Mẫn và tôi - Chương 15 (phần 1)

 

Mặt trời còn một con sào Mẫn đã gọi chúng tôi ngừng gặt, trêu luôn:

- Để coi cậu tú bó lúa, bảo đảm lắm, gánh tới nhà còn y nguyên cây đòn với cặp dây!

Tôi gạt mồ hôi cằm, vặn lưng trả miếng ngay:

- Hèn gì có kẻ mét với chị Bỉnh, hồi cứu lụt.....

- Sao?

- Cái anh gì cao, trắng trắng, bộ tướng như học trò thành phố đó, coi người như rác! Tạch- tạch- sè chánh hiệu mà!

Mẫn
ngớ ra rồi cười phá, cười đến không đứng được nữa, ngồi thụp xuống bờ
ruộng mà cười rũ. Đến khi tôi nâng hai cánh tay đặt trên vai Mẫn gánh
lúa nặng ước sáu chục cân, Mẫn mới kêu “Thôi, biết ông giỏi rồi!”.

Tới
đâu tôi cũng bị hiểu lầm vì vóc người lêu nghêu và nước da không chịu
ăn nắng, trông rất chi là lính cậu, là “phóng văn lình” tức lính văn
phòng. Cộp một trận, phát rẫy hay cày ruộng vài ngày tôi mới được nhận
là lính chiến, gốc gác làm ăn. Có lẽ chính cái mẽ ngoài phản chủ ấy nó
thúc tôi học nghề thật kỹ để xóa nhanh cái ấn tượng “dân thầy”, hóa ra
nó cũng có lợi.

Đến nay, về nơi nào chưa quen, tôi thường nhét
súng ngắn vào bao - cái câu “súng lục là súng bao vây đầu phồng” sống
dai gớm! - lội xuống ruộng trước, để cho sự tin cậy của bà con bắt đầu
từ chỗ mỗi cuộc đời cách mạng bắt đầu, từ giọt mồ hôi rớt xuống chén
cơm. Câu chuyện sau đó mới thật là tâm sự giữa những người đồng cảnh
đồng tình. Dần dà, nếu có dịp sửa giúp cái máy nổ, bày những câu gọi
hàng lính Mỹ, nói tình hình thế giới trước một lớp học, tôi mới được xếp
vào loại “con nhà nghèo được cách mạng dạy nên khôn” Như thế đúng thực
sự hơn là lối coi tướng của cô Mẫn. Tuy những anh học trò mới đi bộ đội
thường được bà con cưng hơn một chút - nhà khá giả mới đủ tiền cho con
ăn học, đời học trò ở phố phường xa mưa nắng bom đạn, bây giờ đánh Mỹ
mới nếm mùi cực khổ, coi thiệt tội...- nhưng tôi biết mức tin cậy có
khác với những anh được gọi là “lính cùi đày(1)”, cả người lẫn nết đều
vững như hòn đá kê chân cột. Các bà mẹ vốn thương con út mà tin con đầu
lòng.

 

 

(2) Cảnh sát thời Pháp thuộc

 

 

Vừa
chơi ác, đặt cho Mẫn một gánh nặng xong, tôi hối ngay. Mẫn không khỏe
mấy, chỉ được cái dẻo dai. Tôi nắm đòn xóc giữ lại: “Giỡn thôi, để
anh...”,. Mẫn lắc đầu gạt tay tôi: “nhà gần mà!”.

Tôi trông theo
Mẫn chạy thoăn thoắt mới hết lo, quay sang bó tiếp cho Út Hoà, Ba Tâm,
giả vờ không nghe câu đùa lơ lửng của chị Tám đang xếp các lượm lúa: “Họ
thương nhau ghê ta!”.

Thưa bà chị hay giễu,chị muốn cười hở mười
cái răng, nháy nháy với người thứ tư nào đó, ví von bóng gió về cây si
hay bệnh cảm, xin cứ việc! Tôi buột miệng, xưng anh với Mẫn, đã lỡ cho
nó lỡ luôn, hơn Mẫn bẩy tuổi không làm anh được à? Tôi cãi thầm với chị
Tám như thế, đến lúc chị giằng tay tôi, kêu:

- Cậu tú ơi cậu tú, trả thù dữ vậy sao sống nổi!

