Mẫn và tôi - Chương 15 (phần 2)

 

Chúng tôi vào một ấp chiến lược sát cửa sông để nhận chị S.22 và
một số du kích bí mật do chị tự chọn, không chịu cho Mẫn biết hết tên.
Ấp này có lính đóng, gác kỹ. Mẫn đi một quãng ngắn lại thụp xuống, cúi
sát đất nhìn ngược lên, xem đường nét lởm chởm của các bụi cây đen đằng
trước, tìm vệt thẳng của nòng súng hay hình tròn của đầu người, thêm chỗ
eo của cái cổ nữa không thể lẫn. Tôi chỉ có việc bắt chước.

Men rặng duối dại một quãng, Mẫn dừng lại ghé tai tôi:

- Nó kìa!

- Đâu?

- Dọc đường đất...

Một
con đường đắp nổi bằng đất thịt màu sẫm với hai hàng dương, cách chúng
tôi chừng sáu chục thước, chạy qua cát trắng vào ấp. Tôi nhìn lâu mới
thấy một đốm lửa nhỏ xíu hửng đỏ, chìm, lại hửng. Sáng trăng này địch
không cần soi pin xem giờ, nhưng khó nhịn được thuốc lá. Mẫn dừng đợi
chị Tám và Tâm, thì thào:

- Hồi nãy nó rình ở đây, mới kéo ra phục đường. Có mùi Bát-tô, xà-bông thơm, mồ hôi khét nghẹt.

Tôi
hít mấy hơi, không nhận ra gì cả. Xin thua cô xã đội, tai kém còn đổ
lỗi cho sốt rét được, chứ cái mũi không tinh thì chỉ tại hút thuốc thôi.

Vòng
hướng khác, chúng tôi đi vòng qua những vạt mè, lá và trái quệt vào tay
dính rin rít, đến gần cái vệt đen dài cắt ngang trảng cát. Nhiều chấm
đèn dầu nhấp nháy. Dòm ngược lên đã thấy hàng rào lông nhím dựng như bàn
chải trên nền mây sáng. Tiếng đóng đinh vào thuyền gỗ nghe trầm và dội
xa. Chó sủa, có người nạt chó. Một đóm lửa to đi lừ lừ bên trong rào,
những nét bóng của tre nguyên cây hiện thấp thoáng, chắc là dân canh
đang gác chuyển đèn: các vọng gác đưa chuyền cho nhau một cây đèn gió,
địch trên chòi cao ngó chừng. Nhiều tiếng cười ré giật gân. Tiếng loa
vẳng từ xóm xa, gió tạt không nghe rõ, chắc lại gọi “đình công xây ấp
tân sanh, ai bất tuân nằm nhà coi như phần tử Việt Cộng”, địch đã biến
Việt Cộng thành những người an nhàn nhất trên đời.

Tôi nhắm chừng
phải đợi lâu đấy, mới chín giờ rưỡi, dân và lính địch còn thức cả. Mẫn
moi cát sau lưng một tấm bia mả bằng xi-măng, lấy cái hộp nhỏ đựng mẩu
giấy có mấy chữ nguệch ngoạc: Đêm 16, từ 10 tới 12giờ - S.22.Tôi đón xem
xong, buột miệng:

- Hụt rồi. Nay mới mồng hai tháng năm thôi.

- Tính lịch ta chớ anh!

- À...Vậy đợi một tiếng nữa...

-
Đồng hồ anh lấy giờ Đông Dương hả? Vô được rồi. Thằng Ba gác ngoài, chị
đưa anh chị...Nhăn gì? Em còn nhỏ ai chịu cho gặp đâu mà theo!

