Đức Phật và Nàng - Hoa sen xanh (Tập 1) - Chương 33
Chương 33
Đại lễ Sitatapatra
“Khi những kẻ ngu đần
bất hòa, xung đột,
Chỉ bậc học giả mới có
thể phân giải;
Khi nước sông ngầu đục,
Chỉ dụng cụ lọc mới
giúp nước trong lại.”
(Cách ngôn Sakya)
Năm 1264, tức năm Giáp Tý, Âm Mộc theo lịch Tạng, tức niên
hiệu Cảnh Định thứ năm, nhà Nam Tống, tức niên hiệu Chí Nguyên thứ năm, triều
Nguyên.
Bát Tư Ba ba mươi tuổi, Kháp Na hai mươi sáu tuổi.
- Kháp Na! - Tôi len lén thò đầu ra khỏi tấm bình phong, thấy
chỉ có mình cậu ấy bước vào phòng, mới hoan hỉ gọi.
Chỉ vài tháng không gặp, Kháp Na nhìn tiều tụy, gầy đi nhiều.
Cậu ấy ngẩng lên, thấy tôi đang lè lưỡi phía sau tấm bình phong, nụ cười rạng rỡ
trên môi, lúm đồng tiền tinh nghịch lấp ló.
- Tiểu Lam, em đấy à? - Cậu ấy vội khép cửa lại, hăm hở lại
gần. - Sao em lại hóa thành người thế?
Tôi quấn ngón tay vào sợi dây buộc tóc thả lủng lẳng dưới
vành tai, ngượng ngùng đáp:
- Càng ngày tôi càng thích được mang hình dáng con người.
Một năm qua, đêm nào tôi cũng hóa thành người, xuất hiện trước
mặt Bát Tư Ba. Theo thời gian, tôi đã quen dần với cách nghĩ và lời nói, cử chỉ
của con người, cảm thấy đời sống mới này rất thú vị. Chả trách biết bao yêu
tinh khổ công tu luyện không phải vì muốn trẻ mãi không già, mà là để có được
dung mạo của con người, gia nhập xã hội loài người.
Cậu ấy gật đầu khích lệ:
- Phép thuật của em ngày càng tiến bộ, không mệt mỏi thiếp
đi như trước đây nữa.
Trong khoảng thời gian anh em họ ở hai nơi cách biệt, mỗi lần
đưa tin, tôi đều thiếp đi vài ngày liền mới phục hồi linh khí. Nhưng đến hôm
nay, phép thuật của tôi đã tiến bộ vượt mức, tôi không cần ngủ để bổ sung linh
khí nữa. Điều này khiến tôi rất đỗi vui mừng.
Kháp Na nhìn tôi đăm đắm, nụ cười tỏa rạng như nắng xuân ấm
áp:
- Đại ca muốn em đưa tin gì cho ta vậy?
Tôi rời tay khỏi sợi dây buộc tóc, nghiêm nghị nói:
- Lâu Cát muốn cậu về Yên Kinh ngay.
- Ta nói rồi, ta chỉ về nếu… - Rồi cậu ấy chợt biến sắc mặt,
dồn ánh mắt về phía tôi, rảo bước lại gần, nắm lấy tay tôi. - Tiểu Lam, hai người…
thành rồi ư?
Bàn tay cậu ấy đang run lên, lòng bàn tay lạnh toát. Tôi úp
hai tay mình lên, sưởi ấm cho cậu ấy. Cậu ấy cúi xuống đuổi theo ánh mắt đang cố
chạy trốn của tôi, xoay mặt tôi đối diện với cậu ấy.
- Hai má em đang đỏ lên kìa. Tiểu Lam, hãy cho ta biết sự thật,
có phải hai người đã…
Làm người thật phiền phức, mọi biểu cảm đều lộ trên gương mặt,
chẳng thể giấu giếm, tôi vội thanh minh:
- Đâu có. Cậu ấy… cậu ấy… - Tôi cứ ấp a ấp úng, càng nhìn vẻ
nghiêm túc trong mắt cậu ấy, tôi càng bối rối, bèn cúi đầu, lí nhí. - Cậu ấy sắp
chạm được vào tôi rồi.
