Mẫn và tôi - Chương 17 (phần 2)
Con chim đêm nổi kêu một hồi “kíu kíu” bên trái chúng tôi. Có
người. Tôi đứng lên, căng mắt nhìn về phía những chấm đèn dầu dùi thủng
vết đen dài của bờ bên kia. Tiếng róc rách đến gần. Thuyền cá ra biển.
Thân thuyền chìm vào nền nước đen, tôi chỉ thấy phần trên cùng của lá
buồm thiếu gió, một mảnh tam giác trắng mờ trôi lừ lừ giữa các chòm sao
trong tiếng chèo nặng nhọc. Dạo này thuyền ra khơi lo chèo đi rất sớm,
không đợi gió đất nổi, bởi phải ghé vào năm sáu trạm gác dọc sông cho
địch xét giấy, soát khoang. Thuyền tới bến còn bị tàu tuần hay ho-bo(11)
của Mỹ chặn hỏi, có khi trực thăng sà sà thả thang dây bắt chủ thuyền
đem thẻ lên, cuốn buồm không kịp thì gió cánh quạt nhận chìm. Những ngọn
măng sông treo cao trên các thuyền rờ, dăng dăng rất đẹp như điện phố,
đã biến hết từ khi địch cấm đánh cá đêm. Mặt sông sẫm lại, chỉ còn đèn
pha của tàu biển tàu sông quét ngang, của trực thăng rọi chéo xuống, hỗn
như những ngón tay xỉa vào mặt người ta, từng lúc chen mấy trái đèn dù
nhểu một thứ lửa trắng ma quái, biến da người sống thành da bềnh bệch
cạn máu của xác chết.
(11) Xuồng máy nhẹ, chạy nhanh.
Ngồi im một lát, chị Tám buông chậm rãi:
- Nói tình thiệt nghen… coi bộ anh ưng Hai Mẫn hả?
Dù
chị không rào đón trước, tôi vẫn cảm thấy câu hỏi ấy ắt sẽ đến. Giấu
mãi làm gì, phải nói thôi, dù chỉ một lời thú muộn màng cũng đủ nhẹ
người. Tôi đáp trong hơi thở:
- Có.
Tôi đã mến nhiều bạn
trai hay bạn gái gặp trên đường dài. Gặp rồi xa, nhớ nhau ít lâu rồi
quên. Tất cả những mê say tôi dành cho Mẫn bấy lâu, tôi muốn buộc túm
thành một gói, đem gửi vào kho kỷ niệm cho đỡ nặng ba-lô, sau này trà dư
tửu hậu sẽ giở ra xem và cười mình hồi trẻ sao mà ngây thơ tệ. Tôi ép
mình nghĩ đến Mẫn như một cái gì trôi qua đã lâu, cũ rồi, thích bùi ngùi
một chút cũng được nhưng mọi xúc động đã phai hết. Tôi cố triết lý như
ông cụ non vậy đó, và thấy dễ chịu hơn. Hòn than lửa vùi mãi dưới tro sẽ
tàn.
- Nó cũng thương anh lắm. Thiệt tội.
Chị Tám nói trầm
ngâm, tôi nghe như hơi xót xa thì phải. Tôi đợi tiếng “nhưng” rơi xuống,
như leo ra mút cành khô và đợi tiếng gãy dưới chân không tránh khỏi.
- Sao anh chưa nói với nó?
Một
búng hơi nóng thốc lên cổ. Tôi nuốt nó xuống. Nhắc đến Mẫn phải thờ ơ
mới đúng chứ, người ta lạnh ngắt với tôi… Một búng nữa. Một nữa. Cái
bình thủy ngoài mát trong sôi đã thổi bật nút, pưng một tiếng, bốc hơi
cuồn cuộn. Thôi được, cứ kể hết một lần cho hả tức rồi sẽ nguội, nguội
hẳn. Người ta còn giả bộ không biết, đợi tôi phải lạy lục nữa ư, đời
nào! Người ta hiểu tôi chán chê mê mỏi rồi chị ơi, từ những ngày cứu
lụt, dạo nổ súng che chở nhau trên gò hoang, tới cái đêm trăng không bao
giờ quên. Không biết, thì việc gì lại xảy ra cuộc lánh né như chuột
tránh mèo hiện nay, mà nghĩ kỹ tôi lại thấy là mèo vờn chuột? Nghĩa là
gì? Mẫn không hề yêu tôi, dê-rô. Hay Mẫn nghĩ rằng càng thương càng phải
rút vào cố thủ trong boong-ke, đứng trong ấy mà ú tim ú oà, thương kiểu
đó thì anh em tôi xin kiếu. Hay Mẫn lỡ ưng tôi bây giờ hối lại, bắt đầu
dò xem có ông nào cấp tỉnh hay ông trung đoàn nào chưa vợ?
