Phương Đông lướt ngoài cửa sổ - Chương ngoại truyện (Phần 1)

Bây giờ xin mời đọc chương đầu tiên của
cuốn The Ghost Train to the Eastern Star (Chuyến tàu ma tới ngôi sao phương
Đông), trong đó tác giả đi lại cuộc hành trình trong Phương Đông lướt ngoài cửa
sổ ba mươi năm trước…

Chương
1: Chuyến tàu ngôi sao Châu Âu

Bạn nghĩ du khách là những người táo bạo,
nhưng bí mật tội lỗi của chúng tôi ở chỗ du lịch là một trong những cách lười
biếng nhất trên trái đất để giết thời gian. Du lịch không đơn thuần chỉ là việc
trở nên lười nhác, mà còn là sự thoái thác một cách tinh vi, cho phép chúng tôi
– với sự vắng mặt lộ liễu của chính mình, khơi gợi chú ý của mọi người trong khi
bản thân xâm phạm đến đời sống riêng tư của những người khác – công kích tích
cực như những kẻ ăn bám ẩn mình. Du khách là loại ham hố nhất trong những người
tò mò lãng mạn, và ở một khía cạnh nào đấy được giấu kỹ trong tính cách riêng
tư của họ là một gút mở không thể bật ra của sự phù hoa, giả tạo và thích cường
điệu hóa gần như bệnh lý. Đó là nguyên nhân vì sao điều ác mộng nhất đối với du
khách không phải là cảnh sát mật, thầy phù thủy hay bệnh sốt rét mà là viễn
cảnh gặp một du khách khác.

Hầu hết những viết lách về du lịch đều
tuân theo hình thức nhảy luôn tới những kết luận và vì thế mà gần như mọi cuốn
sách du lịch đều là kịch bản độc diễn vô ích, mỏng nhất và dễ hiểu nhất. Khá
hơn chút ít so với một cái giấy phép gây phiền nhiễu, viết về du lịch là dạng
thấp nhất của niềm đam mê lạc thú có tính chất văn chương: phàn nàn không trung
thực, xuyên tạc một cách sáng tạo, khoa trương vô nghĩa và làm dáng kinh niên;
đa phần những thứ đó bị bóp méo bởi hội chứng Munchasen[1].

[1] Căn bệnh giả vờ mắc bệnh để người khác
quan tâm, được đặt theo tên một người nổi tiếng nói khoác ở Đức vào thế kỷ 18.

Tất nhiên, sẽ khó khăn hơn khi ở nhà, tỏ
ra lịch sự với mọi người và đối mặt với nhiều thứ, nhưng lấy đâu ra sách trong
hoàn cảnh đó? Tốt hơn là đóng màn kịch khoe khoang, giả vờ làm một người ưa
thích phiêu lưu mạo hiểm:

“Vâng, nghênh ngang những con đường rải
đầy hạt dẻ

Cúi mình xuống boong tàu

Đầy rạ với lòng tốt.”

và kêu lên “Nhìn ta đây!” đầy sảng khoái ở
những thắng cảnh đẹp lạ kỳ.

Đó ít nhiều cũng là tâm trạng của tôi khi
tôi gói ghém hành lý rời khỏi nhà. Tôi cũng đã nghĩ: Nhưng đó là sự tò mò. Ngay
cả những người mơ mộng nhút nhát nhất cũng cần sự thỏa mãn của hiện tại, sau đó
trình diễn những tưởng tượng của họ. Và đôi lúc bạn chỉ cần xóa đi tất cả. Sự
xâm phạm là niềm vui đối với một vài người trong số chúng ta. Vô ích thay, “Niềm
vui vu vơ là niềm vui thuần khiết.”