- Ờ......

Thì ra tôi đang đạp chân riết một bó lúa to bằng bồ, phần chị. Tôi vội chống chế:

- Không... tôi tính về trước một gánh...

- Rồi bỏ lúa ai xóc? Đây về nhà có phục biệt kích đâu mà phải kèm?

Tôi
đóng kỹ cái vai anh khờ, chỉ cặm cụi bó một đôi lúa nhẹ hơn cho chị
Tám, một đôi khác cho Mẫn đi chuyến thứ hai, còn bao nhiêu làm một gánh
vét sòng. Mẫn trở ra ruộng, sửng sốt kêu tôi phá sức, sụn xương sống còn
gì. Thật tình tôi cũng hơi lo lo, lâu nay chẳng gánh gồng gì, sợ mất
thói quen. Tôi bắt đầu tính xem trên chặng đường vào xóm có mảng tường
hay tảng đá nào có thể kê đòn mà nghỉ chăng, nếu run đấu gối không bước
được nữa như keo gánh thi năm ngoái. Mẫn ghé vai cho tôi đặt gánh, lại
đứng đợi tôi mới chết chứ. Trót yêng hùng rồi, đâm lao phải theo lao...
Không ngờ tôi mạnh đến thế. Xóc bó lúa “sạt” một tiếng là lút như đâm lê
vào bù nhìn rơm, nhắc bổng nó lên xóc bó thứ hai mà không hề tì vai hay
chống đầu đòn xuống đất, chạy thẳng một mạch về sân nhà Mẫn, dọc đường
chỉ đổi vai một lần, tất cả đều gọn trơn. Khoảng chín chục cân, tự phá
kỷ lục rồi, bà con trông thấy cứ tấm tắc. Chém chết tui cũng không dám
nhận rằng đó là kết quả của một câu nói khích, và nhất định không trông
thấy vẻ mặt bối rối của Mẫn cùng nụ cười gán ghép của chị Tám. Khờ mà!

Đêm
nay chúng tôi xuống vùng biển phía bắc Chu Lai. Lội cát phải mặc màu
nhạt. Tôi giội gấp mươi gàu nước giếng, thay bộ ka-ki bạc màu nhất. Chị
Tám mặc bà ba màu lục trông hệt bà đồng. Mẫn mượn được cái áo xanh da
trời, nhưng cứ bị quần đen không có gì thay đổi, tôi cho mượn tấm dù hoa
hai chéo phủ đến gối, coi như ổn. Ba Tâm đòi mãi mới được theo chị, chỉ
mặc quần đùi vải rằn và cởi trần.

Tam Sa ở cuối tỉnh cuối huyện,
cấp trên gửi giấy hỏa tốc báo địch càn thì nó đã càn xong xuôi cả. Anh
Luân và Mẫn lặn lội đi móc được một số cơ sở riêng ở thị trấn An Tân và
vùng bắc Chu Lai, hễ địch tăng quân dồn xe thì họ báo cho Tam Sa biết,
hụt xe lam đã có xe gắn máy, xe đạp. Lâu lắm các đội công tác An Tân,
Tam Hải, Tam Giang mới hay mình bị phỗng tay trên, kiện với huyện. Anh
Bảy quai nón cười xòa: “Các cha thừa đất bỏ hoang, Hai Mẫn tới vỡ, phải
để nó hưởng lộc ba năm không đánh thuế!”. Hôm nay chị Tám và tôi được
“sang tên” sáu cơ sở gần Chu Lai, coi như cái vốn đầu tiên để bủa thêm
một mạng lưới nữa quanh căn cứ Mỹ. Chị Tám tìm hiểu mặt đấu tranh chính
trị, tôi mặt quân sự. Có thể Ba Tâm được ghép với chúng tôi để chạy thư
thẳng về huyện và H.68, chú năn nỉ riết nhưng anh Bảy còn ngại nhỏ quá.

