Quỷ cái vận đồ Prada - Chương 09-P2

Bộ phận kinh doanh quảng cáo có nhiệm vụ bán diện
tích đăng quảng cáo. Đôi khi họ tổ chức lễ hội, nhưng do chưa có nhân
vật danh tiếng nào xuất hiện ở đó nên chẳng dân New York có máu mặt
nào (như Emily cay độc tiết lộ cho tôi biết) thèm đến. Tôi chỉ biết
đến các buổi tiệc ấy khi người ngoài kể lại, khi điện thoại réo
chuông suốt ngày vì những nhân vật tầm tầm hy vọng tôi kiếm hộ giấy
mời. “Nghe nói Runway tổ chức tiệc, sao tôi không có giấy mời nhỉ?”
Các biên tập viên không khi nào có giấy mời, vì đằng nào thì chúng
tôi cũng không đến. Lũ đàn bà ở Runway chuyên khinh miệt, khủng bố và
kỳ thị người ngoài, nhưng vẫn chưa đủ, họ còn tự dựng những rào cản
giữa các thứ bậc nội bộ.

Sau bộ phận kinh doanh quảng cáo là một hành lang
hẹp, dài hun hút, dẫn đến một phòng bếp nhỏ xíu. Ở đây có đủ loại
trà, cà phê, thậm chí cả một tủ lạnh cho những người đem bữa trưa
từ nhà đến. Dịch vụ này lẽ ra là thừa, từ khi Starbucks độc quyền
cung cấp cà phê hằng ngày, các bữa ăn được cẩn thận lấy từ căng tin
hay từ hàng nghìn dịch vụ cơm hộp trong thành phố. Nhưng căn bếp có
gì đó dễ thương, dường như Elias Clark muốn nói: “ Xem này, chúng tôi
lo mọi bề cho nhân viên! Ở đây có trà Lipton, đường ăn kiêng, cả lò vi
sóng để hâm món để lại từ đêm qua! Chúng ta là người nhà cả mà!”

Đúng 7 giờ 05 thì tôi cũng vào đến ốc đảo của
Miranda, mệt không lê nổi bước nữa. Công việc đầu tiên hằng ngày là
mở khóa phòng Miranda. Tôi nhìn ra ngoài trời còn tối, ngắm ánh điện
của New York City và thấy mình như đang trong một cuốn phim (có các
cặp tình nhân ôm nhau trên sân thượng bao la của căn hộ sáu triệu dollar
với tầm nhìn ra sông), trên đỉnh cao thế giới, để khi ấn nút bật hết đèn
lên thì giấc mơ ngày của tôi cũng chấm dứt cùng với cảm giác thăng hoa trong
thành phố New York của mọi khả năng vô tận, thay vào đó là ảnh khuôn mặt cười
giống nhau như đúc của cặp song sinh Caroline và Cassidy.

Tiếp theo là mở khóa tủ tường ngoài sảnh, nơi tôi treo chiếc
măng tô thú của Miranda (hoặc măng tô của tôi, nếu hôm đó bà không tình cờ mặc
lông thú. Miranda không ưa để áo của bà treo bên cạnh áo len mạt hạng của Emily
hay của tôi) và cất giữ vô số các đồ khác: măng tô và quần áo bị loại bỏ có giá
trị hàng chục nghìn dollar, đồ giặt là để đưa đến nhà Miranda, tối thiểu 300
chiếc khăn trắng Hermès khét tiếng. Emily cho biết là cô đã quyết định mua hết
loại khăn này mà hồi đó có thể tìm được. Cô giải thích rằng nhờ vậy Miranda
không bao giờ thiếu khăn và chúng tôi sẽ tránh được tình cảnh hốt hoảng đi mua
sắm khi cần. Với cách suy luận đơn giản đó, cô mua hết 500 chiếc khăn tại toàn
bộ thị trường Mỹ và Pháp. Tôi còn chưa kể với ai là đã mở một bức thư của ban
lãnh đạo công ty Hermès từ Paris gửi đến cho “Madame Priestly,” họ lải nhải dài
dòng về niềm hân hạnh được Miranda chọn dùng khăn quàng của mình, rằng bà đã tôn
vinh mác Hermès nhiều hơn bà tưởng, và họ vô cùng áy náy khi không còn sự lựa
chọn nào khác là phải dùng mẫu hàng hơi khác mẫu mà bà vẫn ưa dùng. Trong phong
bì có nửa tá mẫu lụa trắng kèm với mẫu Miranda vẫn thích xưa nay – một nghĩa cử
xoa dịu nỗi bực dọc của Miranda trong giai đoạn khó khăn này. Tôi săm soi đến
hai mươi phút mà không nhận ra sự khác biệt nào giữa các mẫu vải, nhưng tôi biết,
Miranda liếc qua là nhận ra ngay. Đương nhiên là bức thư và mẫu vải vẫn nằm dưới
đống giấy tờ vô thưởng vô phạt trong ngăn bàn tôi, thực sự tôi không biết làm
gì khi chỗ khăn dự trữ bị dùng hết.