Và có những giấc mơ: thứ nhất, giấc mơ về
một vùng đất xa lạ mà tôi tận hưởng ở nhà, nhìn chăm chú vào không gian về
khoảng không phía Đông vào những ngôi đền tưởng tượng, những khu chợ đông đúc,
những “kiến trúc con người” theo cách gọi của V.S.Pritchett, những phụ nữ đáng
yêu trong những bộ quần áo mỏng nhẹ như khói, những chiếc tàu cũ kỹ kéo vang
còi trên những sườn núi, ảo ảnh của hạnh phúc; thứ hai, giấc mơ thể hiện bằng
chính việc đi du lịch. Thường trong một chuyến đi, tôi dường như sống trong ảo
giác về sự khác biệt, sự hão huyền đầy màu sắc của cái xa lạ, những nơi mà tôi
nhận thức một cách sống động (trong hầu hết các giấc mơ) là mình không
thuộc về chúng; tôi vẫn đang lơ lửng, một du khách nhàn rỗi vô danh giữa những
con người bận rộn, một người xa lạ hoàn toàn. Khi bạn là người lạ, như bài hát
trôi qua, không ai nhớ tên bạn cả.

Du lịch có thể đem lại cảm giác về sự xa
lạ và không kết nối trong tôi, rõ rệt song khó gọi tên, khiến tôi cảm thấy mong
manh không thật, như là làn khói thuốc lá, hay đơn thuần là một con ma, một
bóng ma sởn tóc gáy từ địa ngục, không bị để ý và cảnh giác giữa những người
thật, lang thang, lắng nghe trong khi không để người khác thấy mình. Trở nên vô
hình – điều kiện thông thường của du khách nhiều tuổi – hữu dụng hơn nhiều so
với việc hiện thân rõ ràng. Bạn được nhìn ngắm nhiều hơn, bạn không bị ai làm
gián đoạn và được yên thân. Đó là lý do bạn có thể nhận lầm một du khách không
vội vã với một gã ăn mày. Ghét những thời gian biểu, phụ thuộc vào những cuộc
gặp gỡ may rủi tình cờ, tôi bị thu hút bởi nhịp điệu chậm rãi của du lịch.

Những con ma có tất cả thời gian trên đời,
niềm vui khác của dịch chuyển đường dài không mục đích – là du lịch với một nửa
tốc độ trên những chuyến tàu chậm và hay trì hoãn. Tôi nhận thấy nét ma quái
này cũng là một hiệu ứng của hành trình mà tôi đã chọn, trở về những nơi mà tôi
từng biết nhiều năm trước kia. Gần như không thể trở về quang cảnh cũ trong cuộc
đời du lịch của bạn mà không cảm giác như một điều ám ảnh. Tôi đã thấy rất
nhiều nơi thực sự buồn bã ma mị, một số khác rộng lớn và cuồng nhiệt, trong khi
tôi chỉ hiện diện lảng vảng, là cái bóng nghe trộm trên chuyến tàu ma.

Rất lâu sau khi thực hiện chuyến đi đã
viết trong Phương Đông lướt ngoài cửa sổ, tôi tiếp tục suy nghĩ mình đã vượt
qua những vùng đất thế nào, đổi những chuyến xe lửa băng qua châu Á ra sao, làm
tiến triển chuyến đi của mình và cọ xát với thế giới. Và phản ảnh những gì tôi
đã được thấy – cái cách mà quá khứ vốn không được ghé thăm trở lại luôn nhào
lộn trong những giấc mơ của bạn. Ký ức cũng là một chuyến tàu ma quái. Những
năm tháng sau này, bạn vẫn còn suy nghĩ về một khuôn mặt xinh đẹp đã kịp thấy
một lần ở một đất nước xa xôi. Hoặc hình ảnh một cái cây quý, hoặc một con
đường nông thôn, hoặc chiếc bàn vui vẻ trong một quán cà phê, hoặc mấy chàng
trai cáu giận có vũ trang cùng với tiếng kêu của những chiếc giáo gỉ sét, “Cứu
lấy mạng mày, keng-keng!” hoặc tiếng của một con tàu trong đêm, đặc biệt là
những nốt nhạc chính xác của những chiếc còi tàu, khoảng ba phút, trong màn
đêm, như thể bạn nằm trong tàu, dịch chuyển xuyên thế giới như những du khách
khác, “trong chú cá voi”.