Ăn
xong chúng tôi đi ngay. Quân phục kích dăng liên miên dọc đường Một,
đổi chỗ luôn, phải trông chừng chúng từ khi còn sáng. Chúng tôi băng
ruộng lên phía bắc, gặp tổ du kích gác trên đồi lấy tin: địch rải dày mé
dưới mặt đường chặn giữa làng Cá với Lộc Chánh. Phải vòng lên xa nữa.
Tới một xóm lẻ còn trơ các nền nhà cháy, Mẫn dừng lại, tủm tỉm:

-
Em là dân bổn địa, chỉ huy dân tứ chiếng, ừ nghen? Bây giờ em ra đường,
chị Tám giũ chà là, anh Thiêm với Tâm ai liệng xoài giỏi hơn thì ở lại
đây, ai kém đi liên lạc. Ám tín hiệu, đường tiến đường lui nhớ kỹ chưa?

Đây
là xóm Gò Xoài, bị địch đốt trụi để dồn vào ấp chiến lược. Vườn xoài bỏ
hoang lu bù, tôi ném lựu đạn không tồi, nhưng mới thử sức vài lần đã
chịu thua Ba Tâm. Chú ta chưa rút ná cao-su mà trái lớn trái nhỏ đã rớt
lịch bịch. Khúc cây vọt khỏi tay Tâm, xoay tít như bánh xe, quất trúng
những nhánh xoài đầy trái vàng đung đưa. Lớn chút nữa tay này ném lựu
đạn hẳn là lọt lỗ châu mai thun thút!

Tôi theo Mẫn băng gò ra chỗ
quan sát cách chừng nửa cây số, càng tới gần đường càng dò kỹ, có khi
địch lên phục tận đây. Chúng tôi nằm bên một gốc mua, thò đầu dòm xuống
sườn dốc, súng đơm sẵn.

Con đường bị băm nát từ lâu, quãng này còn
sót đường ray kẻ hai dòng đen song song trên đá lót xám, chạy qua cát
trắng. Cỏ gấu loang từng mảng nâu đỏ. Dương liễu mọc thấp, cành lá thưa
đâm ngang thành bụi. Xa hơn một ít là vệt đen rộng và bóng của đường
nhựa, hai mép quét vôi trắng phòng ta chôn mìn, bị những cồn cát nhấp
nhô tre khuất từng đoạn. Phía bắc cách ba trăm thước có cặp lô-cốt giữ
cầu. Phía Nam hình như vắng.

- Tụi nó kia, anh.Chỗ cống xi-măng ngó xuống.

Mẫn
chỉ mé tay phải. Tôi nhìn kỹ cái cống trắng, nơi cậu Ri đánh mìn lật
một chiếc GMC đầy lính tháng trước. Địch nằm cách đường nhựa chừng hai
chục thước, nép sau những bụi ngũ sắc rậm. Áo quần chúng chìm vào mầu
lá, nòng Ga Ran sơn lá mạ cũng vậy, tôi nhận ra chúng nhờ vào cái báng
súng nâu đen cựa quậy bên những đường cong tròn bóng của mũ sắc, cây lá
không có nét cong đều như thế. Người đi dọc đường nhựa không thấy được
địch, nhờ dòm xuyên hông chúng tôi mới moi ra. Mỹ vào có khác, ngụy đem
xác đi rào dày kinh, dạo trước Năm Ri dẫn tôi đi dễ hơn nhiều. Cũng trên
đường Một này, anh em xê mình đóng trong kia đang đạp xe “kính ông” vào
thị trấn Tam Quan ăn phở, tôi ở đây núp rình mãi mới tìm được chỗ vọt
ngang. Ức thật...

