Phần I - Hồi 3: Cầu La Sư
Triệu
Lão Biệt dặn dò xong xuôi, hẹn đúng mười hai giờ đêm nay hai người đợi lão ở
chân cầu La Sư cùng đi biệt bảo, sau đó liền nhét viên Ngọc Định Phong vào
trong người, vội vàng bỏ đi mất dạng.
Tư
Mã Khôi và La Đại Hải từ lúc đó đứng ngồi không yên, hai người vô cùng ngứa
ngáy chân tay, linh tính mách bảo chuyện tối nay chắc hẳn vừa mạo hiểm vừa hấp
dẫn, nói không chừng còn được chia không ít đồ tốt, thế là liền vội vàng chuẩn
bị mọi việc.
Trước
tiên, hai người phân phát thuốc lá và đồ hộp cho mọi người trong nhóm, sau đó
tìm một ngọn đèn dầu còn dùng được, lại lo lỡ đâu gặp phải bất trắc bên ngoài,
nên mỗi người đều thủ trong mình một con dao díp ba khía. Loại dao díp này có
ba mặt lưỡi, rãnh sâu khoét trên khe, nếu xuyên vào gan tụy người nào thì vết
thương không thể khép miệng, cho dù được đưa đến bệnh viện kịp thời vẫn không
thể tránh khỏi cái chết do mất quá nhiều máu. Trong khu vực Hắc Ốc không thiếu
loại hung khí kiểu này. Hai người thu xếp gọn gàng đâu vào đấy, chỉ chờ màn đêm
buông xuống là lập tức đến chân cầu La Sư tìm gặp Triệu Lão Biệt.
Đợi
mãi mặt trời mới xuống núi, hai người liền đứng dậy chuẩn bị xuất phát. Ai ngờ
đúng lúc này, một cô gái tên là Hạ Cần lại đến tìm gặp. Trước khi nghỉ học ở
trường, Hạ Cần từng là bạn cùng lớp với Tư Mã Khôi và La Đại Hải, tuy rằng cô
nàng không phải hạng xinh gái nhưng thân hình cân đối, khuôn mặt dễ nhìn, thành
tích học tập cũng khá, mà quan trọng hơn là điều kiện chính trị của gia đình
rất tốt, sớm muộn cô nàng cũng tham gia quân đội, con đường tương lai có thể
nói là vô cùng xán lạn. Từ trước đến nay, Hạ Cần rất ít khi kiếm chuyện thị phi
với đám người La Đại Hải thế mà hôm nay đột nhiên đến đây tìm gặp, khiến Tư Mã
Khôi và La Đại Hải cảm thấy vô cùng ngạc nhiên.
Hạ
Cần không đội mũ, hàng tóc mái hỉ nhi lòa xòa trước trán, đằng sau kết thành
hai bím dài và nhỏ, trên người mặc bộ quân phục loại đắt tiền, quần kaki màu
xanh da trời, ngực cài huy hiệu Mao chủ tịch. Cô nàng vội vàng chạy từ thành
phố đến đây, quần áo ướt đẫm mồ hôi, dường như có chuyện gì quan trọng lắm muốn
thông báo cho hội Tư Mã Khôi biết, nhưng khi nhìn thấy bộ dạng ngang ngược, vô
lại, bất cần đời của hai người bọn họ, cô cảm thấy vô cùng thất vọng. Hạ Cần
thở dài bất lực, lời nói vốn dĩ sắp lọt ra khỏi miệng lập tức bị nuốt ngược vào
trong, thay vào đó cô nàng đã không ngừng trách mắng bọn họ một thôi một hồi,
nói họ không nên cam tâm buông thả bản thân như vậy mà phải tìm cơ hội học tập
nhiều thêm một ít, nếu không sẽ lãng phí mất tuổi thanh xuân quý giá.