Miranda vứt khăn khắp nơi: ở nhà hàng, rạp phim, nơi trình
diễn thời trang, phòng họp hay trên taxi. Bà bỏ quên chúng trên máy bay, ở trường
của lũ trẻ hay sân tennis. Tất nhiên không bao giờ bà ra khỏi nhà mà lại thiếu
chiếc khăn Hermès sang trọng, điều đó không có nghĩa là bà biết chúng biến đâu
mất. Hay là bà sử dụng chúng như khăn giấy? Nhất định bà cho rằng đây là sản phẩm
dùng một lần rồi vứt đi, và không ai dám cải chính! Elias Clark trả hàng trăm
dollar cho mỗi chiếc khăn, còn Miranda tiêu thụ chúng nhanh như khăn giấy. Nếu
bà còn tiếp tục như thế thì hai năm nữa là chẳng còn lấy một chiếc mà dùng.

Trong tủ tường vẫn còn nhiều hộp bìa cứng màu da cam. Cứ ba,
bốn hôm một lần, khi đi ăn là Miranda lại gọi: “Aaa-dree-aa, tôi cần khăn mới.”
Niềm an ủi lớn của tôi là khi chỗ khăn này đã hết sạch thì tôi cũng đã biến khỏi
đây từ lâu rồi. Người kế nhiệm mà tôi chưa biết sẽ là kẻ bất hạnh phải thông
báo cho Miranda biết rằng không còn khăn quàng Hermès trắng nữa. Chỉ nghĩ đến
đã thấy khiếp.

Tôi chuẩn bị xong mọi thứ thì Yuri gọi điện.

“Andrea? A lô, a lô. Yuri đây. Chị xuống tầng trệt được
không? Tôi đang ở phố 58 gần Park Avenue, trước New York Sports Club.”

Cho dù không chắc chắn tuyệt đối, cuộc gọi là một thông báo
hữu hiệu rằng Miranda sắp đến nơi rồi. Có thể thế. Phần nhiều bà cho Yuri đến
trước để đưa đồ giặt, báo, các bài viết bà đã biên tập ở nhà, giày và túi đem
đi sửa, và cuốn SÁCH. Tôi khuân đống đồ ấy lên gác và làm mọi việc cần thiết để
bà không bị quấy rầy bởi mấy chuyện vặt vãnh. Bình thường thì bà đến sau đó khoảng
nửa giờ. Yuri giao đồ cho tôi rồi quay lại ngay để đón bà.

Không rõ Yuri đón bà ở đâu, vì như Emily kể thì bà không ngủ
bao giờ. Thoạt tiên tôi không tin, cho đến một hôm tôi đi làm trước Emily và phải
nghe các tin nhắn trong hộp thoại. Mỗi đêm, không hề có ngoại lệ, từ một đến
sáu giờ sáng Miranda gửi cho chúng tôi tám đến mười tin nhắn khá mập mờ, đại loại
như: “Cassidy thích một cái túi nylon như bọn con gái bây giờ hay dùng. Chị đặt
mua một cái cỡ trung bình, màu mà nó vẫn thích,” hay: “Tôi cần số điện và địa
chỉ của cửa hàng đồ cổ ở giữa phố 70 và phố 80 có cái tủ cánh cong mà tôi đã thấy.”
Cứ làm như chúng tôi đương nhiên phải biết trẻ con mười tuổi dạo này thích mốt
túi nylon nào, hoặc cửa hàng nào trong số hàng trăm cửa hàng đồ cổ có thứ hàng
nào đó mà bà đã nhìn thấy. Tuy nhiên sáng nào tôi cũng ngoan ngoãn chép lại các
tin nhắn từ băng ghi âm – một việc không đơn giản, vì tôi phải tua đi tua lại đoạn
băng hàng chục lần mới hiểu được giọng Anh của bà cũng như tinh thần của các mệnh
lệnh mà không phải trực tiếp hỏi lại cho rõ.