Sao
tôi ngớ ngẩn vậy ta? Đã biết xuống vùng sâu phải theo giờ Sài Gòn và
theo tuần trăng để biết đêm sáng đêm tối, mà trước mặt Mẫn tôi lại quên,
hệt một cậu chưa từng ra khỏi vùng giải phóng. Trót rồi, tôi sẽ gỡ bằng
những động tác vượt hai sông ba núi rất thạo, để Mẫn và chị Tám biết
tôi dày dạn chẳng kém ai. Trong loại công tác này, một đồng chí bị đánh
giá là non gan hay vụng dại sẽ được mời ở lại làng Cá ngủ cho khỏe, đi
theo chỉ gây vạ cho anh em và cơ sở...

Lại hẫng nữa. Mẫn đưa chúng
tôi đến chỗ hẹn, một cô du kích mặt bôi đen đón sẵn, dẫn chúng tôi đàng
hoàng đi qua cổng ấp mở toang, mấy bác dân canh còn dặn Mẫn nhớ nhớ ghé
lấy cá ngừ kho khô chớ để lâu nó thiu. Tôi mừng khấp khởi. Được một
“lõm căn cứ” ngay bên cửa sông thế này, tha hồ ăn dầm nằm dề giữa rốn
thằng Mỹ! Chị Tám chép miệng: “Mày giàu ngầm quá Mẫn ơi”.

Chúng tôi dẫm vỏ chuối cả. Chị S.22 khăng khăng không chịu chuyển sang cho người khác nắm.

Bộ
mặt chữ điền sẫm màu bánh mật mỗi lúc một đanh trước ánh đèn cứ để to
ngọn. Đôi mắt xếch nhìn tôi, nhìn chị Tám như muốn xách đặt trên bàn cân
coi thử nặng bao lăm. Mẫn đã nói chị là du kích hồi đánh Tây, vào tù
rất gan, nay thuộc loại “cơ sở đẻ mau” tức là tự mình xâu chuỗi thêm
hàng loạt cơ sở mới. Chị nắm gần hết một xóm trong cái ấp chiến lược khá
to này, chỉ cho Mẫn biết chị có một tiểu đội du kích bí mật, cho gặp bà
S.26 là giao liên của chị, vậy thôi.Tuy Mẫn lấy giọng kính cẩn nhất để
rỉ tai chị về “hai đồng chí cấp trên lãnh đạo vùng ta” chị S.22 vẫn chan
chát:

- Con Hai đây tôi biết, công an quận đánh hộc máu mà nó
không khai một tiếng làm thuốc. Gặp người vậy thì tôi sống gởi nạc thác
gởi xương, chẳng đợi ai thúc, cũng chẳng cần biết đúng hay sai nguyên
tắc. Đội Tam Hải đòi quản, tôi sạc rồi đó, các anh nắm xã tôi mà thập
thò tận đâu đâu, tôi không tin! Tù ba năm tám tháng, tra gãy xương sườn,
vậy chớ còn ăn được hột cơm là tôi còn theo Cụ Hồ đánh Mỹ, còn nuôi hai
đứa nhỏ đợi ảnh tập kết về. Bà con đây biết địch có chẻ óc tôi ra cũng
không lấy được một cái tên, họ mới theo. Nói anh chị bỏ qua, chưa biết
anh chị có chịu nổi các thứ tàu bay tàu lặn không, hay lại dắt ác ôn đi
chỉ từng mặt, khai từng chén cơm họ mời?

Đâu bảy tám năm trước,
chị đào hầm nuôi một anh cán bộ tỉnh, “cá tươi sữa hộp cho ăn mập trắng
mập mềm”. Sau này anh bị bắt, chịu đòn không nổi, dẫn lính về khui hầm
nhà chị. Vào tù, chị để ý xem rất kỹ những ai gan lì, hỏi họ tên quê
quán, dò xem về sau họ sống hay chết, bị giam hay được thả. Chị gặp Mẫn
và nghe tiếng anh Tư Luân. Vừa ra khỏi nhà giam chị đã đi tìm đầu mối,
gần trước xa sau, cuối cùng được Mẫn giao công tác.