Tư
Mã Khôi ghét nhất phải nghe người khác lên mặt dạy đời, nên trong lòng thầm
nghĩ: “Cái con nhóc này sao lắm chuyện thế không biết, bây giờ là thời đại nào
rồi còn học tập?” Tuy nghĩ vậy nhưng miệng cậu ta vẫn điềm nhiên lấp liếm: “Cậu
nghĩ bọn tôi muốn thế này à? Vì sao người ta phải học tập hử? Đương nhiên là vì
muốn thể hiện cái tôi của bản thân. Nhưng tôi lại nghe có một nhà hiền triết
nói thế này, người ta sinh ra trên đời nhất thiết phải lần lượt đi theo các
tiêu chí: trước tiên là sinh tồn, tiếp đến là cảm giác an toàn, thứ ba là tình
yêu, gia đình, thứ tư là sự tôn trọng, xếp hàng thứ năm mới là thể hiện cái
tôi. Bây giờ bọn tôi ăn bữa sáng lo bữa tối, cuộc sống có hôm nay mà không có
ngày mai, ngay cả tiêu chí đầu tiên cũng chẳng đạt được thì làm gì còn tâm trí
mà nghĩ đến việc học hành nữa”.
Hạ
Cần tự biết miệng lưỡi mình không thể thắng nổi Tư Mã Khôi, bởi chỉ có quỷ mới
biết nhà hiền triết nào đã nói với cậu ta mấy triết lý đó, hay chính cậu ta
thuận miệng nói nhăng nói cuội? Cô nàng đành nói: “bạn Khôi a! Chúng mình dù
sao cũng là bạn cùng lớp với nhau, tớ nói thế chẳng qua là muốn tốt cho các cậu
mà thôi!”
Thấy
điệu bộ Tư Mã Khôi và La Đại Hải có vẻ như muốn kết thúc câu chuyện ở dây, hai
người bọn họ, tay cầm chiếc đèn dầu, thắt lưng giắt theo hung khí, Hạ cần lại
tưởng hai tên này chuẩn bị ra ngoài đánh lộn với người ta, liền vội vàng hỏi họ
định đi đâu?
Đầu
óc La Đại Hải không thể nhanh nhạy như Tư Mã Khôi nên nghe hỏi liền thuận miệng
trả lời ngay: “Bọn tôi đến cầu La Sư…” Nói được nửa câu, cậu ta tự biết mình lỡ
lời, lập tức lấy tay bịt mồm lại.
Hạ
cần từng nghe nói đến cầu La Sư ở vùng ngoại ô hẻo lánh, đó là chiếc cầu bằng
đá cổ xưa đã bị bỏ hoang từ lâu, đi qua cầu là rừng sâu núi thẳm và khu nghĩa
địa rộng lớn; ở đó tịnh không có bóng người qua lại, không hiểu hai người bọn
họ đến đó làm gì vào đêm hôm khuya khoắt thế này? Cô nàng không khỏi sinh nghi,
trong lòng chắc mẩm bọn họ đến đó chỉ để gây họa mà thôi.
Tư
Mã Khôi vội vàng giải thích, bọn họ đến đó tuyệt đối không phải để đánh nhau mà
là… mà là để bắt chim cút. Khu vực gần cầu La Sư cỏ hoang mọc rậm rạp, cao ngút
ngang thắt lưng, trong bụi cỏ có rất nhiều tổ chim cút.
Cậu
ta nói vậy cũng không hoàn toàn sai sự thật, vì người ngoài mới vào khu Hắc Ốc,
muốn chắc chân ở đây thì buộc phải đánh nhau với bọn lưu manh vô lại bản địa.
Trừ phương pháp hai bên mang quân lính đánh nhau lộn tùng bậy ra, cách tốt nhất
chính là “chọi chim cút”.
“Chọi
chim cút” là một hình thức cá độ, bắt nguồn từ cuối thời Minh và được lưu hành
rộng rãi trong dân gian, cũng giống như các trò chọi chim, đấu chó, chọi dế
khác. Lúc đầu, khi mới đến đây, vì Tư Mã Khôi tìm được một con chim cút mỏ sắt,
lông vũ tím biếc, rồi trong vòng ba ngày nó liên tiếp hạ gục mười lăm con chim
cút khác của bang Hắc Ốc nên cục diện mới được thay đổi, và hội Tư Mã Khôi mới
giành được chỗ dung thân.
Sau
sự việc ấy, mỗi lần hai bên có tranh chấp gì đều lấy phương thức “chọi chim
cút” để giải quyết; nhưng chim cút không nuôi bộ được lâu nên Tư Mã Khôi phải
tìm trăm phương nghìn kế ra bãi cỏ hoang bắt chim. Có điều, nửa đêm nửa hôm thế
này thì không thể bắt nổi, giờ lấy lý do đó quả thực chỉ là miễn cưỡng viện cớ
mà thôi.