Chúng tôi rất hợp nhau. Hằng ngày, buổi tối, việc đầu tiên
sau khi về phòng của chàng là tìm kiếm tôi rồi cùng tôi ăn tối. Sau đó, chàng sẽ
vừa viết lách vừa trò chuyện dông dài với tôi. Chúng tôi không khi nào hết chuyện
để nói, và chàng không còn căng thẳng khi đối diện với dung mạo mới của tôi như
trước nữa, giờ đây, nụ cười đã có thể nở rạng như đài sen trên môi.
Vào một tối nọ, cách đây mấy hôm, khi bầu không khí giữa
chúng tôi đang diễn ra rất đỗi mỹ mãn thì khung cảnh ngọt ngào của ngày hôm trước
lặp lại. Mặt chàng đỏ rần, hơi thở gấp gáp, chàng đột ngột cúi đầu, áp sát
gương mặt tôi. Tôi có thể đoán định, chàng muốn hôn tôi (như năm xưa Kháp Na từng
làm). Rút kinh nghiệm từ lần trước, tôi không tỏ ra khờ khạo nữa, tôi chờ đợi.
Nhưng khi môi chàng sắp chạm vào môi tôi thì chàng đột nhiên kìm lại.
Kết cục ấy không biết là do sức kiềm chế của chàng thật đáng
nể hay vì tôi quá ảo tưởng.
Ánh mắt da diết của Kháp Na vân du trên gương mặt tôi, những
ngón tay dìu dặt, la đà trên má tôi:
- Nhưng huynh ấy vẫn chưa thực sự chạm vào em?
Tôi khép mi, khe khẽ đáp lại, xác nhận sự thật.
Cậu ấy siết chặt tay tôi rồi đột ngột buông lơi, giọng nói
thấm vẻ chua chát:
- Hai người chưa thành đôi thì ta sẽ không về.
- Kháp Na, cậu không thể không về. - Tôi hốt hoảng nắm lấy
cánh tay cậu ấy. - Hốt Tất Liệt đã lệnh cho Lâu Cát phải trở về Sakya, mồng Một
tháng Năm sẽ xuất phát.
Kháp Na ngỡ ngàng:
- Về Sakya?
Tôi gật đầu:
- Đúng vậy, trở về quê nhà, nơi mà hai người đã cách biệt
hai mươi năm.
Cậu ấy sững sờ, chừng như không phản ứng kịp, thận trọng nhắc
lại từng tiếng một:
- Quê nhà…
Lưu vực sông Ili, nơi đóng quân của A Lý Bất Ca bị hạn hán
nghiêm trọng. A Lý Bất Ca ra tay tàn sát, cướp bóc khiến quân và dân đều căm phẫn.
Ông ta cùng đường, bị bức phải đầu hàng Hốt Tất Liệt. Đầu năm 1264, A Lý Bất Ca
đến Yên Kinh, chưa đầy một tháng sau thì “qua đời vì ốm nặng”, cuộc nội chiến
kéo dài suốt bốn năm của anh em họ đến đây là kết thúc.
Trong suốt bốn năm, từ năm 1260 đến năm 1263, Hốt Tất Liệt vừa
phải lo đối phó với A Lý Bất Ca, mất nửa năm dẹp loạn Lý Thản, vừa phải ra sức
xây dựng và củng cố vững chắc vương triều mới. Đây chính là sách lược sáng suốt
của Hốt Tất Liệt. A Lý Bất Ca chỉ biết mặc sức phá hoại, vùng đất thuộc quyền
cai trị của ông ta đã bị vắt kiệt nên ông ta mới bị đẩy vào đường cùng. Hốt Tất
Liệt thì khác, ông dốc sức dựng xây, kiến lập bộ máy thống trị hoàn chỉnh cho
vương triều của mình.