Có lần tôi đã phạm sai lầm khi đề nghị Emily gọi Miranda hỏi
lại, và hình phạt là tia nhìn giết người của cô. Trực tiếp hỏi Miranda cho rõ
chuyện là một việc không tưởng. Tốt nhất là cứ lọ mọ làm tiếp và sau đó nghe chửi
vì lại hiểu sai lệnh. Tôi mất hai ngày rưỡi đi tìm cái tủ đồ cổ cánh cong mà
Miranda thích, bắt xe chở đi vòng quanh Manhattan và chạy dọc hai chiều công
viên. Bỏ qua đại lộ York (toàn nhà ở) lên phố 1, xuống phố 2, lên phố 3, xuống
Lex. Bỏ qua Park (cũng toàn nhà ở) nhưng vẫn lên Madison rồi lặp lại từ đầu bên
West Side. Trong tay bút giấy lăm lăm, mắt như cú vọ, sổ điện thoại mở sẵn trên
đùi và sẵn sàng lao ra khi thấy một cửa hàng bán đồ cổ. Tôi đích thân vào từng
cửa hàng kể cả nhiều hiệu bán đồ mới. Tới hiệu thứ tư thì tôi đã tìm ra kỹ thuật
hỏi.

“Xin chào, ở đây có tủ cánh cong cổ không ạ?” Vừa qua cửa là
tôi đã réo lên. Tới cửa hàng thứ sáu, tôi dừng chân ngoài cửa. Một con bé bán
hàng nhìn tôi từ đầu xuống chân – chuyện dễ hiểu! – ước lượng xem có bõ công trả
lời tôi không. Sau đó thì đa số cũng nhìn thấy chiếc Limousine đợi tôi ngoài đường
và miễn cưỡng đáp “có” hay “không”. Vài người khác còn bắt tôi miêu tả chi tiết
loại tủ muốn tìm.

Nếu họ có đồ gỗ đúng như tôi hỏi bằng hai từ (tủ + cổ) tôi
tiếp ngay: “Miranda Priestly hôm nọ mới vào đây phải không ạ?” Ai trước đó chưa
đoán là tôi dở hơi thì bây giờ cũng chuẩn bị gọi cảnh sát. Nhiều người chưa
nghe tên ấy bao giờ, tôi càng vui vì hai lẽ: thứ nhất là tôi được gặp những người
bình thường, cuộc đời họ không bị Miranda chế ngự, sau nữa là tôi có thể đi
ngay mà không phải tranh luận dài dòng. Những người ngô nghê có biết tên
Miranda thì dỏng ngay tai lên. Nhiều khi họ muốn biết tôi là phóng viên cho tờ
lá cải nào. Dù cho tôi bịa ra chuyện gì thì cũng chẳng ai thấy mặt bà ở cửa
hàng của họ (trừ ba cửa hàng đã không thấy mặt bà từ vài tháng rồi, ôi, sao lâu
quá chưa thấy đến lại! Xin chuyển lời chào nồng nhiệt của
Franck/Charlotte/Sarabeth nhé!)

Sau khi hoài công đi tìm, trưa ngày thứ ba Emily bật đèn
xanh cho phép tôi đến văn phòng hỏi Miranda lần nữa. Xe đỗ trước tòa nhà là tôi
đã túa mồ hôi, và khi Eduardo không mở ngay cửa xoay thì tôi dọa sẽ trèo qua.
Tôi lên tầng, áo ướt đẫm, tay run rẩy khi vào đến văn phòng, lúng túng quên tiệt
những câu đã sắp sẵn trong óc để trình bày (Chào Miranda, tôi khỏe, xin cám ơn.
Bà có khỏe không? Vâng, tôi muốn trình bày là tôi đã vất vả đi tìm cửa hàng đồ
cổ như bà nói nhưng không gặp may. Bà có thể cho biết là nó bên Tây hay Đông
Manhattan được không ạ? Hay bà nói lại lần nữa tên cửa hàng là gì ạ?). Thay vì
viết ra giấy các câu hỏi và đem nộp như thường lệ, tôi xin gặp bà trực tiếp ở
bàn giấy, và – có lẽ bị bất ngờ vì tôi không được hỏi mà vẫn lên tiếng – bà đồng
ý cho gặp. Phần cuối tôi tóm gọn lại như sau: Miranda thở dài và chặc lưỡi và
chán nản một cách lịch thiệp rất riêng của bà, rốt cuộc bà mở cuốn sổ da Hermès
màu đen ghi kế hoạch (buộc bằng chiếc khăn Hermès trắng một cách bất tiện nhưng
rất đẹp) và lấy ra… tấm danh thiếp của cửa hàng.