Hạ
Cần nghe giải thích mà bán tín bán nghi, khăng khăng đòi đi theo bằng được mới
chịu tin. Tư Mã Khôi khuyên giải thế nào cũng không được, nhìn lên thấy sắc
trời đã nhá nhem tối, bây giờ cũng không thể đuổi cô nàng về thành phố nên đành
phải chấp nhận cho bám đuôi.
Đêm
hôm đó, vòm trời chi chít sao nhưng lại không có trăng, không gian chẳng có lấy
một ngọn gió mát mà oi bức ngột ngạt đến khó thở. Ba người xách theo ngọn đèn
dầu lặng lẽ rời khỏi khu Hắc Ốc, bước thấp bước cao đi rất lâu trong khu đất
vắng vẻ, cuối cùng cũng nhìn thấy chiếc cầu đá đã bị sập mất một nửa, bắc ngang
qua lòng sông khô cạn. Đây chính là cầu La Sư. Đối diện với cầu La Sư là một
vùng hoang vu, gò đồi nhấp nhô lượn sóng, trong đó là đồng cỏ mênh mông không
biết đâu là bờ, và khu nghĩa địa cổ rộng lớn có từ ngàn năm trươc, mộ phần chôn
cất chẳng có lớp lang gì cả, phần lớn là mộ vô chủ, người bị chôn dưới đất đều
là người nghèo, thậm chí còn có những mộ tận mấy người chôn cùng một hố. Nghe
nói ở đây ma quỷ hoành hành rất dữ nên ít người dám qua lại sau khi trời tối.
Trời
vào hạ, lòng sông phía dưới gầm cầu tích đầy bùn cát, cỏ dại mọc um tùm, phía
sâu bên trong lùm cây ếch nhái không ngừng cất tiếng kêu ộp ộp, bọ gậy nhung
nhúc từng bầy bơi lội trong mấy vũng nước tù, những con dơi to hơn cả chim
thỉnh thoảng lại liệng vèo qua trước mặt, khiến người ta sợ đến vã mồ hôi hột.
Có điều, Tư Mã Khôi và La Đại Hải sống ở nơi hoang vu này đã quen rồi nên vẫn
điềm nhiên như chẳng nhìn thấy gì. Xem chừng vẫn còn sớm, mấy người bọn họ liền
ngồi bừa xuống một bãi đất dưới chân cầu, tắt đèn dầu, vừa hút thuốc vừa chờ
đợi.
Tư
Mã Khôi thấy cơ sự đã đến nước này, sợ rằng không thể giấu giếm thêm được nữa,
liền thuật lại việc gặp Triệu Lão Biệt cho Hạ Cần nghe một hồi, rồi bắt cô nàng
hứa khi về tuyệt đối không được hé môi với bất kỳ ai.
Hạ
Cần thấp giọng đồng ý: “Cậu cứ yên tâm, tớ nhất định không bao giờ thành kẻ
phản bội đâu, nhưng hai người các cậu cứ làm mấy việc thị phi này, chẳng sớm
thì muộn cũng rước họa vào thân. Mấy hôm trước, tớ nghe bố tớ nói, cục cảnh sát
đã quyết định bài trừ tận gốc bang Hắc Ốc đấy. Nếu các cậu không muốn bị nhốt
vào tù thì phải sớm trở về thành phố mới được.”
Tư
Mã Khôi nghe tin ấy, trong lòng cảm thấy hơi khó chịu. Thông qua sự tiếp xúc
trong những ngày ở đây, cậu phát hiện cái gọi là “Bang Hắc Ốc” thực ra là những
con người rất thuần phát, họ chỉ là những người đẩy xe bán khoai lang, bán hành
dạo, nếu không thì là những kẻ lưu lạc không nhà không cửa. Tất cả bọn họ đều
sống nhờ vào con đường sắt, chẳng gây ra tội ác tày trời nào cả; nếu quả thực
bắt họ phải rời khỏi túp lều hoang tàn này thì họ phải đi đâu để tìm chốn dung
thân?
Trái
lại, La Đại Hải chẳng buồn để tâm, cậu ta nói nếu như không thể sống trong bang
Hắc Ốc thì sẽ dẫn Tư Mã Khôi đi Đông Bắc. Ông già cậu ta trước đây có gốc rễ
sâu trong quân đội đến tận đâu đấy chứ, muốn quan hệ có quan hệ, muốn đường đi
có đường đi, không chừng đợi khi cậu đủ tuổi còn được sắp xếp vào trong quân
đội, việc gì phải cố sống cố chết bám trụ ở đây mà chịu uất ức.