Vương triều mới của Hốt Tất Liệt, sau khi dẹp bỏ được mối
nguy bên ngoài đã phát triển thịnh vượng. Sau bao suy tính cẩn trọng, Hốt Tất
Liệt đưa ra những quyết định quan trọng: đổi tên thành Yên Kinh thành kinh đô
Trung Đô, đổi niên hiệu Trung Thống thành niên hiệu Chí Nguyên. Ông đã thiết lập
hàng loạt cơ cấu hành chính. Bước đầu tiên là lập ra khu Mật viện để thống lĩnh
việc quân sự và chính trị của cả nước. Phong Hoàng tử Chân Kim làm Kiêm phán
khu Mật viện, thống nhất việc điều phối thân quân thị vệ và quan lại vạn hộ người
Mông Cổ và quân đội người Hán ở các địa phương. Hệ thống chỉ huy của khu Mật viện
sẽ giúp cho quyền kiểm soát quân đội được nằm gọn và nắm trong tay chính quyền trung
ương.
Bước thứ hai là hủy bỏ chế độ phong đất trước đây của người
Mông Cổ, các vùng đất sẽ được chia thành các tỉnh, các lộ và được quản lý thống
nhất bởi chính quyền trung ương. Đất Tạng nằm trong số các lộ, các tỉnh đó.
Nhưng suốt mấy trăm năm qua, vùng Wusi bị chia năm xẻ bảy, các tông phái Phật
giáo đã hình thành phạm vi thế lực với sự hợp nhất giữa chính trị và tôn giáo của
riêng giáo phái mình. Nếu ra sức đẩy mạnh việc áp dụng chính sách cai trị của
chính quyền trung ương tại nơi đây, e rằng sẽ vấp phải sự ngăn trở kịch liệt.
Nếu muốn thiết lập hệ thống hành chính hoàn toàn mới trên đất
Tạng, nhằm phục vụ mục đích thống trị vùng đất này của vương triều mới, Hốt Tất
Liệt buộc phải tìm ra một người có thể nắm bắt toàn bộ cục diện Tây Tạng và có
mối quan hệ khăng khít với lãnh tụ của các giáo phái lớn. Trọng trách này,
ngoài Bát Tư Ba ra, không ai đảm đương nổi.
Sau khi suy xét thấu đáo, Hốt Tất Liệt đã hạ chỉ cho hai anh
em Bát Tư Ba cùng trở về Sakya.
Giải thích tường tận ngọn ngành, tôi quay sang và thấy Kháp
Na vẫn trầm lặng. Vẻ mặt cậu ấy không biểu lộ chút vui mừng hay xúc động như
Bát Tư Ba khi vừa nghe Hốt Tất Liệt hạ chỉ, trái lại, tôi thấy cậu ấy buồn xo:
- Suốt hai mươi năm sống trên đất Hán, khi ai đó hỏi, ta đều
dõng dạc trả lời, ta là người Tạng, là truyền nhân của phái Sakya. Nhưng Sakya
rốt cuộc là nơi thế nào, ta thật sự không còn nhớ nữa.
Sáu tuổi đã phải rời quê hương nên cậu ấy không còn nhiều ấn
tượng về nơi ấy cũng là điều dễ hiểu. Bát Tư Ba thì khác, chàng hơn Kháp Na bốn
tuổi, chàng có không ít kỷ niệm tuổi thơ ở quê nhà. Sau khi đại sư Ban Trí Đạt
viên tịch, lẽ ra Bát Tư Ba đã phải trở về Sakya theo di mệnh của người bác,
nhưng trên đường đi chàng đã gặp và lựa chọn con đường đi theo Hốt Tất Liệt vì
tương lai của giáo phái. Chàng là thủ lĩnh của giáo phái nhưng lại xa cố hương
những hai mươi năm, điều đó thật khó chấp nhận. Bởi vậy, những năm qua, Bát Tư
Ba luôn đau đáu tâm nguyện trở về quê hương. Mệnh lệnh của Hốt Tất Liệt đã giúp
chàng toại nguyện.
Ánh mắt của Kháp Na trôi miên man ngoài cửa sổ. Trời ngả về
chiều, tơ liễu phất phơ trong gió, hoa đào khoe sắc rực rỡ trong vườn. Gió nhẹ
thổi đầu cành, những cánh hoa đào đan cài vào tơ liễu lơ lửng trên không trung,
dưới nắng chiều vàng ruộm, những trận mưa hoa lả tả khắp không gian, đẹp mê
tơi.