Mẫn dỗ dành mãi nói rằng chị Tám và tôi đều qua tù đày cả rồi, đáng bậc thầy của Mẫn, chị mới chịu buông lửng một câu:

- Thôi được anh chị cứ lui tới nhà tôi ít lâu coi thử, có sao cũng một mình tôi lãnh đủ...

Tôi
nghĩ ngay đến một nét của bà con làng Cá hơi giống chị S.22. Trưa nay
anh Tám Liệp thấy vắng càn mới về thăm làng một buổi, mặc ka-ki đeo túi
dết, dắt theo cậu Quỳ lăng xăng. Anh dạo các xóm, ra đồng xem gặt, chào
hỏi nhắc gặt mau giấu kỹ, chớ nên quên đào hào vót chông, vân vân. Bà
con ngừng tay mời anh bát nước rồi ai lo việc nấy. Bốn năm ông lão tìm
chỗ làm kho mật không ra, chạy đến hỏi tôi, tôi khuyên gặp anh Liệp, các
ông lắc đầu: “Hỏi rồi làm trái chắc ảnh giận, làm theo thì...ảnh biết
cái khỉ khô gì đâu, thôi hắt!”. Họ băng đồng đi tìm anh Luân, Mẫn, Năm
Ri, ai cũng được, trừ anh chủ tịch xã đang ngồi nói tình hình thế giới ở
nhà bên. Cay thật!.

Ra khỏi ấp, Mẫn xấu hổ cứ phân trần mãi cho chị S.22:

-
Chỉ bị phản một lần bây giờ chờn miết. Để em nói chú Luân viết thơ, chỉ
phục chú Luân nhứt. Số du kích của chỉ moi túi lấy lưu đạn, khi gài khi
ném, hạ được cả chục đứa mà không lộ. Ở xóm này ngó thấy đường ô-tô,
thấy sân bay, lợi lắm, anh chị đừng bỏ uổng.

- Đời nào! “Trâu đô, rô mề, trê ổ”,ai chịu bỏ. Mà tụi tôi vận động mấy cũng nhẹ công hơn cô hồi đầu...

Mẫn tròn mắt:

-
Không đâu anh. Chỉ gánh một gánh cá lên Tam Sa bán, nửa đêm ra chỗ đốt
rào ấp tìm em nói gọn trơn: “Tao coi mày cách mạng thứ thiệt, cho mày
bốn trăm đây, có công tác gì chia tao phụ với”. Ba năm rồi, em mới xuống
đây có hai lần, chỉ với bà chị S.26 lên ta hoài, Năm Ri tưởng điệp đòi
bắt miết!.

Chúng tôi lại đâm ra giữa trảng rộng, nơi địch ít phục
nhất vì chẳng biết phục chỗ nào. Đỡ cái nạn nhất bộ nhất bái, mắt tai
bớt căng. Gió thổi thông thốc, tấm dù Mẫn quàng bay xòe dưới trăng, đùa
với những nét thân thể Mẫn mà từ lâu tôi đã nhận là rất đẹp. Đi một lát
Mẫn cởi tấm dù, xếp nhỏ lại giắt vào thắt lưng cười: “Để vậy thầy Thiêm
rầy chết, mục tiêu bằng cái bồ mà lại vẫy cho địch nó thấy!”. Chà, nếu
tôi dám bảo Mẫn đừng rời đôi cánh nhỉ. Thầy Thiêm nghỉ phép rồi, chỉ còn
cậu thợ ảnh đi bên Mẫn thôi, con mắt to bằng ống kính f.2 là ít, rất
ham tìm những trò chơi ánh sáng đột ngột của trăng soi nhiều góc độ...

Cảnh
trăng trên cát gợi nhớ những tấm ảnh tôi tập chụp bằng loại phim bắt
tia cực đỏ, cây đen và đất trắng xóa trông hệt mùa đông miền cực Bắc.
Hồi nào nhỉ, tôi đã biến cảnh nắng trưa thành trăng khuya bằng kính xám
trung tính ND8... A, nhớ rồi. Đó là lần tôi chụp những cảnh ngoài trời
đạt nhất, và sau đó suýt đập máy.