“Aan-dree-aa, tôi đã đọc địa chỉ cửa hàng cho chị vào băng rồi
mà. Tôi nghĩ là khó khăn gì mà chị không chép lại chứ?” Tôi ước gì được vớ lấy
tấm thiếp và quật lên mặt bà ta, song chỉ lẳng lặng gật đầu nghe lời trách cứ.
Khi nhìn thấy địa chỉ trên thiếp, thiếu chút nữa thì tôi phát điên: 244 phố 68!
Thảo nào tôi không tìm ra. Tôi mất toi ba mươi ba tiếng đồng hồ đi tìm cửa hàng
ở một khu phố khác hẳn!

Tôi cứ nghĩ đến chuyện này trong khi chép lại những tin nhắn
đêm qua của bà. Sau đó tôi vội xuống tầng trệt để nhận đồ ở chỗ hẹn với Yuri. Mỗi
sáng ông báo chính xác địa điểm đỗ xe, nhưng tôi có nhanh chân đến mấy thì khi
xuống đến nơi Yuri cũng đã lấy hết đồ khỏi xe và khuân vào nhà để tôi đỡ mất
công tìm ông lâu. Hôm nay cũng thế. Ông đã đứng đợi tôi như một người ông hiền
từ ở tiền sảnh trước cửa xoay, tay ôm đầy túi nylon, quần áo và sách báo.

“Đừng chạy nhanh thế, nghe chưa,” ông nói đặc giọng Nga.
“Suốt ngày tôi thấy chị chạy và chạy và chạy, chị vất vả quá đấy. Vì vậy tôi
đem đồ tận tay cho chị,” ông giúp tôi chất hết các túi và hộp lên tay. “Chị là
một cô bé ngoan, nghe chưa. Chúc chị một ngày tốt lành.”

Tôi nhìn ông đầy hàm ơn, ngó qua Eduardo với tia mắt nửa đùa
nửa thật báo hiệu tôi sẽ bóp cổ ông nếu ông lại định bắt tôi diễn trò như mọi
hôm, và bằng lòng thấy Eduardo nhấn nút cho tôi qua cửa xoay mà không nói một lời
nào. Lạ lùng là tôi nhớ đảo qua quầy Ahmed để nhận báo. Mặc dù phòng báo chí cứ
chín giờ sáng là chuyển báo cho Miranda, tôi vẫn phải lấy thêm một tập để bảo đảm
cho bà không phải ngồi ở bàn lấy một giây thiếu báo đọc. Các tuần san cũng thế.
Dường như không ai ngạc nhiên khi chúng tôi mua mỗi ngày chín tờ nhật báo và mỗi
tuần bảy tạp chí cho bà sếp vốn chỉ quan tâm tới cột buôn chuyện và thời trang.

Trước hết tôi đẩy tất cả xuống gầm bàn, vì đã đến giờ đặt
hàng rồi. Tôi quay số đã thuộc lòng của cửa hàng điểm tâm cao cấp Mangia ở
trung tâm. Như mọi khi, Jorge nhấc máy.

“ Chào ông anh, em đây,” tôi kẹp ống nghe dưới cằm để rảnh
tay kiểm tra e-mail. “ Ta bắt đầu nào.” Jorge và tôi rất thân nhau. Sáng nào
cũng gọi điện cho nhau bốn, năm lần thì người ta dễ thành bạn.