- Ta không thương quê nhớ xứ như đại ca, cũng chưa từng nghĩ
rằng, một ngày nào đó nhất định phải trở về. Nhưng vì đây là mệnh lệnh của Đại
hãn, ta buộc phải tuân thủ. Vả lại, mục đích của chuyến đi này không chỉ là việc
đại ca trở về để chỉnh đốn lại giáo phái mà quan trọng hơn là, vâng mệnh Đại
hãn, tái thiết đất Tạng. Và nếu vậy, đại ca sẽ phải xử trí rất nhiều công việc,
phải thiết lập rất nhiều mối quan hệ, một mình huynh ấy chẳng thể cáng đáng nổi,
ta phải giúp anh mình.
Cậu ấy thở dài thườn thượt, quay lại nhìn tôi, ánh mắt lấp
lánh:
- Thôi được rồi, chúng ta cùng về Yên Kinh.
Tôi gật đầu, mỉm cười tinh nghịch:
- Không đúng, không được gọi là Yên Kinh, bây giờ phải gọi
là Trung Đô.
Hôm sau, Kháp Na thu dọn hành lý, cùng một số hầu cận thân
thiết rời khỏi phủ Phò mã ở Lương Châu.
Không ai ở Lương Châu không biết Mukaton là cô công chúa
hung hăng, bạo ngược, cánh đàn ông cũng thấy ái ngại thay cho Kháp Na. Sau khi
Mukaton qua đời, các đám mai mối chen chân vào cổng phủ Phò mã. Nhưng những người
đến cầu thân không ai có thể bước chân vào phủ Phò mã lần thứ hai. Kháp Na để
tang vợ hơn một năm trời, người chồng nghĩa nặng tình sâu ấy đã khiến người dân
Lương Châu cảm động. Các cô gái Lương Châu không ai bảo ai, đều lấy Kháp Na làm
thước đo tiêu chuẩn. Những người đã lập gia đình đều muốn chồng mình chịu khó học
tập cậu ấy. Những cô gái chưa chồng thì khát khao được bước chân vào phủ Phò
mã, dẫu chỉ để rót nước pha trà hầu hạ cậu ấy cũng bằng lòng.
Vậy nên, vào ngày Kháp Na lên đường, ngoài Thiếp Mộc Nhi,
còn có rất đông bà con Lương Châu đến tiễn. Các cô gái tung hoa tươi và khăn lụa
lên xe ngựa nhiều vô kể. Kháp Na cảm động, vẫy tay từ biệt mọi người. Xe ngựa
lăn bánh, tiến thẳng hướng cửa thành phía đông. Năm lên tám, Kháp Na lần đầu đặt
chân đến Lương Châu. Chỉ vỏn vẹn hai năm ở Yên Kinh, còn lại phần lớn thời gian
cậu ấy sống ở kinh thành quan trọng bậc nhất phía tây bắc này, vậy mà đã mười
sáu năm trôi qua. Đối với Kháp Na, Lương Châu gắn bó và thân thiết với cậu ấy
hơn cả quê hương.
Kháp Na không hề biết rằng, sau chuyến đi này, cậu ấy không
còn cơ hội trở về Lương Châu nữa.
Suốt mấy tháng lênh đênh trên chặng đường về Trung Đô, chúng
tôi đã trải qua mùa mưa giăng giăng, lầy lội, bởi vậy, thay vì lộ trình hai
tháng bình thường, chúng tôi đã phải đi gần ba tháng mới đến nơi. Bình minh
ngày Mười lăm tháng Tư, trời mới chịu hửng nắng nhưng chúng tôi vẫn còn cả một
ngày đường nữa. Dù thúc ngựa chạy nhanh hết cỡ, cũng phải đến chiều tối hôm sau
mới có thể tới nơi. Tôi đứng ngồi không yên, đành đề nghị Kháp Na để tôi về
Trung Đô trước.
Bởi vì ngày Mười lăm tháng Tư là lần đầu tiên Bát Tư Ba chủ
trì đại lễ Sitatapatra tại kinh thành Trung Đô của Hốt Tất Liệt.