Hạ
Cần nói: ‘Đông Bắc có gì hay cơ chứ, đến mùa đông lạnh chết đi được, chẳng phải
lưỡi của cậu khi nhỏ bị đông cứng nên giờ mới thế này hay sao?”
La
Đại Hải bĩu môi tỏ ý khinh thường: “Cậu thì hiểu gì? Đồ con gái tóc dài, óc
ngắn!” Đoạn cậu quay sang hỏi Tư Mã Khôi : “Khôi này, bố cậu sau này cũng đến
Quan Ngoại phải không? Cậu bảo cái vùng ấy như thế nào nhỉ?”
Tuy
rằng Tư Mã Khôi mơ hồ cảm thấy cái thằng như mình đây tiền đồ mờ mịt, số phận
khó đoán, nhưng từ trước đến nay đều tự hóa nguy thành an, nên sớm đã chẳng
buồn quan tâm đến điều này nữa, bây giờ nghe La Đại Hải gợi lại chuyện Quan
Ngoại, liền nói: “Tớ chưa bao giờ đến vùng Đông Bắc, trước đây chỉ nghe ông già
kể, ở đó vào mùa đông đúng là tuyết bay ngập trời, khắp nơi đóng băng đông cứng,
vạn vật đều chìm vào giấc ngủ, có người còn bị đóng băng cả mũi. Thế nhưng
trong rừng già núi sâu, những việc quái lạ nhiều vô cùng, nên chỉ cần ngồi
trong lâm trường nghe người già kể chuyện cổ xưa, nghe suốt cả mùa đông cũng
vẫn không hết”.
Để
giết thời gian, Tư Mã Khôi liền kể cho La Đại Hải và Hạ Cần nghe câu chuyện ly
kỳ mà ông bố Trương Hồ Lô từng gặp ở Quan Ngoại. Ông bảo ở ngôi miếu hoang
trong núi sâu vùng Quan Ngoại, một hôm bỗng có một lão đạo sĩ đến; lão ta thu
nạp một đồ đệ ở dưới núi làm đạo đồng, đồng thời xây một tòa điện để thờ sư tổ.
Hai thầy trò cùng nhau ở trong đó tháng nọ tiếp tháng kia. Trước cửa điện um
tùm rậm rạp, bất kể ở đây chỉ toàn cỏ dại cây hoang, nhưng hôm nào cũng nhìn
thấy hai đứa trẻ hồn nhiên nô đùa ở ngoài hang núi. Mỗi ngày lão đạo sĩ gặp
chúng, đều thuận tay đưa cho hai đứa trẻ khi thì viên kẹo, khi thì cái bánh.
Thời gian lâu dần, hai bên trở nên khá thân thiết, nhưng hai đứa trẻ đó tuyệt
đối không dám lại gần cửa điện một bước.
Cứ
như vậy nhiều năm trôi qua, tất cả đều bình an vô sự, lão đạo sĩ từ dưới núi
mang vê mấy quả đào tươi ngon, trên cuống còn dính mấy chiếc lá, quả nào quả
nấy căng mọng mỡ màng. Lão mang đào bày lên hương án trong điện thờ, dâng lên
sư tổ. Lão đạo sĩ đi suốt một ngày đường, vừa mệt lại vừa buồn ngủ, thần thái
lờ đờ, cứ thế ngồi trong điện, ôm hương án, dần dần thiếp đi.
Lúc
này, một trong hai đứa trẻ đứng thập thò ở ngoài, rồi bò lên bậu cửa nhòm vào
bên trong. Nó nhìn thấy mấy trái đào tươi mọng, không nhịn nổi liền len lén lẻn
vào trong điện ăn trộm. Ai ngờ lão đạo sĩ đột nhiên hèm lên một tiếng, nhảy bật
người dậy, giơ tay tóm lấy đứa trẻ, chẳng nói chẳng rằng kẹp mạnh nó vào dưới
nách, ba chân bốn cẳng xông thẳng vào lò đốt hương phía sau điện, chân tay
cuống quít lột sạch quần áo của đứa trẻ, dùng nước tắm rửa sạch sẽ rồi vứt sống
nó vào một nồi nước to, lấy nắp gỗ nắp chặt lại, rồi dùng tảng đá to chèn lên
trên.