Chị Tám nghe giọng Bình Định lấp gấp của tôi chắc chỉ lọt tai một phần, tới đấy bỗng cắt ngang, gắt:
- Đừng nghĩ bậy, oan nó. Không hiểu con gái mà cứ nghi như Tào Tháo!
Tôi
mím môi ngậm cơn tức đang trào đầy miệng, đòi bật ra. Mấy chiếc thuyền
nữa chèo qua, men bờ sông bên kia, chỉ thấy chấm đen bò chậm.
- Nó
quý anh, phục anh, mà anh rẻ rúng nó vậy à? Coi nó tàn tệ vậy à? Nó chỉ
nói với tôi một đời nó không dám ước gặp một người như anh. Hễ anh xách
súng đi là nó kiếm cớ đi theo, có gì nó đưa ngực cản đạn cho anh. Nó
năn nỉ tôi ngó chừng anh, đừng để anh xông xáo quá. Thuốc phòng sốt rét
tôi đưa anh uống mấy bữa nay là nó gửi đó. Chao, con gái chưa nói một
tiếng ưng mà thương trai quá chừng vậy, hèn gì anh... chưa chi mà đã...
Đến
lượt chị Tám cố nén giận. Hình như tôi đã trao cả gánh giận sang vai
chị cho nên người cứ nhẹ bẫng, ngây ngất. Chùm sao trên trời co lại,
giãn ra, từ từ xoay tròn. Tôi nhắm mắt mỉm cười, đợi chị sạc thêm. Cứ
nạt tôi một trận đã nư đi chị. Tôi ngu, tôi xấu nết, còn Mẫn của tôi
tuyệt quá, tha lỗi cho anh nhé, nện cho anh một báng các-bin nữa đi.
Nhưng tại sao em tránh anh, tại sao?
- Thương anh đứt ruột giả đò ngó ngơ, tội nghiệp con Mẫn…
Tôi nghĩ theo như tiếng vang: tội nghiệp. Nhưng cái miệng tôi cứ buông xóc hông.
- Vậy mới kỳ cục!
-
Kỳ, kỳ, anh cứ nói được phần anh thôi, chẳng cần biết nó rầu nó rối sao
hết. Rốt cuộc, ông Mít cũng như ông Xoài… Mấy cô đoàn viên hay du kích
mới lớn lên, tìm tới các anh nhờ bày vẽ cho làm công tác, lập tức các
anh nay bỏ nhỏ, mai gởi thơ, cô nào sạch mắt một chút thì coi như tối
tăm mặt mũi. Không trả lời là kiêu, nói “em chưa nghĩ tới” là điệu, từ
chối phứt thì kêu cạn tàu ráo máng. Người ta mắc việc nước việc nhà ngập
đầu lại còn phải lo dỗ ngọt, phân bua hoài, còn nơm nớp sợ các anh giận
nữa.
- Tụi tôi đánh giặc cứ đánh, thương ai cứ thương có bận bịu gì đâu. Chị làm như…
-
Thì biết các anh thương chớ sao! Có điều ba bảy cách thương lựa cách
nào cho phải, để chị em kịp tiến bộ với chớ. Hồi muốn nói cho xiêu, các
anh hẹn mấy năm cũng đợi. Lỡ ừ một tiếng thì đòi cưới liền tay, lần chần
xin hoãn ít bữa đã thấy các anh nặng mặt, hờn lẫy, đòi cắt, búi!
- Chớ để lửng lơ con cá vàng làm gì?
- Đó, con Mẫn sợ anh cũng bấy nhiêu thôi!
Tôi cười xòa, bị “suỵt” một cái. Những con chim kíu kíu vẫn gác chung quanh.