“ Chào bé con. Anh cho một cậu đến ngay chỗ cô đây. Bà ấy đến
chưa?” Anh hỏi. Dù biết “ bà ấy” là bà sếp điên dở của tôi và làm ở Runway,
nhưng chắc anh không rõ người sắp dùng đồ ăn sáng mà tôi vừa đặt là người như
thế nào. Jorge là một trong những người mà tôi ưa gọi điện buổi sáng. Eduardo,
Juri, Jorge và Ahmed đảm bảo cho ngày làm việc khởi đầu tử tế. Điểm hay nhất ở
họ là thật ra họ chẳng liên quan gì tới Runway, dù là sự tồn tại của họ có vẻ
như chỉ xoay quanh việc kiến tạo cuộc sống hoàn hảo cho bà sếp của tôi. Không
ai trong họ mảy may biết gì về quyền lực và danh tiếng của Miranda.

Gói quà sáng đầu tiên chỉ mấy giây sau là lên đường tới 640
Madison, song chắc cũng bị ném vào thùng rác ngay. Mỗi sáng Miranda dùng bốn
lát ba chỉ dày mỡ, hai xúc xích nhỏ, pho mát, và cho tất cả xuống dạ dày theo một
cốc cà phê sữa to đùng của Starbucks ( nhớ thêm hai viên đường mía!) Ở văn
phòng, mọi người tranh cãi nhau về chuyện này. Người thì bảo Miranda luôn theo
chế độ ăn kiêng kiểu Atkins, người khác cho rằng bà là người hạnh phúc vì bộ
gene trao đổi chất siêu việt. Dù thế nào thì bà cũng không tăng lấy một gam
trong khi ăn những đồ nhiều mỡ nhất, nhiều đường nhất, bổ béo nhất thế giới – một
tội lỗi mà không người bình thường nào dám phạm. Vì quà sáng chỉ giữ nóng tối
đa được mười phút, tôi liên tục đặt mới cho đến khi bà có mặt, đồ cũ cho vào
thùng rác. Đã có lần tôi làm nóng lại trong lò vi sóng, chỉ mất có năm phút
thôi ( nhưng đã bị gọi: Aan-dree-aa, tởm quá. Chị lấy cho tôi đồ tươi đi.”) Cứ
khoảng hai mươi phút là tôi lại đặt đồ mới, cho đến khi bà gọi từ điện thoại di
động sai tôi đặt đồ ăn sáng (Aan-dree-aa, tôi sắp đến văn phòng. Gọi quà sáng
đi.”)

Điện thoại đổ chuông. Giờ này chỉ có thể của Miranda.

“ Văn phòng Miranda Priestly đây”, tôi ríu rít, không mong đợi
gì tốt lành.

“ Emily, mười phút nữa tôi đến nơi, chị nhớ làm quà sáng sẵn
sàng.”

Bà đã quen gọi cả hai chúng tôi cùng là Emily, qua đó cho thấy
– hoàn toàn có lý – hai người chẳng khác nhau điểm nào và hoàn toàn có thể tráo
cho nhau được. Tôi thấy khá bị xúc phạm, tuy đến hôm nay cũng đã quen dần. Thêm
nữa là cũng quá mệt mỏi để thực sự bực mình vì mấy trò vặt vãnh như bị gọi sai
tên.

“ Vâng, Miranda, xong ngay.” Nhưng bà đã chấm dứt. Emily
chính cống bước vào văn phòng.

“Ê, Miranda đến chưa?” Cô thì thào.Như mọi khi, cô len lén
ngó về phía cửa phòng Miranda và không thèm phí một câu chào, giống hệt sếp.

“ Không, nhưng vừa gọi điện báo là mười phút nữa đến nơi.
Tôi quay về ngay.”

