tháng nóng nhất của mùa hè Trung Nguyên thì ởđây vẫn phải khoác áo dày cộm,
nhiều lớp. Di chuyển trên con đường gập ghềnh, trắc trở chưa đầy chục ngày mà
đám binh sĩ người Mông Cổ ai nấy đều sạm nắng, những đốm tròn sẫm đỏ rõ nét
trên gò má. Như thế cũng chưa ăn thua. Kể từ ngày bắt đầu phải leo núi cao, các
triệu chứng: chóng mặt, buồn nôn, thở gấp, phản ứng độ cao không thôi giày vò
những con người đã quen sống ở miền đồng bằng.

- Kháp Na, uống thuốc nào.

Kháp Na gắng gượng hé mởđôi mắt sưng tấy, mệt mỏi quay đầu lại,
gương mặt nhợt nhạt, khóe miệng phồng rộp, bờ môi tím tái, nứt nẻ như ruộng đồng
mùa khô hạn, máu rỉ ra qua từng vết nứt. Cậu ấy tức ngực, khó thở, chẳng thiết
ăn uống, nếu gắng gượng nuốt được vài miếng thì ngay lập tức lại nôn sạch. Buổi
tối đau đầu buốt óc, cảđêm quằn quại không sao yên giấc. Thế nên, mới có mấy
ngày mà cậu ấy đã hốc hác, héo hon trông thấy. Bát Tư Ba muốn nghỉ lại vài ngày
để chữa bệnh cho Kháp Na và cậu ấy có thể tĩnh dưỡng, nhưng Kháp Na không muốn
vì mình mà lỡ dở kế hoạch, cậu ấy cắn răng chịu đựng, cố lê lết thân thểốm yếu
của mình trên từng chặng núi cao trùng điệp.

- Tiểu Lam? - Cậu ấy nhìn tôi từ trên xuống dưới bằng ánh mắt
yếu ớt, rất đỗi ngạc nhiên. - Em cải trang đó à? Đôi mắt và mái tóc màu xanh của
em đâu?

Tôi cúi xuống nhìn lại mình, kéo một lọn tóc vào lòng bàn
tay, tươi cười đắc ý:

- Cuối cùng tôi cũng đã luyện được phép thuật biến mái tóc
và đôi mắt màu xanh thành màu đen giống hai người! Rồi tôi vận đồ của người ở.
Trông cũng giống con trai đấy chứ?

Tôi lè lưỡi tinh nghịch với cậu ấy:

- Nhưng mà tài nghệ chưa cao nên chỉ giữđược một, hai canh
giờ. Tôi sẽ tu luyện thêm.

Kháp Na tròn xoe mắt, miệng kéo thành hình chữ O:

- Nhưng sao gương mặt của em cũng khác thế? Rõ ràng là em,
nhưng không giống một cô gái mà hệt như chú bé xinh xắn đến ngỡ ngàng.

Tôi phì cười, thu lại phép thuật, trở lại với dung mạo quen
thuộc:

- Trông tôi thế này, dù có vận đồ nam giới cũng chẳng thể giống
họ. Nhưng tôi đã quan sát hai người rất lâu mới tìm ra cách che đi những đặc
trưng của nữ giới đó.

Thấy tôi trở lại với hình hài cũ, Kháp Na thở phào. Tôi đỡ cậu
ấy ngồi dậy, tựa lưng vào gối. Cậu ấy mỉm cười dịu dàng, nhìn tôi:

- Lúc chỉ có ta và đại ca, em không cần phải cải trang.
Nhưng vận đồ nam giới, chỉnh trang dung mạo, hạ thấp âm điệu thì em có thể xuất
hiện công khai với thân phận của một người hầu được đó. Vậy cũng hay.

Tôi gật đầu vui vẻ, cuối cùng tôi cũng có thể xuất hiện bên
cạnh họ mà không cần phải lo lắng gì cả. Kháp Na hỏi tôi:

- Đại ca đâu rồi?