Lão
đạo sĩ lại gọi tiểu đạo sĩ đồ đệ đến, ra lệnh cho hắn chất thêm củi vào lò,
tuyệt đối không được bớt lửa, cũng không được mở nắp vung xem bên trong là thứ
gì, sau đó lão ta chạy đi tắm rửa thay quần áo, tế bái thần linh.
Tiểu
đạo sĩ trong lòng thầm nghĩ, người xuất gia nên lấy thiện làm gốc mới phải, sao
lại ăn thịt người tàn nhẫn đến thế? Chỉ e rằng sư phụ đang muốn tu luyện môn
công phu tà đạo nào đó. Tai hắn đã nghe thấy đứa trẻ bên trong nồi khóc thét
giãy giụa, nên cảm thấy không nhẫn tâm, định mở vung nồi phóng sinh cho nó. Thế
nhưng lại sợ lỡ đâu sư phụ chẳng ăn được thịt người, sẽ lấy dao mổ thịt hắn,
thế nên hắn lại không dám kháng lệnh.
Lửa
càng cháy càng đượm, tiếng kêu thét càng lúc càng nhỏ, rồi dần dần trở nên u
tịch vô thanh, khiến tiểu đạo sĩ nghĩ rằng đứa trẻ chắc đã bị đun chết. Hắn lại
lo nước trong nồi bị cạn nên nhè nhẹ hé mở nắp vung, đang định nghé mắt vào xem,
đột nhiên nghe thấy “bùm” một tiếng, đứa bé từ bên trong nhanh thoăn thoắt chui
ra ngoài trốn mất dạng.
Vừa
lúc đó, lão đạo sĩ đang ôm hộp thuốc chạy tới, trông thấy sự tình, vội vàng
giục đồ đệ chạy ra ngoài cửa tìm kiếm, kết quả tìm khắp nơi mà đứa bé vẫn biệt
vô âm tín. Lão đạo sĩ đành gạt nước mắt than dài: “Đồ nhi ngu ngốc, mi làm hỏng
việc lớn của ta rồi! Ta ở bao nhiêu năm trong chốn rừng sâu núi thẳm này cũng
chỉ vì quả nhân sâm ngàn năm đó thôi. Nếu nấu nó thành nước uống cùng với
thuốc, có thể trường sinh bất lão. Xem ra ta không đủ phúc phận, ước nguyện
thành tiên cũng vô vọng rồi. May mà nước canh trong nồi và quần áo của đứa trẻ
vẫn còn giữ lại, đem luyện thành linh đơn uống cũng được thượng thọ, miễn nhiễm
bách bệnh”. Nói xong, hai thầy trò liền gấp gáp quay trở vào trong điện.
Nhưng
khi bọn họ trở về tìm kiếm quần áo thì phát hiện không biết chúng đã biến mất
từ lúc nào, chẳng những thế nước trong nồi cũng bị một con chó hoang trụi lông
uống cạn, một giọt cũng không còn. Lão đạo sĩ thất vọng quá tới mức đổ bệnh,
mấy tháng sau thì âu sầu lìa đời, còn con chó hoang, nghe nói về sau lông đen
mọc kín toàn thân, óng mượt tuyệt trần, từ đó nó bỏ vào rừng sâu không bao giờ
quay trở lại nữa.
Trên
núi chỉ còn sót lại vị tiểu đạo sĩ, một mình ngồi giữ điện sư tổ trống toang
hoang, sau này hắn rơi vào tình cảnh cùng quẫn, không kế sinh nhai, đành buộc
phải phá giới thành cướp, theo chân ông Trương Hồ Lô làm thổ phỉ. Câu chuyện
này do chính miệng hắn kể lại cho ông Trương Hồ Lô nghe.
La
Đại Hải và Hạ Cần nghe Tư Mã Khôi kể với giọng rất quả quyết, như thể thực tế
đúng là đã từng xảy ra việc ấy, trong lòng cảm thấy rất mơ hồ, không thể phân
biệt nổi câu chuyện này là sự thực hay do Tư Mã Khôi bịa ra.
Tư
Mã Khôi giải thích: “Đã là truyền thuyết thì đừng thắc mắc nó thật hay giả,
nhưng các cậu có biết vì sao tôi kể chuyện này ra không? Là vì tôi cứ cảm thấy
cái lão già Triệu Lão Biệt đi lùng bảo vật kia, hao hao giống với tên đạo sĩ đi
lùng bắt nhân sâm thành tinh.”