Mộng Nga có hàng chục cô bạn
cùng tuổi đều ham cười duyên trước ống kính và trên nóc tủ, đều tin rằng
ảnh đẹp là do mình xinh, ảnh xấu tại thằng thợ tồi. Bao giờ tôi cũng
chụp họ trong xưởng, bật từ năm đèn trở lên, sau đó còn sửa phim cho họ
thành minh tinh màn bạc cả, giống hay không chẳng cần. Chỉ một lần nể
lời Duy Hảo nằn nèo mãi, tôi mới cùng đi chơi bãi tắm Mỹ Khê và chụp cho
hai anh em hai cuộn phim 6x9, một màu và một đen trắng, máy Rô-lay thay
kính màu liên tiếp. Khi đi thì cực chẳng đã, khi cầm máy tôi bị quỷ ám
ngay, có khi mất nửa giờ vè vè chung quanh Mộng Nga mới bấm được một
kiểu ưng ý. Nga mặc áo dài hay áo tắm đều ăn ảnh, lại chịu khó vâng lời
đạo diễn. Tôi tráng, sửa và phóng rất kỹ, chiếu hôm sau đem dến cho anh
em Nga một xấp ảnh 13x18, riêng Nga có 6 ảnh màu có thể lên bìa tạp chí
cả. Nga mừng rú, cả nhà xúm lại túm tắc, mẹ Nga không ưa tôi mà vẫn trầm
trồ tiếc hồi trẻ chưa có tấm nào đẹp như thế, cô em Nga ghen với chị
muốn khóc. Tôi chuồn lặng lẽ, chợt thấy chán ngấy chán lợm, ghét tôi và
tởm cái nghề phó nháy. Là bởi khi tôi phóng xong bác thợ già chấm ảnh vô
tình kể rằng bãi Mỹ Khê bây giờ chôn hàng trăm “ông bà bên kia”, thỉnh
thoảng người ta đào được những xác còn dây trói ké, mang vết dao cắt cổ
hay rạch bụng. Thì ra suốt một buổi tôi đã dẫm trên thây đồng chí đồng
bào, mê mẩn tìm đường nét và màu sắc trên vai, ngực, đùi của một cô gái
ăn không ngồi rồi, chao ôi nhục! Từ đó tôi cạch, không chịu đi chụp
ngoài trời cho bất cứ ai, mặc kệ chủ giục và các cô quen chê gàn chê
lười.

Bây giờ khác rồi. Tôi muốn ngắm Mẫn đi ngược gió, tóc mai
bay lất phất dưới mũ tai bèo, vai hơi nghiêng phía tay phải kẹp các-bin,
thân thon dẻo rướn về phía trước, chợt thèm được ghi một hình ảnh đẹp
hiếm có, chưa chắc sau này còn thấy lại. Tấm ảnh chụp Mẫn đêm nay, tôi
có thể kẹp trong sổ tay, giữ mãi trong túi ngực, xem đi xem lại đến già
mà không gợn chút ân hận nào. Và nếu ai đó bấm hộ cho hai chúng tôi đi
bên nhau...

- Gần tới xóm rồi. Đây có mấy gò cát cao, tụi hải
thuyền hay lên ngủ nín, coi chừng nghen. Ta đi rải như hồi nãy. Hễ chạy
lạc thì coi dấu trên cát, trở lại chỗ hộp thơ chị S.22, nhớ chưa Tâm?

*

Thế là rõ.

Tụi
lính cổ da Mỹ đã vào Chu Lai, sáng nay, rất kín tiếng. Mới có một đại
đội thuộc sư Ba đến trước dò đường dọn chỗ, khoảng một tuần nữa chúng
mới đổ bộ đông, đẩy sư Hai ngụy ra khỏi căn cứ, rào vòng ngoài cho
chúng. Tên trung úy công binh ngụy đã hậm hực xì những cái đó cho bác
S.24 nghe sau nửa chai rượu a-nít: “Cà cưỡng lót ổ cho tu hú đẻ, rồi còn
lo bắt sâu về nuôi nữa. Tôi lột được lon là xé con heo lứa liền tay!”.