- Đang bàn chuyện với Senge trong lán. Bây giờ Lâu Cát rất
tín nhiệm Senge.

Tôi đưa bát thuốc nóng hổi cho Kháp Na:

- Đây là thuốc do Senge mang tới, có tên gọi Hồng Cảnh
Thiên. Cậu ta bảo, thuốc này trịđau đầu rất tốt. Cậu mau uống đi!

Kháp Na nhăn mặt, nhấp một ngụm rồi thở dài:

- Không ngờ ta lại yếu đến vậy, ta gây cản trở cho đại ca rồi!

- Không phải chỉ mình cậu đâu, rất nhiều người bịđau đầu,
khó thở, tim đập mạnh đó. Lâu Cát cũng chẳng khá hơn, chẳng qua chàng khỏe hơn
cậu chút xíu. Vả lại, chàng có quá nhiều việc phải xử lý nên chẳng có thời gian
bận tâm đến sức khỏe nữa.

Tôi giúp cậu ấy nằm xuống rồi ngồi bên giường, nhẹ nhàng xoa
bóp huyệt thái dương cho cậu ấy.

- Cậu xa quê nhiều năm, từ lâu đã không thích nghi được với
khí hậu vùng núi cao. Nơi đây khác hẳn Lương Châu, mà đường đi phía trước còn
nhiều chặng gian nan. Sức khỏe cậu thế này, tôi lo lắm.

Kháp Na khẽ rùng mình, ngẩng lên, ánh mắt chiếu thẳng vào
tôi. Ánh mắt mệt mỏi, vô hồn ban nãy bỗng lóe sáng, sóng mắt trong veo in bóng
gương mặt ngẩn ngơ của tôi. Lúc nào tôi cũng có cảm giác ánh mắt cậu ấy nhìn
tôi rất kỳ lạ, nhưng không sao lý giải nổi kỳ lạởđiểm gì. Chúng tôi cứ lặng lẽ
nhìn nhau như thế rồi cậu ấy nghiêng đầu sang bên, ho khan một chặp, khẽđẩy
cánh tay tôi đang vuốt lưng cậu ấy, giọng nói hờ hững:

- Ta không sao, mấy hôm nữa sẽ quen thôi. Em hãy dành nhiều
thời gian cho đại ca, chăm sóc huynh ấy đi!

Tôi ngán ngẩm ngồi xuống, ôm đầu vẻ bực bội:

- Hai anh em cậu làm sao thế? Sau khi rời khỏi Đại Đô, không
ai thèm để ý đến tôi. Hai người cứđùn đẩy tôi qua lại thế là thế nào?

Kháp Na giật mình, nhìn tôi dò hỏi:

- Đại ca bảo em đến chỗ ta ư?

Tôi ngồi xổm, đập tay vào đầu:

- Hai người cứ tiếp tục thế này, tôi sẽ bỏ về núi Côn Luân
ngay, từ nay không làm phiền hai người nữa!

- Đừng đi, Tiểu Lam! - Kháp Na hốt hoảng tung chăn, chân trần
nhảy xuống giường, ôm chầm lấy tôi, giọng nói cuống quýt, tha thiết. - Em bảo rằng
sẽ theo chúng ta suốt đời. Em đã hứa mãi mãi không rời xa ta kia mà!

Tôi cảm nhận được nỗi lo sợ khôn xiết trong giọng nói gấp
gáp của cậu ấy, thấy thương vô chừng. Tôi vùi đầu vào khuôn ngực của cậu ấy, âm
thầm sung sướng. Tôi đã giao hẹn với đại sư Ban Trí Đạt kia mà, chỉ cần họ còn
sống, tôi sẽđi theo họ, không bao giờ rời xa. Nhưng tôi vẫn giả bộđáng thương,
chớp chớp mắt, ngước nhìn Kháp Na:

- Cậu đừng xua đuổi tôi nữa! Tự tôi sẽ quyết định lúc nào ở
bên cậu, lúc nào ở bên Lâu Cát, được không?