Kinh Đại Nhật chép rằng: Trên đỉnh đầu của Phật Thích
Ca Mâu Ni xuất hiện hình luân vương - là pháp tướng tôn quý nhất của Như Lai, lấy
pháp thanh tịnh, đại từ đại bi mà ban phước lành cho cả thế giới.Người Mông Cổ
vốn sùng bái màu trắng, vậy nên ngày Mười lăm tháng Tư năm ngoái, Bát Tư Ba đã
làm lễ dựng một chiếc lọng màu trắng che trên ngai vua tại điện Đại Minh. Chiếc
lọng trắng được thêu kinh văn bằng gấm và bột vàng, xem đó như một dạng bùa trừ
tà và cầu an cho quốc gia, bảo vệ Hốt Tất Liệt.
Ngày Mười lăm tháng Tư năm nay là tròn một năm kỷ niệm sự kiện
lọng trắng che ngai vàng trên điện Đại Minh, Bát Tư Ba đã dâng tấu xin được tổ
chức đại lễ kỷ niệm sự kiện trọng đại này. Hốt Tất Liệt lập tức phê chuẩn và hết
lòng ủng hộ. Trước khi tôi lên đường đi Lương Châu, Hốt Tất Liệt đã lệnh cho
tuyên chính viện dốc toàn lực tổ chức buổi lễ này.
Vì muốn lấy lòng Đại hãn, tuyên chính viện bỏ ra rất nhiều
tiền bạc để sắm sửa áo giáp sắt, khiên đao, binh khí, đồng thời phân công nhiệm
vụ cho Ti giáo phường nhạc lập đội nhạc khoảng hơn ba trăm người, đội tạp kỹ một
trăm năm mươi người, đội trống một trăm hai mươi người, tất cả các ngôi đền ở
Trung Đô sẽ chuẩn bị tượng Phật, cờ xí, ô lọng,… Họ còn điều động trong đội Cận
vệ đóng tại kinh thành chừng năm trăm người để lập đội nghi thức và điều động
năm trăm người làm công tác phục vụ. Lễ hội lần này còn long trọng, hoành tráng
và quy mô hơn cả lễ hội hoa đăng trong dịp rằm Nguyên tiêu của người Hán.
Sao tôi có thể bỏ lỡ cơ hội được tận mắt chiêm ngưỡng phong
thái của Bát Tư Ba trong buổi lễ trọng đại do chính chàng đề xướng và chủ trì
kia chứ? Sau khi từ biệt Kháp Na, tôi biến phép để có thể về Trung Đô nhanh nhất.
Nhưng khi tôi đến nơi, lễ hội đã diễn ra.
Sáng sớm hôm đó, Bát Tư Ba cùng các đệ tử ngồi tọa thiền tụng
kinh trước ngai vàng trên điện Đại Minh, sau đó cung thỉnh tòa lọng trắng đã
treo suốt một năm qua xuống, đặt vào chiếc kiệu trang trí nguy nga, tráng lệ đã
được chuẩn bị từ trước. Hốt Tất Liệt cùng Khabi và toàn thể phi tần, công chúa
ngự trên một lầu cao được dựng bên ngoài điện Ngọc Đức để chiêm ngưỡng lễ hội.
Lúc này, đội nghi thức gồm năm trăm binh lính đã xếp hàng chỉnh tề ngoài điện Đại
Minh để hộ tống Bát Tư Ba và các đệ tử lên kiệu xuất cung, chầm chậm tiến qua cửa
Sùng Thiên.
Lúc tôi vừa đến nơi, đội nghi thức đã lần lượt diễu qua cửa
Sùng Thiên, vậy là tôi đã bỏ lỡ những nghi thức đặc sắc diễn ra trong điện Đại
Minh.
Hình dáng nhỏ bé của tiểu hồ ly không thể giúp tôi quan sát
mọi thứ giữa đám đông chen chúc, tôi phải hóa thành người, mặc áo choàng, đội
mũ rộng che kín mái tóc và đôi mắt màu lam của mình, kiễng chân nghó nghiêng tứ
phía.