Đài
ta nói Mỹ lén lút vào Đà Nẵng, tôi nghe lạ tai, thằng đi hà hơi thường
làm ồn ghê lắm để lay thằng hấp hối mới phải chứ. Chúng sợ dân Đà Nẵng
nổi dậy chăng? Chu Lai là đất hoang, tha hồ chúng đánh trống cho tụi
nguỵ khờ người xếp hàng gào cái câu mà báo nước ngoài đã ghi: “Chúng tôi
đến đây nhằm bảo vệ tự do!” Hay muốn oai hơn nữa chúng càn phủ đầu vào
vùng ta. Hạm đội Bảy dàn ngoài khơi bắn rùng rùng, máy bay từng đợt thả
bom, tàu đít bằng đổ xe tăng vào bãi, trong khi máy bay bụng chửa đùn ra
từng chùm lính dù và trực thăng trút quân xuống nhét xuống nhét nút sau
lưng Vi-xi. Đại binh của chúng sẽ tiến theo kiểu bò của con vắt no máu:
cái đầu ngoe nguẩy rướn lên xa, bấu xuống đất, cái bụng đầy mọng ì ạch
lết theo sau, giữa một bầy ruồi nhặng vo ve.

Tất cả những cái đó
chưa xảy ra. Càng hay. Tôi biết một cô giao liên ưa dặn khách sẵn sàng
đón những khó khăn trên đường: dốc cao, thác lũ, vô số bom, đi tối mịt
mới tới nơi, nghe dựng tóc. Tiếp đó là một buổi đi êm ru, đúng trưa đã
được treo võng, giặt phơi còn kịp khô, khách chỉ cười khà chứ chẳng ai
kêu.

Bác S.24 phơi bộ ngực dân chài nổi múi thịt đen như mun, vuốt
chòm râu đen cố nuôi dài tránh bắt lính, tả khá sắc các kiểu súng, áo
quần, xe pháo của tụi Mỹ, rồi cười mũi:

- Cá thối nó vậy, giòi
sanh trong ruột trước, đợi nở nhiều mới bò ra ngoài, hóa ruồi đi kiếm
ăn. Mà thứ này chánh hiệu ruồi xanh, to con, bay ồn, đập trúng lại mau
chết ông à.

Chúng tôi hụt ông cụ S.18 bị bắt giam vì chửi thẳng
đại diện ác ôn. Chỗ chị S.22 coi như mới bước vào được một chân. Còn
phải đào và sửa hầm kỹ mới nằm lại dài ngày được, chúng tôi quay về làng
Cá. Chị Mùi tức S.12 bày sẵn một “đại liên” chờ chúng tôi: những bát cá
mè bằng bàn tay kho ngọt, món gỏi mít non luộc bóp đậu phụng mà tôi rất
mê, tất cả xúc bằng bánh tráng nướng, chan thêm mấy chai bia Xan
Mi-ghen in chữ trắng trên vỏ mập lùn. “Làm khách thì sạch ruột”, chị nói
vậy. Tôi ăn đẫy, chị khoái đến nỗi cuối bữa đã chịu gọi tôi là thằng
Tư, dặn tới nhà cứ lục cơm nguội là chị ưng nhất.

Lên tới Lộc
Chánh lúc một giờ sáng, chúng tôi ghé vào hộp thư của Năm Tuất lấy tin.
Anh Năm dặn đợi tại đây hay vào ấp chơi tùy ý, địch dàn trên đường Một
cả rồi, tìm ra kẽ hở anh sẽ tới đón.