Tôi đút điện thoại và bao thuốc vào túi áo khoác và lao ra
ngoài. Mười phút, không hơn không kém, tôi có đúng chừng ấy thời gian để xuống
tầng dưới, chạy qua quảng trường Madison đi mua cà phê rồi quay lại bàn giấy –
dọc đường còn kịp rít điếu thuốc ngon lành đầu tiên trong ngày. Di tắt mẩu thuốc,
tôi luôn vào hiệu Starbucks góc phố 57 vá Lex. Tôi ngắm hàng người mua: nếu
không nhiều hơn tám người thì tôi xếp hàng như một khách hàng bình thường.
Nhưng hầu như hôm nào cũng như hôm nay, có đến hai chục người lao động tội nghiệp
hoặc nhiều hơn đang xếp hàng đợi liều cafein đẳt đỏ, và tôi phải chen hàng. Chẳng
hay ho gì trò này, nhưng hình như Miranda không chịu hiểu là người ta không chỉ
từ chối đưa cà phê sữa của bà đến tận nơi mà lúc đông người tôi mất đến nửa tiếng
mới đến lượt. Mấy tuần liền tôi bị bà hành hạ qua điện thoại di động (
Aan-dree-aa, tôi không thể hiểu được. Tôi gọi chị trước hai mươi lăm phút là
tôi sắp đến, thế mà quà sáng vẫn chưa xong. Không thể chấp nhận được.”) Tôi xin
gặp cô chủ cửa hàng.

“ Chào bà, cám ơn chị có vài phút tiếp chuyện,” tôi nói với
người phụ nữ da đen nhỏ nhắn. “ Tôi biết là chuyện này nghe hơi kỳ quái, tôi chỉ
muốn hỏi chị, liệu có cách nào đó để tôi được phục vụ nhanh hơn một chút
không?” Tôi lấy hơi để giải thích rằng tôi làm việc cho một bà sếp quan trọng
và cứng đầu, không chấp nhận phải đợi cốc cà phê sáng. May quá. Cô chủ hiệu
Marion đang học thêm buổi tối ở lớp tạo mốt.

“ Trời ạ, tôi không nghe nhầm chứ? Chị làm việc cho Miranda
Priestly? Và bà ấy dùng cà phê sữa của hiệu tôi? Cốc lớn? Sáng nào cũng thế? Thế
mà tôi không biết. Vâng, vâng, tất nhiên rồi. Được ngay thôi. Tôi sẽ nói với
nhân viên là chị luôn luôn được phục vụ đầu tiên. Chị không phải bận tâm gì cả.
Bà ấy là nhân vật số một trong giới thời trang đấy,” Marion hăng hái nói, và
tôi cũng cảm ơn nồng nhiệt.

Và thế là tôi được thản nhiên lướt qua mặt những người New
York mệt mỏi, cáu kỉnh và tự mãn đang rồng rắn xếp hàng từ lâu. Tôi chẳng vui
thú hay kiêu hãnh gì, thậm chí còn ghét mỗi khi phải làm trò này, nhất là những
hôm hàng dài đằng đặc như hôm nay. Để chuộc lỗi, tôi không đặt một cốc mà mua cả
khay bưng ra. Mạch đập thình thịch, mắt cay; tôi cố quên đây là cuộc đời mình
sau mấy năm trời học văn thơ và tốt nghiệp điểm cao. Thay vào đó là đi đặt cốc
cà phê sữa lớn cho Miranda cộng thêm vài cốc cho mình. Tôi đặt một cốc Grande
Amaretto Cappuccino, một Mocha Frappuccino và một Caramel Macchiato lên khay, lấy
thêm nửa tá bánh flan và bánh sừng bò, tổng cộng tốn hết 28,83 dollar. Tôi cho
hóc đơn vào ngăn riêng trong cái ví chật cứng để thanh toán với Elias Clark mà
chưa bao giờ bị hỏi han lâu la.

Bây giờ phải rảo cẳng lên, vì từ lúc Miranda gọi điện đến giờ
đã hai mươi phút trôi qua. Chắc chắn Miranda đã ngồi đó và bực dọc tự hỏi, sáng
nào tôi cũng biến đi đâu lâu thế ( logo của Starbucks trên cốc lẽ ra đã đưa lại
cho bà câu trả lời). Nhưng trước khi tôi kịp bưng các thứ lên thì đã có chuông
điện thoại. Tim tôi đập rộn, lần nào cũng thế. Tôi biết nhất định đó là
Miranda. Rõ quá, nhưng tôi vẫn hoảng. Số máy hiện ra khắng định phỏng đoán của
tôi, nhưng tôi ngạc nhiên nghe giọng Emily – cô gọi từ máy của Miranda.

“ Sếp đến rồi, đang điên tiết,” cô thì thầm. “ Chị chạy đi
đâu thế?”

“ Tôi không nhanh hơn được,” tôi càu nhàu, cố bưng khay cho
cân, một tay giữ túi bánh, tay kia cầm điện thoại.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3