Đội kỵ binh áo giáp sáng loáng, oai phong, lẫm liệt hộ tống
cỗ xe ngựa xếp lọng trắng bên trong. Cỗ xe được kéo bởi bốn con ngựa trắng thuần
chủng, trên mình không một vết chàm. Bát Tư Ba cùng các đệ tử xếp thành hàng đi
bên cạnh. Chàng vận áo cà sa dát kim tuyến lấp lánh, đầu đội mũ ngũ sắc, mọi động
tác, cử chỉ, thần thái đều rất mực tao nhã, thanh thoát. Vẻ mặt an nhiên, pháp
tướng trang nghiêm, đôi mắt sáng, thông tuệ dạo khắp chúng sinh.
Chàng giống như bậc tiên nhân, phong thái bất phàm khiến cho
nam giới của nhân gian khi được chiêm ngưỡng dung mạo của chàng đều cảm thấy hổ
thẹn. Những con mắt mang hình trái tim của các thiếu nữ trong đám đông đổ dồn về
phía chàng, ai nấy đều hết lời tán tụng.
Tiếp theo đội nghi thức là đội trống, đội tạp kỹ và đội ca
vũ, nối tiếp nhau kéo dài chừng hơn hai mươi dặm. Các nghệ sĩ ăn vận lộng lẫy,
bắt mắt, trang sức cầu kỳ, tinh xảo. Họ vừa di chuyển vừa biểu diễn, không khí
sôi nổi, những màn biểu diễn đặc sắc khiến cho đám đông hò reo cổ vũ không ngơi
nghỉ. Dân chúng thành Yên Kinh dường như đều đổ ra đường, ai nấy đều vui mừng,
hoan hỉ, tiếng cười đùa, tiếng hò reo của họ xen lẫn tiếng trống, tiếng nhạc và
những điệu múa, những màn biểu diễn độc đáo, không khí sôi động khiến cả kinh
thành như muốn vỡ tung.
Nhưng tôi chẳng để tâm đến những màn biểu diễn đó, chỉ biết
len lỏi giữa đám đông hỗn loạn, bám theo đội nghi thức, đến chùa Khánh Thọ ở cổng
thành phía tây vào buổi trưa.
Hôm nay, tất cả văn võ bá quan trong triều đều mang trên
mình trách nhiệm nặng nề. Lễ bộ phụ trách đội tạp kỹ và ca vũ. Hình bộ phụ
trách đội tuần tra, đảm bảo an ninh cho lễ hội. Trung thư tỉnh được phân công
đóng chốt tại khu vực cổng thành hướng ra các phố lớn. Khu Mật viện phụ trách
công tác tiếp đón khi đoàn rước đến chùa Khánh Thọ.
Viên quan đứng đầu Khu mật viện - Hoàng tử Chân Kim - đích
thân đứng chờ ngoài cổng chùa để đón đoàn. Cậu ấy vận bộ triều phục quý phái,
sang trọng, gương mặt cương nghị, thân hình cao lớn, vạm vỡ, từ con người đó
toát ra khí khái của bậc anh hào. Năm ngoái mới lên chức cha, năm nay Chân Kim
sẽ có thêm một nhóc tì nữa vì cô vợ Khoát Khoát Chân của cậu ta lại sắp sinh.
Người ta cung kính rước kiệu vào chùa. Đội nghi thức cùng
các nhà sư dùng cơm chay trong chùa. Sau bữa trưa, chiếc kiệu sẽ được rước từ bờ
phía nam hồ nước bên ngoài cổng thành phía tây qua cửa Hậu Tải, rồi từ cửa Đông
Hoa qua cửa Diên Môn, tiến về phía tây. Sau đó, đoàn rước sẽ kết thúc tại điện
Đại Minh trong cung, tại đây, Bát Tư Ba sẽ cung kính đặt lọng trắng về vị trí
cũ trên ngai vàng.
Sau khi Bát Tư Ba dùng bữa xong, Chân Kim hộ tống chàng rời
khỏi chùa Khánh Thọ. Đám đông chen chúc ngoài cổng chùa bỗng trở nên náo động
khi Bát Tư Ba xuất hiện. Ai nấy đều nghển cổ chiêm ngưỡng dung mạo của quốc sư
rồi hò reo inh ỏi:
- Quốc sư của chúng ta kìa. Thật vinh hạnh khi được thấy
ngài!