- Hồi ở ngoài gò, anh tuyên bố cắn cưa là anh chưa ưng ai, tới khi ưng thì nay gật mai cưới, không dằng dai gì hết, đúng chưa?
Tôi ngẩn ra. Ờ mà có vậy thật.
Hôm
ấy, giữa bữa cơm, đội du kích xúm bàn hăng về đường nhân duyên của một
cậu đang vấp đau, tôi bốc đồng cũng phát luôn mấy cái ngôn. Rằng tôi
ngại trói buộc nên chưa muốn rước một đấng vợ về thờ - điểm này chẳng
sai mấy. Rằng đến khi tôi phải lòng cô nào thì nay gật mai cưới, dằng
dai xin rút đơn ngay, đang bận đánh Mỹ không có thì giờ xếp hàng, cả hai
miền nước ta những cặp đợi nhau đã đông lắm rồi, tôi không muốn góp
thêm một cặp nữa - phần sau này tôi huyên hoang cho oai nhiều hơn, tỏ ra
chí khí trượng phu không chịu luỵ đàn bà, để khuyên cậu kia đừng buồn
khi bị “đổi gác”. Ai ngờ Mẫn nghe kỹ nhớ dai đến thế!
Cho dù tôi
nghĩ sao nói vậy đúng trăm phần trăm chứ không vui miệng đấu hót, thì đó
vẫn là những ý nghĩ trước khi yêu Mẫn. Khác xa lắm chứ. Hăm tám tuổi
chưa gắn với ai, nhưng từng lúc tôi vẫn tưởng tới cô gái sẽ cùng tôi ăn
đời ở kiếp, thích nghe những chuyện vui buồn của anh em đã có vợ con,
đọc được cuốn sách nào hay thì cố nhớ vài nét về tâm lý phụ nữ, để rồi
ngày càng thấy cái việc chung thân đại sự ấy sao nó “dại” quá mất, tốt
hơn hết là hãy khoan! Lại còn một chỗ buồn cười nữa: hễ bắt gặp ở đâu
một nét dễ thương, tôi hay đem ghép cho người yêu mai sau, buộc cô ấy
phải có đủ tất cả những gì đẹp nhất quí nhất trên đời, giá tôi vẽ mẫu
đặt com-măng cho xưởng nào đúc giùm cũng chưa chắc đã vừa ý! Mẫn đến,
lẳng lặng bước vào đời tôi từ bao giờ chẳng hay, tôi chưng hửng nhận
thấy cuộc tình duyên tưởng tượng của tôi từ mây khói lại tan ra mây
khói. Tôi đâu có ngờ sẽ yêu một người như Mẫn, trong một thời buổi gay
cấn như khi Mỹ đang đổ bộ, và gặp những vấp váp như vừa rồi. Mẫn đã đảo
lộn tất cả, còn kể gì một câu nói yêng hùng thoảng qua…
Nhất ỳ nhì
nín lặng. Không nghe tôi trả lời, chị Tám coi như tôi gật. Chị không
gằn hắt nữa, mà dịu giọng như thương hại đám con trai hay vòi quấy nhưng
cũng biết nghe lời dỗ ngọt:
- Chị em tôi quen, ai cũng lo chạy
theo không kịp phong trào, rớt lại sau. Ngó lên lửa núi cháy lan, bạn ơi
khoan đã lửa tàn sẽ hay. Năn nỉ vậy, các anh có nghe đâu, mà thôi nhau
thì… thì không đủ sức. Rốt cuộc, mới mười chín đôi mươi các anh đã cưới
gấp, ném cho người ta cái ba-lô mang sao được đó mang, đi biến, lâu lâu
viết về nói là trời sinh voi trời sinh cỏ, em đừng lo. Cỏ nào chạy tới
miệng voi? Anh thấy đó, chưa đẻ mang con trước bụng, đẻ mấy năm rồi cũng
y nguyên đồ đạc sau lưng đeo con trước bụng, có gì thân mẹ che thân
con. Cực hết chỗ nói đã đành, mà còn chịu thua em kém chị đứt đi mấy
năm. Có phải miền Bắc đâu mà sẵn nhà giữ trẻ cho mẹ gửi con đi làm?