Ba mươi ba năm trôi qua. Tôi đã già gấp
đôi, như những người đã đi trên các chuyến tàu đó, hầu hết những con tàu đều
được các đầu tàu hơi nước kéo, chạy suốt dọc các vùng sâu vùng xa của Thổ Nhĩ
Kỳ và Ấn Độ. Tôi thích tính cân đối trong sự khác biệt về thời gian. Thời gian
trôi qua đã trở thành cái gì đó nghiêm trọng đối với tôi, ẩn mình trong quá
trình tôi già đi. Khi còn trai trẻ, tôi coi thế giới là một thứ cố định và đáng
tin cậy, nó sẽ chứng kiến tôi trong tuổi già của mình; nhưng khi già hơn, tôi
bắt đầu hiểu sự thay đổi là luật lệ của tự nhiên, cái gì mang cảm xúc trong một
thế giới không đáng tin đã bị hủy hoại một cách hiển nhiên. Tuổi tác là món quà
bạn dành được để đánh giá sự phân rã, sự hiện ra của Wordsworth, sự thông thái
của wabi-sabi: không gì hoàn hảo, không gì hoàn thiện, không gì vĩnh viễn.

“Không thay đổi thì sẽ không hoài cổ,” bạn
tôi từng nói vậy với tôi, và tôi nhận ra cái mà mình bắt đầu chứng kiến không
chỉ là sự thay đổi và suy sụp mà là cả sự biến mất của tưởng tượng. Ghi chép đã
rất lâu của tôi có thay đổi nhiều như tôi? Tôi nảy ra ý tưởng thực hiện một
chuyến đi tương tự, đi bằng chính đôi chân mình – một sự nghiệp nghiêm túc,
nhưng chuyến đi kiểu này thường được những kẻ trẻ tuổi, mơ mộng thực hiện để viết
sách và trở nên nổi tiếng[2].

[2] Danh sách những người này rất dài, bao
gồm cả những sách của các hành giả như Graham Greene, George Orwell, Robert
Louis Stevenson, Leonard Woolf, Joseph Conrad, Mr Kurtz, H. M. Stanley, Leopold
Bloom, Saint Paul, Basho, Jesus và đức Phật (chú thích của tác giả).

Điểm tuyệt vời nhất của du lịch là thoát
ra ngoài thời gian, vì năm tháng đi lại không bị khấu trừ trong cuộc đời bạn.
Du lịch cũng có khả năng tái tạo thần kỳ: bạn có thể tìm thấy nơi mình yêu mến,
để bắt đầu một cuộc sống mới và không bao giờ về nhà. Ở một nơi xa, không ai
biết bạn – gần như lúc nào bạn cũng là người được thêm vào cộng đồng. Và bạn có
thể giả vờ trong chuyến đi, khác với con người của bạn, không ràng buộc, bí ẩn,
trẻ hơn, giàu hơn hoặc nghèo hơn, bất kỳ loại người nào bạn chọn để giả bộ, đều
là tái sinh mà nhiều người đi du lịch đã trải qua nếu họ đi đủ xa.

Việc quyết định trở lại bất kỳ một khung
cảnh nào trong cuộc đời của bạn cũng nguy hiểm nhưng không cưỡng lại được,
không giống một cuộc tìm kiếm thời gian đã mất mà là vì sự lố bịch của cái điều
đã xảy ra lúc đó. Trong hầu hết các trường hợp, nó giống như sau nhiều năm gặp
lại người yêu đã già, hầu như chẳng nhận ra nổi đối tượng ta từng khao khát
trong con người già cỗi, quắt queo và đau khổ này. Tất cả chúng ta sống với những
tưởng tượng về sự thay đổi. Sống đủ lâu và bạn thấy thay đổi đang diễn ra –
người trẻ thành già, con đường được nâng cấp, nhà cửa ở nơi trước đây là cánh
đồng; và những điều trái ngược của chúng, một ngôi trường tốt thành đống hoang
tàn, một dòng sông ô nhiễm, một cái ao thu nhỏ lại và đầy rác, những cái tin
buồn thảm: “Anh ta chết rồi,” “Bà ta béo lắm,” “Cô ấy tự sát rồi,” “Ông ấy bây
giờ là Thủ tướng,” “Hắn đang trong tù,” “Anh không quay lại đó được nữa đâu.”