Kháp Na gật đầu lia lịa, siết tôi chặt hơn nữa:

- Ta nào muốn xua đuổi em, chẳng qua là…

Cậu ấy buông lửng câu nói, ánh mắt đột nhiên đượm buồn,
không biết đang suy nghĩ chuyện gì rồi thở dài não nề. Tôi sợ cậu ấy để chân trần
lâu sẽ cảm lạnh, bèn giật giật tay áo, nhắc nhở cậu ấy nằm xuống giường. Lúc
này cậu ấy mới chợt nhớ ra mình đang ôm riết lấy tôi, lập tức buông tôi ra. Cậu
ấy nghiêng sang bên, ho dữ dội, gương mặt đỏ rần.

Đầu tháng Chín, sau gần một tháng trèo đèo vượt núi, muôn phần
vất vả, cực nhọc, cuối cùng thì những trảng cỏ rộng lớn mênh mông cũng xuất hiện
trước mắt chúng tôi. Hồ Zaling và hồ Eling nơi thượng nguồn sông Hoàng Hà mênh
mông, bát ngát càng tôn thêm vẻđẹp hùng vĩ, tráng lệ của đỉnh núi Anemaqen dưới
nền trời xanh ngắt. Những đám mây lơ thơ, bầu bạn với lớp tuyết trắng ngàn năm
tuổi trên đỉnh núi, chẳng thể phân biệt nổi đâu là mây, đâu là tuyết. Núi tuyết
sừng sững, hồ nước bát ngát, những đồng cỏ trải dài bất tận, những đàn dê, đàn
cừu nhẩn nha gặm cỏ, khung cảnh thơ mộng như tiên cảnh khiến những con dân của
vùng đồng bằng phải thốt lên kinh ngạc.

Chúng tôi đi giữa không gian thần tiên ấy chừng mười hai
ngày thì đến vùng Kapayu thuộc Dogans. Nơi đây chính là huyện Ngọc Thụ, tỉnh
Thanh Hải ngày nay, cũng là một trạm nghỉ trên đường đi Tây Tạng. Hệ thống trạm
nghỉ mà Bát Tư Ba xây dựng từ hai, ba năm trước nay đã đi vào hoạt động ổn định.
Chếđộ trạm nghỉ, với chức năng cung cấp lương thực, vật dụng cần thiết và nơi
ăn chốn ở cho lữ khách tốt hơn nhiều so với việc đi đến đâu phải dựng lều trại
đến đó. Bởi vậy, Bát Tư Ba đã hạ lệnh dừng lại nơi đây nghỉ ngơi dăm bữa đểđoàn
người được giải lao, hồi sức sau chặng đường mệt nhọc.

Trong thời gian đoàn chúng tôi dừng chân tại đây, một nhà
sưđã đến xin được đi theo Bát Tư Ba. Người đó tên gọi Dampa, hồi nhỏ từng tới
Sakya, theo đại sư Ban Trí Đạt học đạo. Trước khi đi Lương Châu, ngài Ban Trí Đạt
đã cử nhà sư trẻ này tới Thiên Trúc tu học. Học xong, Dampa trở về sinh sống tại
quê hương. Nghe nói Bát Tư Ba trên đường hồi hương có ghé qua Kapayu, Dampa liền
đến xin gặp mặt. Cậu ta vốn là tín đồ của giáo phái Sakya, lại tinh thông Phật
điển, kiến thức Phật pháp uyên thâm và chỉ hơn Bát Tư Ba bảy tuổi nên hai người
trò chuyện rất tâm đầu ý hợp. Bát Tư Ba quyết định giữ Dampa lại.