Mỗi lần xuống vùng địch, tôi lại thấy mình thành
con trâu trắng làm khổ mọi người, “trâu trắng đi đâu mất mùa tới đó”.
Các đồng chí phải lo dẫn tôi đi đêm, xếp hầm bí mật, gác đầu ngõ cuối
xóm, quá đỗi cồng kềnh. Trong khi đó Út Liềm cứ đạp xe vo vo đi khắp
nơi; chị Tám và Mẫn lựa lúc vắng bọn ác ôn quen mặt là thay áo trắng ra
dạo đường nhựa, tán gẫu với lính tha hồ.

Tôi quay về gọi chị Tám
và Ba Tâm. Chà là được một túm bằng trái dừa. Bao lưng của Tâm đầy cộm
những xoài. Dạo này địch chặn soát và bắn súng vung vãi nên bà con dưới
biển ít lên vùng đất vườn Tứ Nhơn, chứ trước kia, “mít non gửi xuống cá
chuồn gửi lên” cứ kìn kìn. Lần nào xuống biễn Mẫn cũng nhớ mang quà, mùa
nào thức ấy.

Bốn chúng tôi ngả ra liên hoan nhỏ trong lúc đợi tối, Mẫn nhắc:

- Tiểu liên thôi nghen. Xuống dưới kia còn trung liên, đại liên, mấy bữa nay

biển trúng cá lu bù.

Pháo
An Tân bắt đầu rền dài bắn lên dọc sông Rù Rì: đợt pháo quen lệ của
địch lúc cánh đồng lớn đã sẫm đen dưới bụng tàu rà. Chúng tôi xâu dép
vào thắt lưng, lên đạn, ung dung bước qua hai thanh ray gỉ, dẫm lên
những mớ gỗ toác và sắt quằn của những đoàn tàu quân sự bị lật, xác mới
đè xác cũ, nay đã đều không còn tuổi. Đến gần đường nhựa chúng tôi nghe
ngóng lâu hơn. Rồi Mẫn vẫy tay. Mỗi người phóng mấy bước trên nhựa ấm,
thoáng thấy vài mảng sỏi Xám vá đụp, hít một bụng hơi xăng, rồi chạy
thẳng một lèo trên bãi trống

Vượt non cây số chúng tôi mới dừng
nghỉ chỗ cát trũng, vừa nghe tiếng máy rù rù. Xe địch đi đổi lính. Đèn
pha đặt trên các xe boc sắt quét loang loáng qua đầu. Xe tải chạy cách
nhau khá xa, không bật đèn, không dừng, cứ việc bò chậm trong khi quân
mới nhẩy xuống và quân cũ leo lên. Tụi sư Hai ngụy làm cái trò đấy để số
du kích bám đường không biết chúng thu quân hay rải quân, dọc tuyến chỗ
nào kín chỗ nào hở, khá ranh đấy.

Chúng tôi đi dọc xuống biển. Sau lưng chúng tôi, các ổ phục kích của địch đang đổi chỗ, đơm súng chặn đường về ở đâu không rõ.

*

* *

Biết không thể sốt ruột được mà tôi vẫn sốt ruột. Sự đời nó vẫn vậy.

Đi
chừng nửa giờ trên trảng cát phẳng và trần trụi,chúng tôi đến một xóm
lẻ. Chị S.12 mở toang cửa, vặn to ngọn đèn Hoa Kỳ, đánh thức chồng dậy
mà coi “Chị Hai Mẫn với cán bộ mình cả mờ”, cho con đi gọi hàng xóm nữa,
y như giữa vùng giải phóng. Chị Tám đưa con mắt hỏi Mẫn, Mẫn giật khẽ,
ra ý “ không ẩu đâu”. Chị S.12 kéo tôi đến bên đèn coi mặt, giảng một
hơi:

- Xóm đây năm nhà mà một bụng anh à. Dân cách mạng nòi hết.
Tụi tôi ăn giỗ với nhau, thề rồi, ai lén đi báo cáo báo chồn với tụi hội
đồng thì mấy nhà khác muốn tự tay chặt hay rước Giải phóng về ngứt cái
đầu tùy lòng, chị Hai cầm quân đánh giặc trên làng Cá chớ đâu xa...
Chẳng có thằng lính nào đang đêm dám léo hánh tới đây, mà tới thì tụi
tôi biết trước cả buổi. Tụi nó nói ở xóm lẻ dễ chứa Việt cộng, mà cũng
đúng vậy, nó đem xe em-mờ tới hốt vô ấp, cả xóm dàn ra đòi đổi mạng nó
mới buông... Mỹ đổ bộ hả? có nghe gì đâu!