Chị Tám muốn gặp một cơ sở
binh vận, rủ Ba Tâm theo gác ngõ cho chị, nhưng nói bâng quơ rằng vào ấp
đông quá chó sủa ồn. Hai người đi rồi tôi mới thấy còn lại Mẫn với tôi.
Hay nhỉ, bốn trừ hai còn hai chứ sao.

Chỗ “hộp thơ” của anh Năm
rất ư là nên thơ. Mẫn ngồi bên tôi giữa biển cát cồn lên lượn xuống như
sóng lừng trải rộng hết tầm mắt, trăng loa lóa trên những dóng cát hình
lưỡi búa. Chỉ còn hai đứa thôi trên chiếc bè kết bằng cỏ gấu sẫm màu,
giữa có cây dương cao vi vút như buồm.

Gió mát, trăng trong, đêm
thanh vắng...tôi biết tôi sắp nói với Mẫn cái câu “anh yêu em” mất rồi.
Một cơn sợ bỗng chặn cứng ngang cổ. Ngốc, sao lại hoảng? Mọi ngày làm bộ
ngổ ngáo, bán trời chẳng ngán thiên lôi đả, bây giờ lưỡi dính vào
miệng. Mẫn đấy, cô gái đáng yêu nhất đấy, hùm beo gì mà khiếp? Tôi nuốt
nước bọt, liếm môi, ho liền liền. Chưa...chưa được, nói lúc này chắc tôi
cà lăm. Tỏ tình mà cà lăm là vất đi. Coi chừng hiện nguyên hình là con
thỏ đế. Chỉ cần vài phút bình tĩnh.

Tôi cố nghĩ xem lúc này anh
con trai phải khai khẩu ra sao. Chẳng nghĩ được gì. Mụ người. Tôi thoáng
nổi cáu với mình, cả với Mẫn. Đi lẻ nhiều, tôi đã ngồi thế này với mấy
chục cô du kích khác nhau, lắm cô xinh ra xinh, tôi có ấp úng chút nào
đâu, bây giờ đổ đốn ra vậy. Mất nửa giờ rồi. Tỉnh táo một chút, hẳn
chúng tôi đã đến cái đoạn trăng thề quạt ước rất lâm ly - tôi lén rút
cái quạt mo tôi đang lót ngồi một cách phàm tục hạng nặng. Hoặc tôi đã
ăn vài cái tát, đang xoa má nghe giảng đạo đức. Có thể chăng? Khó tin.
Biết đâu đấy. Cứ nói thôi, được ăn cả ngã về không. Tôi vỗ bép vào trán
một cái thay súng lệnh. Hai, ba nè!

- Anh buồn ngủ, ngủ đi một chặp, em gác.

Từ
nãy Mẫn cứ quay mặt phía đường Một và ấp Lộc Chánh. Tưởng mắc cỡ té ra
Mẫn ngó chừng địch, còn tôi ở đằng sau cứ nghĩ ba lăng nhăng. Mẫn xoay
người lại, cười. Khuôn mặt trái xoan mà tôi đã thuộc nét một lần nữa đổi
khác, nổi đẹp rạng rỡ dưới ánh trăng, nhòa đi từng lúc, lại rõ. Chói
chang khó ngó, trao lời khó trao. Anh liều đây Mẫn ơi, anh sắp ngỏ với
em cái câu mãi đến nay chưa hề ra khỏi miệng. Hễ không yêu, em cũng đừng
ghét anh nhé.

- Dốt thiệt chớ!

Mẫn chép miệng, tôi bỗng hết
sợ. Đúng là tôi dốt một cây. Cô bạn rất dễ thương chứ ai xa lạ, tự dưng
tôi lại coi như cái lô-cốt chơm chởm họng súng, còn tôi hóa ra chú lính
mới, vừa mò tới vừa lo chạm mìn hay bật ho. Nếu Duy Hảo biết, hẳn cậu
đã dán cho tôi cái nhãn mới đờ-mi phu,đờ-mi tốc(3). Cậu ta bằng tuổi tôi
mà thư tình viết chẳng phải quẹt chữ nào, chắc hẳn tán dẻo chẳng kém
mạch nha, có đâu tệ hại như tôi.