Ba-lô đằng sau là việc nước, ba-lô đằng trước là việc nhà, cứ vậy mà đội
bom đạn đi công tác, lâu lâu không có món gì gởi cho chồng thì lại nuốt
cơm không xuống. Còn ông chồng nữa… ừ, ông chồng thiệt tới hay. Ông ra
đi cứu nước thì giỏi bằng trời, xin phục ông sát đất, mà nghe ông tích
chuyện nhà thì nhịn cười không thấu. Hay tin con biết đi ông mới về bồng
thử, chà, thằng nhỏ nặng tay quá ta, mau lớn đánh Mỹ với ba nghe con.
Coi bộ nó có em được rồi, người ta nói con một nó hay trái chứng!
Nghe
cái giọng giỡn giỡn của chị, tôi không buồn cười mà thấy tim thắt lại.
Ra vậy đó. Tôi mới nghĩ đến Mẫn như cô gái đáng mê nhất, quên biến rằng
Mẫn sẽ phải làm bí thư chi bộ, đứng đầu mấy ngàn bà con chọi sức với Mỹ
trên mảnh đất vành đai. Trong lúc này… Mẫn chưa thể làm vợ, làm mẹ. Mẫn
yêu tôi mà vẫn thấy cái Chu Lai lù lù trước mặt. Tôi không tỉnh được
thế. Tôi say Mẫn nhưng chưa thật hiểu và thương Mẫn. Khi bị lảng, tôi
chỉ đoán Mẫn đo nước mắm, ngắm dưa hành trong tình cảm, chẳng nghĩ rằng
Mẫn chịu hi sinh vì những gì ngàn lần lớn hơn hạnh phúc riêng. Tôi còn
vì tôi mà yêu Mẫn. Và Mẫn rất nhạy sắc đã cảm thấy điều ấy từ rất sớm.
Mẫn bước lùi, nén mình, giả đò ngó ngơ…
Một đèn dù bật xa, những
mảng sáng và tối chạy lừ lừ trên mặt chị Tám, từ cằm đến tóc. Mắt chị
long lanh. Có lẽ chị nói với mình, rất nhẹ:
- Con gái bây giờ vậy
đó. Các anh đổ xương máu đánh giặc, chịu cực trăm bề, không yêu các anh
thì yêu ai nữa, chị em còn lo con trai đi hết, mình bị ế chồng, về già
không được chút con, đủ thứ. Có điều trăm mối tơ xe vò một sợi, gì thì
gì chị em cũng phải gánh việc nước cái đã. Thêm tay phụ với các anh dẹp
cho hết Mỹ, kiếm chút độc lập cho bà già đỡ khổ, con nít đỡ chết, phần
mình quá lứa nhỡ thì một chút có sao đâu. Bụng nghĩ vậy mà cứ sợ các anh
chê thiếu tình cảm, khô, trông lên… Mẫn nó biết anh bực, nó bồn chồn
hoài, hôm qua nó khóc với tôi: “Thôi, ảnh giận trước khỏi giận sau, em
gần ảnh miết thì… chắc ảnh biểu sao em làm vậy, em thương ảnh quá rồi.
Làm sao bây giờ chị ơi. Ảnh nói vậy đó, mà không nói em cũng biết tánh
ảnh, làm gì cũng ào ào tới tới, tận bờ sát góc. Hễ em… em chưa chịu
cưới, ảnh lại giận nữa. Mỹ tới sát bên hông, chú Luân cứ sưng khớp hoài,
chi ủy hết người, em vướng chồng con bỏ việc cho ai…” Tôi hỏi: “Vậy em
cắt nghiến hết à?”. Nó hoảng, nói: “Không, không, cắt sao nổi, đợi ảnh
đi rồi em viết thơ xin lỗi, rồi em ở vậy đợi miết. Vài ba năm, sáu bảy
năm, tới hồi thơ thới một chút, hễ ảnh không chê em nghèo em dốt thì em
lấy ảnh, hễ nửa chừng ảnh ưng người khác cũng quyền ảnh tự do, chẳng
ngại gì hết. Ảnh gan lắm, khí khái lắm chị à, hẹn một câu thì sống chết
không đổi không dời. Em chẳng muốn ảnh hứa đâu chị, lỡ sau này em què
cụt hay hết đường con cái, làm khổ ảnh cả đời…”
Tôi không nhịn được nữa, bật kêu:
- Tầm bậy! Một mình Mẫn biết nghĩ thôi à? Tôi là cục đất à?