Bà con trong xóm kéo đến
chật nhà ăn xoài với chà là, uống trè nhỏ, tán lu bu chuyện. Tất nhiên,
tôi phải xuýt xoa vì trót sinh sau đẻ muộn, không được quen ông Lê Tự
Cường mà cả huyện đều biết, làm tới chức trung đoàn hay trung đội gì đó
hồi đánh Tây, cùng sáu con em của xóm này vừa tập kết vừa đi Giải Phóng.
Xóm nhỏ mà niềm tự hào thật lớn. Ai cũng nhắc cho tôi nhớ kỹ đây là đất
mình, dân mình, tới đây muốn hát bội làm tuồng bao nhiêu thì cứ thả
cửa, gửi lại vài ba chục anh em cả tháng bà con cũng giấu và nuôi được
hết.

Tôi ngó quanh, sững sờ.Tưởng chỉ miền núi mới có những “làng
độc lập” chứ, những làng mấy trăm năm nay ẩn kín trên núi cao, dân đi
đâu thì đi chứ chưa hề có người nào lọt được vào làng, đến thời chống Mỹ
này mới mở cửa đón anh Giải phóng là một. Ra giữa biển cát này cũng có
những hòn đảo tự do, trắng địch.

Bà con xúm trách Mẫn lâu không
xuống,và phân bua liền cho Mẫn, “nói vậy chứ tụi tao nghe nổ như rang
bắp trên Tứ Nhơn, đi chợ thấy vợ lính ra vô mua hương đèn với hàng mã,
biết bay làm ăn to lắm! Được mấy trăm khiêng cả thẩy?”.

Chị Tám bắt gặp tôi liếc đồng hồ lần nữa, bật cười.Tôi chỉ muốn đuổi theo cái tin giật gân đợi mãi bấy nay....

Bộ
đội gặp nhau,vừa mở miệng đã hỏi độp:”đánh chác sao đó?”. Chị cơ sở gặp
chị cán bộ thì trăm thứ chuyện tri kỷ vụn dây mơ rễ má cứ nối nhau tuôn
ra bằng hết, từ trời cho con cá bè một gánh nhảy sang thằng cảnh sát
mặt sẹo chực đốt nhà, vụ chồng con nhào kẹo với vụ hỏi thuyền bắt ghe,
có trái mìn nổ thiệt tới ngon và có cái điều trước sau em cũng phải ừ
một tiếng cho ảnh yên bụng lên núi mà sao em mắc cỡ quá chị à. Thêm một
lần “xuống cơ sở” này nữa, tôi càng hiểu rõ dân mình đã ngấm đẫm chất
cách mạng đến cái độ lựu đạn vùi lẫn trong thúng khoai, bà mẹ dặn con
đuổi trâu ăn mạ và dỡ gai rào miệng hố chông cùng một giọng, việc đánh
Mỹ nằm lộn lạo trong việc gái trai thương nhau.

Những đêm hội ồn ã
hay thầm lặng của bà con đón cán bộ thế này diễn đi diễn lại, đọng dần
trong tôi hình ảnh rất khác biệt của bà con vùng tạm chiến. Hai mươi năm
đánh giặc, chưa hết, chúng ta đang bước vào cuộc chiến tranh mới, dữ
dội gấp bao nhiêu lần chưa rõ nhưng chắc chắn là sẽ kéo dài. Người dân
vùng tạm chiến vẫn sống kiểu riêng, đánh kiểu riêng trong nhiều năm nữa.
Nỗi khổ và sự nghiệp anh hùng của họ, vốn đã sâu đã cao như biển và núi
kẹp hai bên sườn dải đất này sẽ còn cao sâu thêm mãi. Có không nhỉ, có
dân tộc nào trên trái đất này giàu chiến sĩ địch hậu như ta, có dân tộc
nào mà cả một mảng lớn đã vật lộn trong lòng giặc suốt một phần năm thế
kỷ, không một ngày xả hơi, còn đủ sức đấu võ đấu lý đến một nửa thế kỷ
nếu cần, để thắp lại cái tia chớp đỏ thoáng thấy năm xưa và giữ nó sáng
mãi?