 

(3) Nửa điên, nửa hấp

 

-
Bọn em dốt ghê. Nãy giờ nghe anh bày cho cơ sở theo dõi Mỹ cái này cái
nọ, em xấu hổ muốn chết. Mỹ đến bên hông mà em chưa hiểu tụi nó gì hết,
mới biết nó hơn võ khí kém tinh thần, cấp xã mà cứ nói chiến lược như
trung ương, đây rồi bà con lại kêu: “Mày nghỉ ngơi cho khỏe để tao mở
đài nghe hay hơn!” Thầy Thiêm rán giúp nghe thầy?

- Nhứt thầy nhì thợ công xá tính sao cho phải...

-
Khỏi lo, công anh cứu lụt là một, giành lại bàn đạp là hai, bây giờ kèm
tụi em đánh Mỹ nữa thì coi bằng...bằng ông đô đốc Tây Sơn!

- Ờ, thì hồi nào chết thì được về làng Cá, vô núi chúa?

- Sống tết chết giỗ chớ. Mới đại liên cá với bia còn đòi gì nữa....

Tôi
bông phèng bằng cái giọng “con trai với nhau”, bụng hết rối lại tiếc
cái không khí say người vừa tan. Mẫn đối với tôi chỉ bấy nhiêu thôi ư,
lâu nay tôi ngỡ Mẫn đã có chút gì vương vấn rồi chứ. Con gà rừng đến ăn
chung với bầy gà nhà trông hay hay nhưng nó sẽ bay vào rừng, biến mất,
không kết đôi được đâu.

- Mỗi người kêu một phách, em nghe thiệt búi. Ma-rin, mê-rin, thủy quân lục chiến, lính thủy đánh bộ, lính cổ da...

- Là một thôi Mẫn à, cũng tụi nó cả.

Rất
nhanh tôi bị cuốn vào chuỗi câu hỏi dồn dập của Mẫn. Không nghĩ vớ vẩn
nữa, chỉ căng óc mà nhớ những gì đã thấy đã đọc về quân Mỹ. Cô học trò
càng nghe càng ham. Có lúc tôi bốc, nói to, Mẫn lại nhắc: “Nhỏ nhỏ chút
anh, anh ngó qua vai em đi”. Ngồi nghỉ trên bãi, chúng tôi quen lệ chia
nhau trông các hướng, hễ chụm lại bàn việc thì người này phải ngó chừng
sau lưng người kia. Từ hộp thư này đến chỗ địch dăng hàng phục kích dọc
đường nhựa, ước chừng một cây số thôi.

-...Không lính thủy đánh bộ
là quân chủng riêng không nằm trong lục quân. Tụi này chuyên đi đổ bộ
ăn cướp các nước ngoài. Tin của Pháp nói số tới miền Nam mình đầu tiên
đây toàn là lính nhà nghề hết, không có quân dịch, giết tụi này sướng
tay lắm nghen...Anh em Đà Nẵng báo về là tụi nó mang Ga-ran M.2, thứ này
bắn liên thanh được. Hình như sắp thay AR.15, là tiểu liên cực nhanh
đó, có hai chân để riêng kẹp vô cổ bắn như trung liên, đạn nhỏ bằng mút
đũa. Trung đoàn anh lấy được mấy cây AR.15 rồi, nó đưa cho tụi dù ngụy
một số, đánh thử. Cối cá nhân là phóng lựu M.79 đó, như cây súng săn
nòng to bằng ống tre. Em thấy rồi hả? Hào của mình phải khoét nhiều hàm
ếch, trên che nắp đất, đỡ bị M.79 phá rầy...Mình đánh tụi này bà con
Triều Tiên ưng bụng lắm. Hồi xưa sư một lính thủy đánh bộ húc vô Triều
Tiên trước hết mà...