-
Ai muốn mua thêm đường mà đi cho mệt, trăm tội trút trên đầu thằng Mỹ
chớ trút đâu. Anh tính với nó sao thì tính tùy lòng. Chuyện này bàn góp
khó lắm. Thuyền chài lơ lửng, tới thuyền câu cũng lơ lửng giữa dòng...
Nãy
giờ tôi quên mất chị Tám Giàu, chỉ nhớ đang nói chuyện với một cán bộ
đứng tuổi. Mười một năm, hai lá thư, một tấm ảnh nhỏ bị hoen dọc đường,
tôi mới biết có vậy.
Sau một lát, tôi hỏi khẽ:
- Chị mấy cháu rồi?
- Nó đánh quá... truỵ thai.
Một
chiếc thuyền khác xuôi gần bờ bên này, chim đánh rộn. Chúng tôi lặng im
nhìn mảnh buồm trôi trên trời, tắt và bật từng chấm sao. Rồi lặng im
mãi đến khi anh S.14 kêu ba tiếng cú báo hiệu, dắt lên một người mặc
quần đùi ướt sũng: cậu em đã lặn và bơi gần hai cây số dưới đèn pha pháo
sáng để đến với chúng tôi, sau đó sẽ bơi trở về chỗ cồn cát neo bầy hải
thuyền, bò vào chỗ ngủ.
*
* *
Út Liềm đạp xe xuống
gặp chị Tám trong ấp, đưa mấy tin mới. Nguỵ càn vào Nhơn Phước, khi băng
đồng qua Nhơn Ái bị ta xả súng bắn giữa bãi chông, mang về non hai chục
khiêng. Trận này Năm Ri cầm quân. Đợt tám xã nhập thị vừa rồi cũng khá,
chỉ một cánh bị chặn còn vô được hết. Mẫn xuống Nhị Lộc thay Năm Tuất,
chỉ huy phá dứt điểm hai ấp vùng cát, nâng mức làm chủ mỗi ngày lên từ
ba giờ chiều đến chín giờ sáng, tiến tới giáp vòng cái mặt đồng hồ. Mẫn
nhờ chị Tám cho người đi đêm lên Lộc Chánh lấy cái ống dòm của H.68 gửi
cho anh Thiêm, chứ Út Liềm mang xuống dễ bị soát. Vòng vo gớm chưa, cô
em không nhắn tôi về lấy cho gọn! Lần này tôi chỉ buồn cười.
Đêm sau ngớt việc, chị Tám và tôi lên Lộc Chánh.
Lửa
đốt rào ấp mấy năm trước bốc cao như dãy tháp bơm dầu bị cháy, từ biển
khơi nhìn vào cũng thấy, nay chỉ còn phần phật ngang đầu người: tre và
dương liễu trong các làng gần sạch rồi, chỉ còn cọc sắt với kẽm gai. Tụi
nguỵ đóng ở đây bị Mỹ nống sau lưng, ta chặn trước mặt, thêm đất nổ
dưới chân hoài, đêm đến kéo đi ngủ lang thang trên các gò cát vắng, mặt
trời lên cao mới dám vào ấp. Thằng Chinh con hậm hực thúc đám dân vệ đi
nhổ chông, xăm hầm, lần nào cũng trúng mìn gài, chúng co lại đợi máy rà
mìn hay xe ủi đất. Quân của hắn thấm vào cát, vài ngày lại một tên biến
mất. Ta chưa đủ sức đẩy địch ra ngoài hẳn, chỉ “thêm xôi bớt đậu” ở Nhị
Lộc.
Tôi đợi chỗ hộp thư ngoài ấp. Cái bè cỏ gấu đã đưa Mẫn với
tôi đi chơi trên biển cát ngập trăng, lao xao những ngấn sóng lưỡi búa,
trong đêm tối trời này biến thành tấm thảm nhám dệt bằng xơ dừa. Tôi nằm
ngửa xem sao, nhớ một truyện cổ Bắc Âu, thấy mình đang dạo Ngân Hà trên
tấm thảm bay... Pháo Chu Lai đánh thức tôi dậy. Gần thằng Mỹ, giấc mơ
chỉ đếm bằng phút thôi.