Đội nghi thức muốn tiến lên dẹp đám đông sang bên để dọn đường
cho đoàn rước nhưng Bát Tư Ba đã ngăn họ lại. Chàng đứng trên đài cao ngoài cổng
chùa, mỉm cười trang trọng, thân thiện vẫy tay chào.
Lâu nay, chàng vẫn là nhà sư được Hốt Tất Liệt trọng dụng,
công việc thường ngày của chàng là truyền giảng pháp chỉ cho hoàng thân quốc
thích của nhà vua ở trong cung nên thường dân Yên Kinh rất khó có cơ hội tiếp
xúc với chàng. Nhưng tôi hiểu, chàng không hề muốn như vậy. Tâm nguyện của
chàng là được truyền giảng đạo Phật cho mọi chúng sinh. Có điều, đã là người của
cung đình thì khó lòng được tự do tự tại.
Vì vậy, hôm nay là một cơ hội hiếm hoi, tôi phải giúp chàng
tạo ấn tượng tốt trong lòng dân chúng mới được!
Thế là, khi đám đông đang chen vai chen chân ngước nhìn thì
trên trời đột ngột xuất hiện một đám mây ngũ sắc tuyệt đẹp, đám mây bay đến, đậu
lại trên đỉnh đầu Bát Tư Ba. Tiếp đó, một cơn mưa nhỏ tí tách trút xuống, tầng
mây dày đặc che khuất vầng thái dương, bầu trời âm u. Đám mây ngũ sắc chiếu
sáng không gian xung quanh, lập tức thu hút sự chú ý của tất cả mọi người, ai nấy
đều tròn mắt, há miệng, ngơ ngác ngắm nhìn.
Bát Tư Ba sững sờ, ánh mắt chàng lập tức kiếm tìm trong đám
đông. Tôi không thể cởi mũ nên nảy ra một cách khác, tôi cởi sợi dây buộc tóc,
giơ lên cao. Chàng nhận ra, nụ cười ấm áp tỏa rạng trên môi.
Đám mây ngũ sắc tạo nên vầng hào quang rực rỡ bao bọc lấy
thân hình mảnh khảnh của Bát Tư Ba, hệt như vầng hào quang tỏa rạng sau lưng
các vị Bồ Tát. Gương mặt an nhiên, thanh tịnh như một vị thánh của chàng, ánh
sáng thánh khiết tỏa ra từ con người chàng dường như tạo ra một lực hướng tâm
vô cùng mạnh mẽ khiến cho đám đông muôn phần xúc động, cuống quýt hành lễ, vái
lạy, thậm chí có người bật khóc. Quầng sáng dần tan biến, bầu trời trở lại vẻ ảm
đạm như trước. Bà con chừng như vẫn còn bội phần xúc động, họ reo lên:
- Phật sống hiển linh bà con ơi!
Bát Tư Ba gật đầu ra hiệu cho đoàn rước tiếp tục lên đường.
Kèn trống tiếp tục vang lên, đội nghi thức dàn hàng thẳng tiến, cỗ xe từ từ rời
khỏi cổng chính chùa Khánh Thọ, tiếp tục hướng về phía tây. Bát Tư Ba dõi mắt về
phía tôi, tôi biết chàng lo lắng cho mình nên lắc đầu, mỉm cười để chàng yên
lòng.
Đoàn người nối đuôi nhau theo sau đoàn rước cùng Bát Tư Ba,
chỉ một lát sau, cổng chính của chùa Khánh Thọ đã không còn một bóng người. Đột
nhiên tôi cảm thấy hoa mắt chóng mặt, bèn dựa vào một gốc cây. Tuy những năm
qua, phép thuật của tôi đã tiến bộ rất nhiều, nhưng khi nãy, phép biến hóa trước
ngần ấy con người đã khiến tôi tiêu hao rất nhiều linh khí. Mong là nghỉ ngơi một
lúc, tôi sẽ về được đến phủ Quốc sư rồi mới xỉu đi.
Đúng lúc cơn buồn ngủ ập đến mãnh liệt, tôi bỗng nghe thấy
giọng nói quen thuộc của ai đó sau lưng mình:
- Cô nương ơi, cô sao vậy?