Sự thỏa mãn của việc già đi – một trong
nhiều sự thỏa mãn – là đảm nhận vai trò của một người chứng kiến sự chuyển động
của thế giới và quan sát những thay đổi không đảo ngược được. Mặt trái của vấn
đề, bên cạnh sự chán ngắt khi nghe những ảo tưởng của tuổi trẻ, là việc nghe đi
nghe lại những ý kiến giống nhau, không chỉ của những người trẻ tuổi chưa đủ lông
đủ cánh mà, tồi hơn nhiều và dường như là tội lỗi, những ý kiến của những kẻ
còn non nớt hơn, đáng lẽ họ nên biết tất cả những lời dối trá về chiến tranh,
nỗi sợ hãi, sự tiến bộ và kẻ thù – thế giới là một bánh xe lặp đi lặp lại. Họ –
tôi nên nói “chúng ta” mới đúng – chán ngán với những thứ đã từng nghe một
triệu lần trước đây, những quyển sách chúng ta bỏ qua, những khám phá không
mới, những giải pháp đưa ra chả giải quyết được vấn đề gì. “Tôi có thể nói rằng
tôi đang già đi,” người kể chuyện trong truyện The Congress (Nghị viện)
của Borges thốt lên. “Một dấu hiệu không thể nhầm lẫn là thực tế, tôi nhận ra
cái mới lạ chẳng có gì thú vị hay đáng ngạc nhiên cả, bởi tôi thấy về cơ bản
chả có gì mới trong đó – nó chỉ hơn những đổi thay rụt rè cái đã an bài một tí
xíu mà thôi.”

Những người già được nhìn nhận là kẻ hoài
nghi và xa lánh xã hội – nhưng không, họ đơn giản là những người cuối cùng đã
nghe được bản nhạc u buồn lặng lẽ của nhân tính được một ban nhạc rock tồi đang
tru tréo đi tìm danh tiếng chơi lên. Quay lại và hồi tưởng những bước chân của
tôi – một nỗ lực hời hợt, trần trụi đối với một nhà văn nông nổi, trẻ tuổi, dễ
bị tác động – sẽ là cách tôi xem tôi là ai, tôi đã đến đâu và cái gì sau đó xảy
ra với những nơi tôi đã từng thấy.

Vì sẽ chẳng bao giờ viết một quyển tự
truyện mà tôi đã từng mường tượng – chương một, Tôi là ai; chương hai, Tôi nói
với anh như vậy – nên viết về chuyện đi du lịch trở thành một cách để có cảm
nhận về đời tôi, là con đường ngắn nhất để tôi đến tự truyện – cũng như tiểu
thuyết, truyện ngắn và tiểu luận. Như Pedro Almodóvar có lần đã nhận định, “Bất
kỳ thứ gì không phải là tự truyện thì là đạo văn.”

Thứ cần tránh trong những bước chân của
chính tôi sẽ là sự hồi tưởng chán ngắt về những ngày tốt đẹp hơn, cơn kể lể
kích động của kẻ luyến tiếc quá khứ, bao giờ cũng thể hiện ý tôi đã ở đó, anh
thì không. “Tôi nhớ lúc ấy anh có thể mua bốn thứ chỉ với một đô la.” “Có một
cái cây to trên cánh đồng nơi bây giờ là một tòa nhà.” “Ở thời của tôi…”

Thôi, im đi!