Chi Tám phải gỡ Mẫn ra khỏi nhóm các bà các chị hết khóc lại cười. Ra đến trảng chị búng tai Mẫn:

- Anh Thiêm đang nôn nao tìm Mỹ, mày cứ sa đà, anh dòm muốn đứt cái mặt đồng hồ kìa.

-
Thiệt hả? Còn sớm chưa vô ấp được đâu anh. Với lại em thương quá...Nhà
chị Mùi có tới hai hầm bem ở tốt lắm, hồi nào bám căn cứ mệt anh chị cứ
về đó nghỉ, khỏi qua tuyến đường nhựa.

- Địch dày bấy nhiêu chớ dày gấp mười, cậu Tư cũng bươn lên tới làng Cá cho coi!

Câu ghẹo ỡm ờ của chị Tám khiến Mẫn nín thít và tôi chột dạ: có lúc nào tôi quá lộ liễu không nhỉ?

Trăng
muộn mới hửng một vầng sáng dưới những dải mây viền vàng mé biển chưa
soi đến đây. Sân bay Chu Lai phải bắn đèn dù không ngớt. Một cặp cối to
106ly7 giã đều nhịp đôi. Chúng tôi đi ngoằn ngoèo trên cát dẽ và trắng
nhờ nhờ, giữa những bụi con nổi bóng đen kịt như người ngồi xổm, rồi
bước ra một quãng gò cát nhấp nhô, chân lún sâu hơn. Lâu lắm mới qua
vùng gò cát, sao mà nhớ quá đỗi chặng bãi biển từ Qui Nhơn vào Gành
Ráng. Mỗi bước leo lên trụt lùi mất một nửa, bù cho khi xuống bước chân
duỗi dài thêm gấp rưỡi. Tôi đưa mắt tìm những búi cỏ chông chông để thả
đua ngựa theo gió, bị xóc luôn một chùm gai xương rồng vào đầu ngón chân
cái, nhổ vội lại gãy nằm lì, đành để vậy. Mắt tôi tốt nhưng Mẫn đi đêm
tài hơn nhiều. Một lần nữa đôi bắp chân trắng của Mẫn lại làm lộ tiêu
cho tôi tránh những tấm gai xương nằm lẫn trong cát như bàn chông.

Người
thứ hai được Út Liềm báo trước, ra ngoài ấp đón chúng tôi. Cô Tươi mới
trạc mười chín, dẫn cả chồng theo, chẳng biết sợ ma hay ngại chồng ghen,
có thể vì cả hai. Chúng tôi ngồi lọt giữa bốn tường thành đá ong của
một ngôi mả to trên đỉnh gò. Cô bắt chồng đi gác với Ba Tâm, không cho
nghe chuyện, nói ngường ngượng:

- Ảnh mới trốn quân địch về, chánh
trị chưa vững. Em hối(2) ảnh đi giải phóng vinh dự lắm, ảnh lảng lảng
miết, sau thú thiệt “hễ mình đi tôi mới đi”. Bây giờ ảnh tránh trớ trong
ấp. Thằng ấp trưởng ăn tiền lớp này tới lớp khác, đục đẽo miết mà còn
dọa nghe tức ói, chưa biết hồi nào nó trói giải lên Quân vụ thị trấn...
Chị cho tụi em lên cả hai nghen chị?