Dứt đợt pháo hơn bốn chục trái bủa vòng
quanh ấp, chị Tám dắt ra giao cho tôi một cô xã độ trưởng khiếp hồn như
cáy vào hang cua, mất tinh thần chẳng phải vì địch. Mẫn ấp úng nói gì
đấy, mở vội bao lưng lấy cái ống dòm đựng trong hộp da đưa cho tôi, khi
quay lại chị Tám đã bốc hơi đâu mất. Cũng như lần trước, chị vắng mặt
đúng lúc. Tôi đón cái hộp, đón luôn hai bàn tay lẩy bẩy của Mẫn. Từ đó
trở đi tôi không nhớ mấy. Chũng tôi nói với nhau một câu chuyện sóng
gió, rối tinh, có lẽ dài, từ tiếng đàn bầu cho đến tiếng thuốc nổ đều có
đủ. Đến đâu nửa chừng, tôi hôn Mẫn thất kinh. Em có thật đây mà. Em của
anh không còn là cầu vồng năm sắc lùi mãi xa người. Má em thơm mùi gì
nhỉ, mùi mít chín. Em cười thổn thức rất ấm bên tai anh. Con chim xinh
mà anh không dám đến gần sợ bay đi đã vào tay anh rồi nhé, em đậu trên
vai anh mà đi cùng trời cuối đất nhé.
Tôi nghe tiếng Mẫn, loáng
thoáng nhận ra những là địa đạo, lỗi tại em, chè vườn, ông thầy Mười,
mấy đêm em không ngủ được, lại địa đạo nữa, Út Hòa, anh cười đi em mới
tin, cười đi. Tôi cười, chẳng hiểu gì cả. Giọng người yêu là nhạc không
lời, từng đoạn có những nốt rơi khía vào tim, tôi thương buốt đi vài
giây. Một lúc chúng tôi ngẩn đi, nhìn nhau, cùng bật cười, lạ nhỉ, sao
lại cãi nhau được nhỉ. Dạo ấy chúng tôi trẻ con, nay là người lớn, hay
ngược lại chẳng biết. Tôi đòi Mẫn hôn. Mẫn chỉ áp hai bàn tay nâng mặt
tôi, soi đôi mắt đen trong mắt tôi thật gần, thật lâu đến nỗi tôi tỉnh
ra hẳn. Nhiều lần tôi thấy Mẫn với cháu Hoàn nựng nhau như thế. Có lẽ
Mẫn đã ngắm mẹ và các em như thế. Anh đọc ra rồi, em ơi. Tình yêu của em
lớn quá đến nỗi em phát sợ, bởi em dồn hết cho em cả phần thương mẹ,
thương con nuôi, thương cha bị đày vắng tin, em nối vào cho anh tất cả
những sợi dây máu của tim em, nhiều lần bị giặc cứa ngang, vẫn nhỏ giọt
chưa cầm. Anh đã làm gì mà được đón nguyên vẹn cả một thế giới yêu
thương như thế trong tay?
Chị Tám đến, vẫn nhớ gõ ba tiếng tín
hiệu bằng cái nắp bật lửa để chúng tôi kịp giải tán. Mẫn chỉ cười. Mẫn
đợi chị tới gần, kéo chị ngồi xuống, nói dịu dàng:
- Em vui lắm. Chị ngồi với em một chút.
Mẫn
nắm tay chị, cứ ngả đầu trên vai tôi, không ngượng - lại một sự lạ nữa,
không biết đến khi nào tôi mới hết ngạc nhiên về Mẫn - và ba chúng tôi
lặng im dưới một trời sao vui, ngắm những đống lửa đốt rào ấy lụi dần
ngoài xa. Tôi muốn có anh Ba Tơ ở đây quá. Có lẽ Mẫn và tôi bưng hạnh
phúc mới như đỡ một trái mít mật thơm lựng, muốn bổ ngay cho những người
thân ăn chung mấy múi.
Lát sau, tôi trở về cái chuồng chim trong
ấp chiến lược, ở với lũ chuột và cô rắn rồng. Cái ống dòm trong hộp da
áp vào hông tôi nóng hổi, Mẫn mang nó trong bao lưng suốt mấy ngày hôm
nay. Chân tôi đi không chạm đất. Nếu tôi nhảy một cái, chắc sẽ vút lên
cao năm sáu thước, như người trên cung trăng ấy mà.