Tôi không ngó qua vai Mẫn được nữa. Đôi mắt
hơi ướt long lanh, nụ cười ngập ngừng, bàn tay nhỏ nằm gọn giữa hai tay
tôi kê trên gối, tôi chỉ còn thấy bấy nhiêu. Từng lúc Mẫn quay đầu nhìn
quanh một vòng, chẳng biết xem chừng địch hay ngại chị Tám đến đột ngột.
Cái giọng chỉ giành riêng cho Mẫn, cho những lời đắm đuối nhất, tôi lại
đem đi nói chuyện giặc Mỹ, than ôi!.

-...Cái mật danh Cu-ba, anh
đặt đó. Em biết không, làng Cá mình giống y nước Cu-ba, bây giờ nằm bên
căn cứ Mỹ, cách một bãi cát rộng như eo biển, càng giống. An Tân, viết
tắt là A.T..., như súng chống tăng, anh đề la Badôca cho khó đoán. Sắp
tới tụi minh ít đi chung với nhau..., anh lên làng Cá luôn mà..., em cứ
ghi sổ từng bài, vài ngày anh gặp em một lần, anh bày. Tiếng Mỹ nói hơi
khó một chút mà mẹo luật dễ, em học được quá đi chớ...

Mấy ngón tay búp măng bóp nhẹ tay tôi, lần đầu Mẫn nói rất khẽ như sợ phải nghe tiếng mình:

- Anh đừng qua đường nhựa nhiều, dễ bị lắm. Để em xuống thôi.

- Không sao...

-
Em lãnh hai ấp vùng cát, đổi anh Tuất làm kinh tế. Anh về Lộc Chánh gặp
em, khỏi qua đường nhựa, hồi nào cần...em đi với anh..., như tối
nay...em đỡ lo cho anh.

Trong cơn chóng mặt tôi chỉ ấp úng được
một tiếng “em”. Mẫn cúi đầu. Qua bàn tay mềm tôi thấy Mẫn rùng mình.
Hình như Mẫn “dạ” trong hơi thở gấp. Và bỗng dưng không có gì báo trước.
Mẫn ngấc đầu, chống cây các-bin đứng dậy rất vội. Trăng soi lóa trên
khuôn mặt bơ phờ. Mẫn lắp bắp:

- Em...mắc chút việc...

- Mẫn!.

Tôi
cũng đứng vọt lên, Mẫn bước né sang bên, nhìn tôi bằng cặp mắt van xin
của con hươu bị dồn sát lưới, một tiếng gì như thổn thức bật qua mũi.
Tôi nắm tay Mẫn, nhận ra Mẫn run như sắp ngã. Lặng đi mấy giây, rồi Mẫn
giật tay cầm súng đi thẳng vào ấp.

- Mẫn!

Cái bóng thon nhỏ
chìm nhanh trong sương. Tôi dựa gốc dương ngó theo, một lát sau không
thấy sương nữa mà cũng không thấy Mẫn, chỉ còn trăng tỏa trên cát trắng,
im lặng và rất lạnh. Tôi muốn giật mình mở mắt, thấy tôi đang ngủ trên
võng mắc giữa hai cây cột tre trong nhà mẹ Sáu như thế dễ hiểu hơn
nhiều.

Nửa giờ qua, một tổ du kích dẫn bốn chúng tôi băng đường
Một. Bà con làng Cá đã ra đồng, lưỡi vằng ăn lúa xoèn xoẹt và lóe những
tia thép dưới trăng. Chỗ đầu xóm, Năm Ri đang chia từng khúc hào cho các
nhóm làm làng chiến đấu. Mẫn chào lúng búng, rẽ về nhà với chú em trai
đang ngủ gật vấp lên vấp xuống. Chị Tám lại cười nụ cười lấp lửng:

- Hai cô cậu nói chuyện vui lắm hè?

- Toàn chuyện đế quốc sài lang, vui gì.

Câu này đúng sự thật trăm phần trăm, còn hơn thế nữa.

 

Báo cáo nội dung xấu