La
Đại Hải cũng gật đầu đồng ý: “Mẹ kiếp! Mấy lũ bợm đó chẳng đứa nào ra gì! Cậu
xem bây giờ là mấy giờ rồi mà lão già chết tiệt ấy còn chưa đến? Tớ thấy, chắc
quá nửa là bọn mình bị lão cho leo cây rồi”.
Tư
Mã Khôi gật gật đầu, lớn giọng sang sảng: “ Là con người, ai chẳng có tính xã
hội, mà xã hội lại là cái quần thể tạp nham đầy tính mâu thuẫn. Mấy năm kinh
nghiệm đã mách bảo chúng ta rằng, bất luận thế nào cũng đều phải tin câu này:
trên thế giới, loại khốn nạn nào cũng có”. Cậu ta nói xong liền nhổm người đứng
dậy, định bụng nhìn quanh xem Triệu Lão Biệt đã đến chưa, không ngờ vừa ngẩng
đầu trông ra phía xa thì đã giật nảy người. Dường như không tin vào cảnh tượng
mình đang nhìn thấy, cậu ta vội vàng đưa tay dụi mắt rồi nhìn lại.
Lúc
bấy giờ, mây đen u ám, che phủ mọi vì sao vốn chi chít trên bầu trời, bóng tối
bao trùm bủa vây khăp không gian, chỉ duy phía đối diện với cầu La Sư, nơi tận
cùng đầu bên kia của cánh đồng hoang là lung linh ánh đèn. Và, không thể ngờ ở
đó lại có một thành trì trải rộng hàng trăm dặm, có sức chứa trên dưới vạn người,
quy mô quả thức không nhỏ. Có điều, do màn đêm mịt mùng, tầm nhìn bị mộ phần và
cỏ hoang che lấp, lại thêm khói bay sương phủ la đà, nên khi nhìn qua đó chỉ
thấy khung cảnh chập chờn lúc mờ lúc tỏ bất định. Trong thành đó hiện rõ ma khí
vô cùng nặng nề, khiến người ta không khỏi dựng tóc gáy sợ hãi.
La
Đại Hải và Hạ Cần cũng phát hiện ra cảnh tượng dị thường đó, và ba người đều
cảm thấy da gà nổi lên từng đợt. Chưa bao giờ bọn họ nghe nói trong khu nghĩa
địa bỏ hoang này lại có sơn thôn, thị trấn. Nơi đây tuy rất hiếm dấu tích của
con người, nhưng ban ngày thỉnh thoảng vẫn có kẻ qua lại trên đường, có điều
chưa ai từng nhìn thấy người sống trong khu nghĩa địa, nên chẳng hiểu sao tự
nhiên hôm nay lại nổi lên một tòa thành lớn như vậy? Nhìn tòa thành đó âm hiểm
dị thường, lẽ nào đó là ma thành dưới âm phủ?
Tư
Mã Khôi và La Đại Hải đều không tin vào mấy chuyện ma quỷ nên hai người mau
chóng định thần, thắp đèn dầu, rút con dao díp ba khía ra, lăm lăm trong tay,
hướng thẳng vào bức thành trì chập chờn mờ tỏ như ma trơi rồi tiến từng bước
đến đó. Bọn họ định nhìn xem rốt cục là thứ gì đang tác oai tác quái. Hạ Cần
tuy rằng không muốn đi, nhưng cô nàng càng không muốn ở lại một mình dưới chân
cầu, nên đành níu áo Tư Mã Khôi theo sát phía sau.
Ba
người hướng tầm mắt nhìn về phía tòa thành ma, lần mò từng bước trong nghĩa
địa, vừa đi vừa phạt cỏ tiến lên. Tuy rằng cả bọn đi rất lâu trong bóng tối,
nhưng dường như càng đi càng cảm thấy chột dạ, vì bất luận đã đi khá xa nhưng
trước sau vẫn cảm thấy như không thể đến gần tòa thành ẩn hiện ánh đèn nến ấy.
La
Đại Hải trong lòng không tránh khỏi cảm giác rờn rợn, liền khuyên Tư Mã Khôi:
“Tớ thấy bọn mình nên rút đã, hảo hán sợ gì cái thiệt trước mắt, nếu tiếp tục
đi không khéo lại lạc đường mất.”