Điều gì khiến khách du lịch quay trở lại
để làm một chuyến đi lớn nữa? Tôi chả biết lý do gì hay ho. Greene không bao
giờ trở lại rừng Liberia,
hay Mexico, hay Việt Nam. Ở tuổi
cuối năm mươi, Waugh chối bỏ cả du lịch hiện đại cũng như du lịch đơn thuần,
coi đó là phí phạm thời gian. Sau năm 1948, Thesiger không quay trở lại Rub’ al
Khali, vùng sa mạc của Ả rập, Burton không tham gia đoàn thám hiểm tới Utah,
hoặc chứng minh nguồn gốc của sông Nile – ở tuổi của tôi, ông ta sống ở
Trieste, chìm đắm trong sách báo khiêu dâm. Darwin không bao giờ ra khơi nữa. Cả Joseph
Conrad cũng thế, người đã thôi ghét bỏ viễn cảnh đi biển. Eric Newby từng đi
xuôi sông Hằng một lần, Jonathan Raban xuôi theo sông Mississipi một lần và Jan
Morris cũng chỉ leo lên đỉnh Everest có một lần. Robert Byron không quay trở
lại Oxiana lần nào, Cherry-Garrard chỉ một lần đi tới Nam Cực, Chatwin không
bao giờ trở lại Patagonia, Doughty cũng thế, không trở lại Arabia Deserta,
Wallace không trở lại quần đảo Malay, Waterton cũng không trở lại sông Amazon.
Trollope không trở lại Tây Ấn, Edward Lear không trở lại Corsia, Stevenson
không trở lại Cévennes, Chekhov không quay lại Sakhalin, Gide không quay lại
Congo, Canetti không về lại Marrakesh, Jack London không quay về quần đảo Solomon,
Mark Twain cũng không trở lại Hawaii. Thế là quá đủ đối với một vài trong số
những tác giả yêu thích của tôi.

Bạn có thể hỏi “Tại sao họ lại phải bận
tâm?” nhưng thực tế là mỗi người trong số những nhà lữ hành này, khi già đi, đã
phát hiện ra điều mà nhà lữ hành dũng cảm Henry Morton Stanley phát hiện khi
ông đi xuyên qua châu Phi lần nữa từ Tây sang Đông, mười năm sau chuyến đi
thành công lần thứ nhất từ Đông sang Tây năm 1874 đến 1877 – ông nhận ra châu
Phi đã là một nơi khác, với những thay đổi đáng ngại, và một quyển sách mới ra đời.
Richard Henry Dana đã thêm một lời bạt nắn nót vào cuốn Two years before the
mast (Hai năm trước cột buồm) hai mươi tư năm sau lần in đầu vào 1840,
khi ông trở lại San Francisso (nhưng không đứng trên mũi tàu nữa), thấy
nó đã thay đổi từ trụ sở của phái bộ Tây Ban Nha buồn tẻ với mấy căn lều biến
thành một thành phố Mỹ sầm uất, sự thay đổi từ Cơn Sốt Vàng. Dana đã rất thận
trọng tự hòa hợp mình vào với những con người ông đã gặp trong chuyến đi đầu
tiên và ước lượng khung cảnh thay đổi, hoàn thành, như ông nói, “những hành
động của ký ức sùng đạo.”

Những nhà thơ cụ thể, có thể kể đến
Wordsworth và Yeats, đã mở rộng tầm nhìn và họ được khai sáng khi quay trở lại
một khung cảnh trước kia trong cuộc đời họ. Các ông đặt ra tiêu chuẩn văn học
cho cuộc quay lại viếng thăm. Nếu định mệnh của những nhà văn là lặp lại quá
khứ, viết nó theo cách vốn có của chính họ, thì chuyến trở lại này có thể là
phiên bản chán ngắt của The wild swans at Coole (Thiên nga hoang dã ở
Coole)
hoặc Tintern Abbey (Tu viện Tintern) của tôi.