Dampa ngỏ ý mời Bát Tư Ba tổ chức pháp hội trong thời gian
đoàn chúng tôi lưu lại Kapayu. Tin tức này vừa truyền đi, người Tạng ở khắp nơi
lập tức thông báo cho nhau. Ngày tổ chức pháp hội, hơn một vạn tăng nhân, tín đồ
và thường dân nườm nượp đổ về nơi Bát Tư Ba đăng đàn thuyết pháp. Lúc này,
Kapayu chỉ là một thị trấn nhỏ trên vùng thảo nguyên bao la, dân số chỉ khoảng
một nghìn người. Phần lớn tăng ni, Phật tửđổ vềđây trong ngày pháp hội là người
từ những thôn làng, thị trấn ở vùng lân cận. Một số tín đồở những nơi xa xôi
hơn cũng vội vã lên đường, đi suốt ngày đêm không ngừng nghỉđể kịp dự pháp hội.

Để kỷ niệm sự kiện trọng đại này, về sau, địa danh Kapayu được
đổi thành “Chindu”, trong tiếng Tạng có nghĩa là “vạn người tụ hội”. Nơi đây
chính là khu tự trị Chindu của tộc người Tạng ở huyện Ngọc Thụ ngày nay.

Cuối tháng Chín, nhiệt độ tiếp tục giảm mạnh, những đợt tuyết
nhỏ bắt đầu lả tả rơi trên thảo nguyên vùng cao giá lạnh. Bát Tư Ba chào từ biệt
Chindu để lên đường đi La-ta. Lúc này, đoàn chúng tôi đã ở trên cao nguyên được
hơn hai tháng, khi cảđoàn còn chưa kịp thích nghi với hiện tượng sốc độ cao thì
một thử thách khác đã xuất hiện: băng giá.

Nhiệt độ càng ngày càng xuống thấp, thảo nguyên đìu hiu, cỏ
cây héo úa, lạc đà và ngựa chẳng kiếm nổi thức ăn. Cuối tháng Mười, thời tiết bắt
đầu bước vào kỳđại hàn. Thường mỗi sớm tinh mơ, khi thức giấc và mở cửa lán trại,
chúng tôi đã thấy lớp tuyết dày ngang bụng người tích tụbên ngoài. Tuyết dày phủ
kín đường, việc đi lại vô cùng khó khăn. Binh lính thường phải xúc tuyết, dọn
đường cho cảđoàn người ngựa. Ngày lại ngày di chuyển trong mù trời tuyết trắng,
trên cao nguyên mênh mông băng giá không có lấy một bóng người, cũng may trước
đó chúng tôi đã tích trữ lương thực, thuốc men đầy đủ. Nhưng ngày nào cũng phải
gặm thịt bò khô và những miếng bánh nướng rắn đanh, nguội ngơ nguội ngắt, quả
thực là bụng dạ rất khổ sở. Nước rất khó sôi, chúng tôi phải đun rất lâu mới có
được một nồi canh thịt bò nho nhỏ. Nồi canh quý hiếm ấy, Bát Tư Ba chẳng nỡăn,
chàng dành cả cho em trai đang đau ốm.

Hành trình gian nan, khắc nghiệt là thế, cộng với căn bệnh sốc
độ cao mãi không khỏi, không chống cự nổi, cuối cùng Kháp Na đổ bệnh. Bát Tư
Ba, lòng như lửa đốt, quyết định dừng lại nghỉ ngơi nhiều ngày tại trạm nghỉở
Xương Đô và cho người tìm thầy thuốc người Tạng khắp nơi, tìm mua cho Kháp Na
những thứ thuốc quý nhất. Chỉ cần có thể chữa khỏi bệnh cho em trai, chàng
không tiếc bất cứ thứ gì.

- Kháp Na, uống chút canh thịt bò nào!

Thời gian này, tôi thường xuyên hóa phép giấu đi màu mắt
xanh và tóc xanh, cải trang thành người hầu đi theo Kháp Na và Bát Tư Ba. Sức
khỏe của Kháp Na không tốt nên dọc đường đi, tôi luôn ở bên, chăm sóc cậu ấy.
Tôi đỡ Kháp Na ngồi dậy, tựa lưng vào gối, đút cho cậu từng thìa canh thịt bò
nhỏ. Nhìn gương mặt suy nhược vì đau ốm, hai má hóp lại và chiếc cằm lún phún
râu của cậu ấy, tôi không khỏi xót xa:

- Cậu gầy đi trông thấy!