Cô S.16 này nhạy hơn chị Mùi,
nghe tin Mỹ vào, cô rủ bạn xuống cửa Xuân Quang hỏi dò. Tụi ngụy ghẹo
chán mới mới kể rằng Mỹ vô sân bay đâu hai trăm, lót ổ nằm nín hơi, Việt
cộng nói Mỹ công tử bột vậy mà đúng y, lính tráng gì mà mới bước ra
nắng đã đỏ như cắc kè, khui bia hộp uống ọc ọc miết. Cô nghe chỉ được
bấy nhiêu, không thấy thằng Mỹ nào cả. Tôi hơi thất vọng. Nhưng khi tôi
dặn những điều cần nắm thêm về quân Mỹ, cô hỏi lại rất kỹ, lặp đến thuộc
lòng. Cơ sở của Mẫn chưa thạo việc, được cái chịu khó. Tôi bấm đèn pin
bọc nhựa xanh cho cô nhận mặt chị Tám và tôi, rồi soi xét cô Tươi: người
còn xinh hơn tên, hèn gì cậu Xáng không chịu rời. Cho thoát cả hai thì
mất người theo dõi Mỹ, thôi để cô khuyên chồng ít lâu nữa xem sao. Tươi
ra gọi chồng vào, ngọt giọng như dỗ đứa em trai bướng;

 

(2) Giục

 

-
Em thưa với các anh các chị rồi đó, hồi nào anh ưng thì em dẫn lên Nhơn
Ái giao cho chị Hai. Em mắc việc nước, chớ vợ không theo chồng thì theo
ai.

Cậu Xáng rất to cao, xem chừng cõng một đế cối 81 trên lưng
không ăn nhằm gì. Cậu lúng búng mấy câu phân trần, rồi theo vợ đi vào
ấp, trông tức cười mà cũng tội tội.

Chúng tôi nhắm hướng biển đi
xuống. Mấy chiếc C47 liên tiếp xà qua đầu, mỗi chiếc đeo một chùm đèn
màu hình chữ thập, thêm một đốm giữa bụng nháy đều. Điện kết chuỗi quanh
đường băng bật sáng, tôi sửng sốt khi thấy những ngọn đỏ cuối sân chỉ
cách chúng tôi chừng bốn trăm thước. Chà chà, cặp mắt bồ câu của cô Tươi
đặt ở chỗ lợi thế quá mất, tha hồ coi Mỹ. Đèn pha trên máy bay thốc
xuống một luồng sáng xanh, hạ thấp dần, nhảy nhảy trên dải bê tông, chạy
tới mảng sáng của đài chỉ huy đàng xa. Rồi phựt một cái, tất cả tắt
ngấm, những chiếc tàu ngầm lớn lặn tõm xuống biển, chỉ còn đạn cối chớp
léo ình ình chung quanh chỗ nó vừa chìm. Quân ngụy vây vòng trong vòng
ngoài mà chúng vẫn giấu hình ghê thật.

Trăng trên biển mọc nhanh
vòn vọt. Một quả bóng đỏ từ dưới nước ngoi lên, lừng lững nhấc mình khỏi
đường chân trời mang vết khía răng cưa của những rặng dương cuối đất.
Dạo ở núi, tôi rất thèm xem lại con trăng to và đỏ như thể bốc vội, đổ
suối bạc to dần qua mặt sóng đến bên tôi. Trăng hiện trên rừng bao giờ
cũng nhỏ, xanh đứng yên trên lá. Tôi thèm vòm trời mở ra mênh mông với
cái nét cắt thẳng băng nơi gặp biển, thèm nằm ngửa cho các chùm sao
xuống sát tầm tay với như một dàn nho chua, thèm dầm mình trong sóng tãi
bọt và sứa trên bãi, thèm thở gió mặn chưa pha mùi đất. Cảnh trời nước
của quê nội tôi đấy.

Qui Nhơn thời Tây. Căn nhà ổ chuột thấp hơn
mặt đường Khải Định, gần biển mà gió không chui vào nổi. Suốt mùa hè anh
hai và tôi đêm đêm vác chiếu ra ngoài bãi cát, bên những gốc dừa gốc
tra, chịu mùi phân người để nằm xa chỗ tắm của Tây đầm, tránh tụi
bu-lít(2) đá vào mông đánh thức. Mỗi đêm vài lần anh em tôi ngồi dậy đội
chiếu đợi qua cơn mưa dông, hay đâm đầu chạy thục mạng khi lính lê
dương say đuổi hiếp cả đàn bà đàn ông.