Chuyến đi dự kiến trở lại hành trình
Phương Đông lướt ngoài cửa sổ chủ yếu là nỗi tò mò riêng của tôi, là sự lười
biếng thường thấy, và với khao khát được lên đường; nhưng điều này là chuyện
của ba mươi ba năm trước và nó đã đơm hoa kết quả. Sự viết lách đang phóng bạn
vào bóng tối, để trong đó bạn mong ước ánh sáng và cuộc hạ cánh nhẹ nhàng.

“Em sẽ đan nhiều thứ trong lúc anh đi xa,”
vợ tôi nói.

Đó là một thông tin mong đợi. Tôi cần
Penelope lúc này.

Mặc dù tôi giả vờ thích thú với cuốn kể
chuyện đã xuất bản, nhưng chuyến đi đầu tiên của tôi không được như dự tính.

“Em không muốn anh đi,” người vợ đầu tiên
của tôi nói vào năm 1973 – không bằng giọng dịu dàng, mà là một yêu cầu giận dữ.

Lúc bấy giờ tôi vừa viết xong một quyển
sách và cạn ý tứ. Tôi không có nguồn, không có ý tưởng nào cho một quyển tiểu
thuyết mới và – mặc dù không biết rằng mình định làm gì – tôi hy vọng chuyến đi
này là một cách để tìm đề tài. Tôi phải đi. Thủy thủ đi ra biển, lính tráng ra
trận, ngư dân đi đánh cá, tôi nói với vợ mình. Các nhà văn thỉnh thoảng phải đi
ra khỏi nhà. “Anh sẽ trở về sớm nhất có thể.”

Cô ấy không hài lòng việc tôi đi. Và mặc
dù không viết về nó, tôi đã thật đau khổ khi khởi hành từ London, nói lời tạm biệt với người phụ nữ tệ bạc
này và với hai đứa con nhỏ của chúng tôi.

Đó là thời của những bức thư chuyển bằng
máy bay, các tấm thiệp và những cục điện thoại màu đen to đùng không đáng tin
cậy. Tôi viết thư về nhà thường xuyên. Nhưng khi tôi thành công gọi về nhà hai
lần, một từ New Delhi và một từ Tokyo, cả hai cuộc điện thoại đều vô ích. Tại
sao sự âu yếm của tôi hình như không được chào đón? Tôi nhớ nhà trên suốt chặng
đường – bốn tháng rưỡi – và băn khoăn ở nhà có nhớ tôi không. Đó là lần đầu tôi
u uất trải qua những đêm cô đơn của một lữ khách. Tôi đã ở tận cùng trí thông
minh trong chuyến đi. Tôi cảm thấy như mất trí khi quay về nhà. Không ai nhớ
tới tôi. Người khác đã thế chỗ tôi.

Vợ tôi có người tình. Quả là đạo đức giả
nếu tôi phản đối: tôi đã không chung thủy với cô ấy. Không phải là bản năng
tình dục của cô ấy làm tôi buồn, mà là sự ấm cúng của một gia đình. Anh ta ở
trong nhà tôi nhiều ngày đêm, trên giường của chúng tôi, yêu cô ấy và chơi với
con chúng tôi.

Tôi không thể nhận ra giọng mình khi hét
lên, “Sao em có thể làm thế được?”

Cô ta nói, “Tôi coi như anh đã chết.”

Tôi muốn giết người đàn bà này, không phải
vì tôi ghét cô ta mà (như những bà vợ ông chồng phạm tội giết người thường
nói)
vì yêu. Tôi đe dọa giết cái gã mà thậm chí sau khi tôi về nhà, vẫn
gửi thư tình cho vợ tôi. Tôi trở thành một kẻ vũ phu điên khùng và tình cờ tôi
phát hiện ra điều có ích một cách độc ác: đe dọa giết ai đó là cách hiệu quả để
thu hút sự chú ý của người khác.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3