Cậu ấy vừa ho khan vừa uống canh thịt bò hầm đông trùng hạ
thảo. Chừng nhưđắng miệng, cậu ấy ngậm một lúc mới gắng gượng nuốt vào bụng.
Tôi lựa lời động viên:

- Dù thế nào cũng phải cố gắng ăn thật nhiều, nếu không, cậu
không đủ sức để chống chọi với bệnh tật đâu.

Loài người thật yếu ớt, chả trách tuổi thọ của họ lại ngắn
như vậy!

Sau rất nhiều nỗ lực, cuối cùng cậu ấy cũng uống hết bát
canh, sắc mặt hồng hào lên đôi chút. Cậu ấy lấy hơi, nhìn tôi, hỏi:

- Có phải đại ca đã ra lệnh cho cảđoàn dừng lại không?

Tôi gật đầu:

- Chàng sai Senge đi tìm thêm Hồng Cảnh Thiên.

Kháp Na lắc đầu, xoay người, muốn rời khỏi giường:

- Chúng ta đã tới Xương Đô, chỉ còn khoảng một tháng nữa là
tới La-ta. Đại ca vẫn muốn đến La-ta vào dịp năm mới của người Tạng, ta không
thể cản trở kế hoạch của huynh ấy.

Tôi vội kéo cậu ấy lại:

- Cậu làm gì thế?

Chỉ mới cửđộng đôi chút mà cậu ấy đã thở không ra hơi, nhưng
vẫn cố chấp đòi ra ngoài:

- Nói với đại ca tiếp tục lên đường, đừng vì ta mà kéo dài
thời gian.

Tôi vừa bực mình vừa lo lắng, giữ cậu ấy lại:

- Cậu cứ như vậy thì hồi phục sao được?

Cậu ấy quay lại nhìn tôi, đôi đồng tửđen sẫm thấm đẫm nỗi bi
ai:

- Tiểu Lam à, ta vốn chẳng giỏi giang, tài cán gì, ta chỉ muốn
nhân chuyến đi này, dốc sức trợ giúp đại ca. Nếu cơ thể tàn tạ này của ta trở
thành vật cản huynh ấy, ta thà bỏ nó đi còn hơn!

Tôi thở dài, níu lấy tay áo cậu ấy:

- Cậu ngang ngạnh quá đấy! Đành vậy! Cậu ngồi xuống đây, tôi
có cách giúp cậu bình phục.

Cậu ấy nhìn tôi ngơ ngác, vẻ nửa tin nửa ngờ. Tôi đỡ lấy
gương mặt Kháp Na, khẽ cắn môi, rồi chầm chậm áp môi mình lên bờ môi tím tái của
cậu ấy. Khi môi chúng tôi chạm nhau, cậu ấy khẽ rùng mình, hai mắt mở to như
chiếc chuông gió, ngỡ ngàng, sững sờ, bất động trong thoáng chốc rồi lập tức đẩy
tôi ra. Tuy không mạnh nhưng hẳn là cậu ấy phải gạn hết sức tàn của người đang
bị bệnh.

Cậu ấy thở gấp, giọng run rẩy:

- Tiểu Lam, em… em… em làm gì vậy?

- Truyền linh khí của tôi cho cậu thôi mà! Cậu biết đấy,
loài yêu rất hiếm khi chịu truyền linh khí cho người khác, vì việc đó khiến cho
phép thuật của chúng tôi bị tổn hại. Nhưng tôi sẵn lòng làm việc đó vì cậu. -
Tôi phụng phịu vì cảm thấy oan ức. - Cậu muốn lên đường ngay kia mà! Nếu với
tình trạng này, chưa đến La-ta, cậu đã mất mạng rồi!