Tư
Mã Khôi nhìn thấy sắc trời đúng là tối quá, trong lòng cũng cảm thấy lực bất
tòng tâm, nên đành quyết định rút lui rồi tính tiếp. Ba người liền quay đầu về
phía sau, ai ngờ cánh đồng cỏ hoang rộng mênh mông, đêm đen bao trùm mịt mùng,
chút ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn dầu chỉ đủ soi rõ trong phạm vi ba bước. Ánh
sáng le lói của ngọn đèn hiện lên giữa khu nghĩa địa hoang vắng này chẳng khác
nào ánh lửa ma trơi. Tất cả những gì có thể nhìn thấy bây giờ chỉ là những nấm
mồ nối tiếp nấm mồ. Ba người bọn họ đi không biết bao lâu, nhưng vẫn không thể
quay về lòng sông khô cạn dưới chân cầu La Sư, còn ngoái đầu nhìn lại, thấy
khoảng cách giữa họ và tòa thành trì ẩn hiện ánh sáng ma quỷ đằng kia dường như
vẫn không hề thay đổi.
Trên
trời giờ đã không nhìn thấy bóng dáng nửa ngôi sao, nên cũng chẳng thể phân
biệt đâu là hướng nam, đâu là hướng bắc. Mất vật tham chiếu, cảm giác không
gian càng bồng bềnh như không tồn tại. Trong đêm hè oi bức, thời gian phảng
phất như dừng lại, ngưng tụ tại một điểm.
Trán
La Đại Hải đầm đìa mồ hôi lạnh, cậu ta không nhịn được lẩm bẩm thành tiếng: “
Thế này chẳng phải đang gặp ma à? Nghe người ta đồn những hồn ma bị chết oan
khuất thường xuất hiện trên đường vào
ban đêm để dẫn lối cho lữ khách, bắt họ đi vòng vo một hồi rồi quay trở lại
điểm xuất phát, cuối cùng khiến họ cùng quẫn mà chết. Tục truyền con đường đó
gọi là “Hẻm ma ám”. Chẳng lẽ hôm nay anh em bọn mình lại đâm vào con hẻm ma?”
Tư
Mã Khôi vẫn bình tĩnh hơn cả: “Cùng lắm thì lãng phí một đêm ở đây, sáng ngày
mai đợi khi chim kêu trời sáng thì cô hồn, dạ quỷ gì cũng phải tiêu tan”.
Cậu
lại vung dao hươ hươ trước mặt: “Có thứ giết người này trong tay, bất kể trong
nghĩa địa có vật gì không thanh sạch, ông đây cũng phanh thây chúng ra thành ba
mảnh”.
Tuy
mạnh miệng như vậy nhưng thời khắc này dường như cách biệt hoàn toàn với thế
giới bên ngoài, mỗi giây mỗi phút đều kéo dài đằng đẵng tựa ngàn thu, bởi hoàn
toàn không thể cảm nhận được sự trôi chảy của thời gian, nên ba người khó lòng
át chế được sự phát tác của chủ nghĩa duy tâm. Họ lo rằng bọn họ thực sự đang
bị sa vào con hẻm ma ám, đường ma đi, người không thể đi, ngộ nhỡ lạc bước vào
trong đó, chỉ e vĩnh viễn không thể đợi đến thời khắc chim kêu trời sáng.
Hải
ngọng đột nhiên nhớ ra một việc, cậu ta kể với Tư Mã Khôi và Hạ cần rằng theo
cách nói lưu truyền của dân gian vùng Đông bắc, nếu một người đi lạc trong núi,
thì thường lỡ bước vào nhầm thành cổ, trong thành chắc chắn chẳng có ai là
người sống, chỉ có một lão già gầy đét như thanh củi khô, da dẻ nhăn nheo, đầu
đội mũ chóp nhọn, khi nhìn thấy người thì tự nhận: “Đầu đội mũ hoàng kim, mình
mặc áo lưu ly, bản quan là đại vương trong mộ, cưỡi thỏ ngọc đi tuần”.
Nếu gặp phải tình huống như vậy thì lão già đó tuyệt
đối không phải là người, mà là con chồn tinh, còn gọi là “Hoàng đại tiên” từ
trong núi chui ra, nếu ai còn muốn sống sót thoát khỏi hẻm ma ám, thì phải lập
tức dập đầu cúi lạy và cầu xin nó dẫn đường.