Qui Nhơn đẹp, mát, lắm cá.
Người ta đến Qui Nhơn tắm biển, dưỡng bệnh ăn chơi, trai gái. Thành phố
quê hương bấy giờ đè nặng lắm trên đôi vai còng còng của ba tôi, sửa máy
cho hãng xe S.T.A.C.A., mỗi ngày làm mười hai tiếng mà mòn đời không
sắm nổi chiếc xe đạp tã. Anh em tôi, hai đứa trẻ rơi vãi trên đất cảng,
dắt nhau đi lánh các các phố sang lắm xe chẹt và dùi cui gõ-óc, chỉ dám
hưởng phần mấy trái me rụng quãng gần nhà thờ, những bông phượng héo để
chọi đá gà hoặc thổi phình vỗ bép vào trán, lúc đói thì đập những trái
bàng khô lấy cái nhân beo béo mà nhấm. Vui mắt chỉ có ngồi trên bến xem
cặp tàu bay Nhật chạy rì rì trên phao rõ lâu mới cất cánh nổi khỏi mặt
sông Thi Nại, về sau bị mấy chục tàu bay Mỹ ném bom tan hết. Tôi chưa
hiểu gì về Qui Nhơn sau cách mạng, đã theo cả nhà tản cư về quê mẹ. Hết
những năm đánh Tây, tôi lại chịu đòn tù ngay tại nơi sinh: hai chặng đời
tại Qui Nhơn, hai lần tôi bị hất ra. Đứa trẻ lên chín bỏ đi với cái đói
và cái sợ thắt gút trong ruột. Còn chàng trai mười tám vằn máu hằn thù
trong mắt.

Lạ thay, tôi vẫn yêu Qui Nhơn. Tôi hay nhắc tới những
phố xinh xắn, những máy nước đầu đường có tay quay trên đỉnh, những hè
phố lát thứ gạch gì lắm rãnh sâu kẻ ô chống trượt, những con tàu lớn kéo
còi ghé vào cái kè đá đưa xe lửa chạy ra biển, những bầy cá đối kết
thành bè bơi đi thuyền, mặc dù tất cả những cái đó đều không phải là của
tôi. Tôi cứ nhớ Qui Nhơn. Phải chăng vì cái xấu và sự lãng quên đều
chung một mầu đen, nên khi quay nhìn lại bức tranh của quá khứ tôi chỉ
còn thấy những mảng màu sáng nhất? Hay vì một thói quen thôi, như đứa
trẻ ở mướn cực muốn chết mà vẫn thương con trâu ngang sừng của chủ và
nhớ rặng dừa trước ngõ nhà chủ? Đúng hơn, có lẽ vì hình ảnh thật của phố
cảng đã được tôi nhào nặn lại theo mẫu mới của mơ ước....

Mẫn quay lại:

-
Gần tới ấp rồi, Tâm lên sát chị nghen, có gì tiếp tay chị ít trái lựu.
Chị Tám với anh Thiêm đi sau chừng năm chục thước cho chắc.

Tôi
hơi khó chịu. Mẫn thuộc đường phải dẫn đầu, chứ tôi đâu phải non đến nỗi
núp sau lưng Mẫn! Tôi chia Ba Tâm trụt lại sau kèm chị Tám, còn Mẫn với
tôi đi trước cản địch. Mẫn ngần ngừ rồi gật:

- Dạ, cũng được. Hễ
chạy lạc Tâm dẫn chị Tám vòng xuống bến bà Huyến nghe em. Mà súng đằng
trước nổ ít thì khoan chạy, đội Tam Hải có mấy cậu mới, chưa hỏi đã bắn,
để ý coi chị rẹt cac-bin hãy rút.

 

Báo cáo nội dung xấu