Cậu ấy sững sờ, lúng túng cúi đầu, không dám nhìn tôi:

- Nhưng… nhưng mà… chẳng lẽ không có cách nào khác sao?

Những yêu tinh phép thuật cao siêu thì chỉ cần đặt ngón tay
lên trán người khác là có thể truyền được linh khí, nhưng tôi chưa tu luyện được
tới trình độđó, phải dùng cách trực tiếp và đơn giản nhất.

Ngó thấy cậu ấy vẫn cúi gằm, chẳng chịu ngẩng lên, chiếc cổ
dài đỏ au một cách khó hiểu, tôi bực bội trách:

- Cậu ngại ngùng gì chứ! Tôi là yêu tinh, không giống loài
người các cậu, tôi không quá coi trọng chuyện đó đâu. Nếu cậu không chịu thì cứởđó
mà chờ cho đến khi nào hết bệnh. Tôi tin rằng Lâu Cát cũng sẽ quyết định như vậy!

Cậu ấy vẫn do dự:

- Nhưng làm vậy có gây tổn hại cho em không?

Tôi mỉm cười:

- Đừng lo, chỉ truyền cho cậu chút ít linh khí thôi mà, tu
luyện một thời gian là có thể lấy lại được.

Tôi đã nói dối. Linh khí tiêu hao phải mất rất nhiều thời
gian khổ công tu luyện mới bù đắp được. Đây chính là nguyên nhân vì sao loài
yêu thường không bao giờ chịu truyền linh khí cho người khác.

Cậu ấy cúi đầu, cắn môi, quệt tay vào y phục, mãi sau mới chịu
ngẩng lên nhìn tôi, ánh mắt trong veo, long lanh. Cậu ấy hít thở thật sâu, chừng
như phải quyết tâm ghê lắm, rồi chầm chậm ngẩng đầu, từ từ khép mắt lại. Tôi nhẹ
nhàng bước đến, hai tay giữ lấy gương mặt cậu, nhẹ nhàng chạm vào làn môi cậu.

Tôi vừa truyền linh khí vừa sinh lòng tà tâm. Hơi thở gấp
gáp của cậu ấy phả vào má tôi, cảm giác gai gai. Hàng mi dài trên cặp mắt khép
chặt khẽ rung động. Bờ môi tím ngắt dần hồng hào trở lại, không biết vì được
truyền linh khí hay còn bởi nguyên nhân nào khác. Ngắm nhìn gương mặt tuấn tú,
đáng yêu ấy, không biết vì sao trái tim tôi đột nhiên loạn nhịp.

Tôi vội rời khỏi bờ môi cậu ấy, đằng hắng một tiếng, thông
báo:

- Xong rồi!

Cậu ấy mở mắt, sắc diện ốm yếu hoàn toàn tan biến. Kể từ lúc
khởi hành, cậu ấy cứđau yếu mãi, dung mạo tuấn kiệt bị những trận ốm giày vò,
trở nên nhàu nhĩ, ảm đạm. Nhưng giờđây, vẻ hồng hào đã trở lại trên gương mặt cậu
ấy, ánh mắt sống động, long lanh, rạng rỡ. Tôi mừng thầm, linh khí của tôi quả
nhiên rất công hiệu. Đây mới là dung mạo thực sự của Kháp Na chứ!

Hai tay Kháp Na túm chặt mảnh chăn, chừng như muốn kéo cho
rách, khuôn ngực phập phồng, cúi đầu lí nhí: - Tiểu Lam, đừng nói với đại ca rằng
em… rằng em… Tôi vội ngắt lời cậu ấy, ngước mặt nhìn trần nhà:

- Tôi biết rồi, yên tâm, tôi sẽ không nói.

Kể từ hôm đó, không hiểu sao, mỗi khi nhìn thấy Kháp Na là
tôi lại nhớđến cảm giác tim đập thình thịch khi áp môi vào môi cậu ấy. Đây đâu
phải lần đầu tiên tôi và cậu ấy làm chuyện đó, nhưng vì sao cảm giác của lần
này lại mãnh liệt như vậy? Tôi bực dọc cốc đầu mình, tự trừng phạt. Tiểu Lam à,
cô càng ngày càng giống con người rồi đó, sao cứ mãi bận tâm về chuyện môi chạm
môi ấy chứ?