Tôi đã xuống sức nghiêm trọng nên có người lại gần mà không
hề hay biết. Không được, không thể để cậu ta nhận ra mình. Tôi gắng gượng đứng
lên, nhưng chân tay cứ bủn rủn, cơ thể lảo đảo, chực đổ nhào về phía trước,
chưa kịp chạm đất thì cánh tay rắn chắc của ai đó đã kéo tôi. Người đó xoay người
tôi lại, chiếc mũ rơi xuống, để lộ suối tóc màu lam kỳ ảo.
- Là nàng ư? - Cậu ta thốt lên kinh ngạc, niềm vui cực độ
xen lẫn sự hoài nghi. - Cuối cùng ta cũng gặp lại nàng!
Tôi gượng mở mắt, bắt gặp gương mặt tràn ngập niềm vui của cậu
ta, cất giọng yếu ớt:
- Chân Kim…
Và rồi tôi thiếp đi. Trước lúc đó, tôi còn đủ tỉnh táo để niệm
thần chú giữ nguyên hình dạng con người của mình sau khi rơi vào trạng thái hôn
mê.
*
- Lúc trước cậu nói rằng, cậu cảm thấy Bát Tư Ba rất giống một
chính khách, đúng không? - Tôi xuống giường, lại gần giá sách, vừa đi vừa nói.
- Điều đó chính xác. Bát Tư Ba dốc toàn bộ tâm trí vào vấn đề chính trị của Tây
Tạng. Tuy nhiên, với vai trò của một lãnh tụ tôn giáo, chàng cũng đã tổ chức rất
nhiều hoạt động nhằm hoằng dương Phật pháp. Ngoài các hoạt động trong cung đình
của Hốt Tất Liệt, chàng còn tổ chức lễ hội Phật giáo rất lớn mà ai cũng có thể
tham dự: Lễ hội Sitatapatra.
Tôi rút cuốn Lịch sử triều Nguyên, lật đến chương 77,
chỉ cho chàng trai trẻ những ghi chép về lễ hội diễn ra vào triều Nguyên:
- Lễ hội Sitatapatra được khởi xướng bởi Bát Tư Ba, từ đó về
sau, năm nào lễ hội này cũng được tổ chức long trọng tại kinh thành triều
Nguyên, khi ấy, người ta thường gọi lễ hội này bằng cái tên “Lễ diễu hành hoàng
thành”. Quy mô của lễ hội này không hề thua kém lễ hội hoa đăng trong dịp Tết
Nguyên tiêu của người Hán. Nếu vì có việc trọng đại mà năm nào đó không thể tổ
chức thì lễ hội chắc chắn sẽ được tổ chức bù vào năm tiếp theo, tục lệ đó được
duy trì mãi cho đến khi triều Nguyên bị diệt vong.
Chàng trai trẻ lật mở cuốn Lịch sử triều Nguyên, những
dòng cổ văn ngắn gọn, súc tích khiến cậu ta khá vất vả để có thể đọc hiểu trọn
vẹn. Chàng trai trẻ tán thưởng:
- Ghi chép về lễ hội này rất đầy đủ, chi tiết, với quy mô thế
này, lễ hội Sitatapatra quả là có một không hai.
Tôi gật đầu:
- Hốt Tất Liệt rất coi trọng những ngày lễ tôn giáo trọng đại
thế này, vì cả giới tăng ni Phật tử, dân thường và quân đội đều có thể cùng
nhau tham dự. Về sau, ông đã hạ lệnh, cứ đến trung tuần tháng Sáu[75] hằng năm,
lễ hội sẽ được tổ chức tại Trung Đô.
[75] Theo ghi chép của
cuốn Lịch sử triều Nguyên thì lễ
hội Sitatapatra được tổ chức lần đầu tiên vào niên hiệu Chí Nguyên thứ bảy, tức
năm 1270, sau đó được duy trì thường niên vào ngày Mười lăm tháng Hai hằng năm.
Nhưng do yêu cầu của nội dung câu chuyện, chúng tôi xin phép mạo muội đẩy thời
gian lên trước bảy năm và đổi thành ngày Mười lăm tháng Tư hằng năm.