*

Tôi đưa mắt về phía lò than đang cháy lép bép, suy nghĩ vẩn
vơ, lát sau mới cất tiếng:

- Về Sakya lần này, Bát Tư Ba đã thu nạp Senge làm người hầu
cận và thu nhận Dampa làm đệ tử. Khi ấy, chúng tôi đều không biết rằng, ngày
sau họ sẽ trở thành hai nhân vật quyền lực trong triều đình nhà Nguyên… Bát Tư
Ba cử Senge đến Trung Đô. Chàng trai trẻ tuổi, thông minh, mẫn cán này rất được
lòng Hốt Tất Liệt. Nhà vua đã giữ cậu ta ở lại và phong tước. Cậu ta nhanh
chóng nhận ra vấn đề khiến Hốt Tất Liệt đau đầu nhất kể từ khi dời đô về Trung
Nguyên đến nay là nhu cầu về quốc khố quá lớn nên thường hiến kế thu gom tiền bạc
giúp Nhà vua. Hốt Tất Liệt vì vậy đặc biệt trọng dụng cậu ta, phong Senge làm
thượng thư hữu thừa tướng. Về sau, Senge trở thành bậc trọng thần, nắm giữquyền
lực rất lớn trong triều đình nhà Nguyên, là người Tạng duy nhất trong lịch sử
Trung Quốc làm quan đến chức tể tướng ở Trung Nguyên. Chàng trai trẻ vừa lắng
nghe vừa gật đầu:

- Tôi không thuộc lắm lịch sử triều Nguyên, chỉ biết có tên
nịnh thần Ahama, mà không biết còn có một tể tướng người Tạng nổi tiếng như vậy.

- Số phận của Senge cũng giống như Ahama, đều bị liệt vào những
câu chuyện kể về gian thần, sau cùng đều bị Hốt Tất Liệt chém đầu cả nhà. Nhưng
thực ra, nếu xét một cách khách quan, cả Senge và Ahama đều chỉ là công cụ vơ
vét tài sản của Hốt Tất Liệt. Vì Hốt Tất Liệt cần tiền nên cả Senge và Ahama đều
trổ tài giúp ông ta kiếm thật nhiều tiền. Nhưng hành vi đục khoét, vơ vét của cải
của họ khiến rất nhiều người bất mãn. Để yên lòng dân, Hốt Tất Liệt đã đẩy họ
ra làm vật thế thân cho mình.

- Vậy Senge có phải là gian thần như sử sách đã chép?

Tôi thở dài:

- Senge quá thông minh, mẫn cán, lại giỏi chính sự. Thực chất
thì cậu ta không xấu, chí ít cậu ta chính trực hơn Ahama rất nhiều, nếu không,
sao có thể gây dựng được lòng tín nhiệm nơi Bát Tư Ba đến thế? Sau khi được
phong làm tể tướng, cậu ta đã làm tròn bổn phận, cúc cung tận tụy, chỉnh đốn vấn
đề tài chính. Cậu ta tra xét ra Trung thư tỉnh làm thâm hụt một khoản tiền khổng
lồ trong quốc khố, dâng sớđòi bãi miễn chức vụ của những người đứng đầu Trung
thư tỉnh.

Chàng trai trẻ lắc đầu:

- Chắc chắn có rất nhiều người phản đối.

Tôi thở dài:

- Bởi vậy, chàng trai trẻ người Tạng được Bát Tư Ba rất mực
yêu mến, tiến cử với Hốt Tất Liệt, người mà ngày sau đã trải qua một giai đoạn
huy hoàng, quyền thế nghiêng ngả triều chính này phải chịu một kết cục vô cùng
bi thảm.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3