Phần I - Hồi 2: Biệt Bảo


Mã Khôi thấy cách hành xử của Triệu Lão Biệt khác hẳn với dự liệu; chẳng ngờ
lão chịu mang thuốc lá hảo hạng và đồ hộp đáng giá để đổi lấy chiếc bàn mổ thịt
mục nát, càng nghĩ càng thấy sự việc này rất kỳ lạ.

Trong
đống đổ nát ở Hắc Ốc chỗ nào cũng có vật vô chủ, ai nhặt được thì của người
nấy. Cái bàn này vốn là một trụ gỗ mục nát rỗng ruột, to bằng một vòng ôm, xung
quanh buộc ba vòng dây thừng gai, quanh năm bị máu tiết dầu mỡ bám nhằng nhợ,
màu sắc đã phai nhạt biến đổi từ lâu. Sau khi nhặt về, nó chủ yếu được dùng làm
thớt thái rau, chẳng ai biết rõ lai lịch cụ thể của nó, và xem ra ngoài việc
thấy nó có niên đại sử dụng từ khá lâu thì chẳng thấy có điểm gì khác thường.
Nay không hiểu sao vô duyên vô cớ lại có người quan tâm đến nó?


Mã Khôi thầm nghĩ: “Cái bàn chặt thịt chắc chắn là một bảo vật, nếu bây giờ
mình động lòng vì miếng lợi nhỏ mà dễ dàng trao đổi với Triệu Lão Biệt thì bất
kể lão già đó giơ ra vật gì mình cũng vẫn bị thiệt. Vậy nên trước tiên mình
phải kiếm cớ để lão ấy thấy cái bàn này đúng là đồ quý cái đã”. Thế là cậu
thuận miệng khua môi múa mép một hồi: “Triệu lão sư phụ này, lão không biết đấy
thôi, thực ra gia đình mấy đời nhà tôi đều mở cửa hàng bán thịt dê ở Bắc Kinh
để mưu sinh, chiếc bàn mục này tuy rằng nhìn có vẻ bình thường, nhưng lại là
vật gia truyền mấy đời nhà tôi để lại, tôi không chỉ dùng nó quen tay mà còn “nhìn
cương nhớ ngựa, nhìn vật nhớ người”. Bởi mỗi khi nhìn thấy nó, là tôi như nhìn
thấy liệt tổ liệt tông đã quy tiên nhà mình. Cái bàn này đã cùng gia đình tôi
trải qua những năm tháng dưới thời Quang Tự, rồi tới Nghĩa Hòa Đoàn bao vậy tấn
công khu đại sứ quán Đông Giao Dân Cảng, khiến liên quân tám nước tràn vào Bắc
Kinh. Đám quỷ tây này rặt là bọn man di từ nước ngoài dẫn xác đến, lũ bợm đó
chẳng có nửa tên tốt đẹp, đến Trung Quốc chúng ngang nhiên đốt nhà giết người
cướp của, chẳng tội ác nào không dám làm, đánh đập người mù, mắng nhiếc kẻ
điếc, rồi cuối cùng chúng nó cũng ào vào nhà tôi. Mấy tên lính tây ngắm thấy
con mèo tam thể nhà tôi nuôi rất đẹp liền định cướp về, mang dâng tặng cho nữ
hoàng điện hạ nhà chúng nó, ông tổ nhà tôi liền nổi trận lôi đình mắng
chúng:  “ngày xưa Lão Phật gia Từ Hy thái
hậu rất ưng ý con mèo này, định mang Thập Tam cách cách ra đổi lấy nó mà ông
đây còn tiếc không nỡ đem đổi. Tiên sư chúng mày chứ, chúng mày là thứ tép riu
gì mà dám cướp trắng của ông hả?!” Trong cơn thịnh nộ, cụ lao thẳng ra phố tham
gia phong trào phục Thanh diệt ngoại xâm, trước lúc đi còn ôm theo chiếc bàn
này, gặp tên giặc Tây nào là lấy bàn đập chết tên ấy, nên không biết dưới gầm
bàn đã chôn bao nhiêu mạng tướng tây lính tây. Sau đó chiếc bàn truyền đến đời
ông nội tôi, nó lại cùng ông lưu lạc đến Giang Tây tham gia hồng quân công
nông, cứ thế được mấy đời nhà tôi giữ gìn cho đến tận bây giờ. Có thể trong mắt
người khác, khúc gỗ này chẳng đáng cái đinh gỉ, nhưng đối với tôi nó chính là
vật chứng kiến cả gia đình tôi trải qua cách mạng cận đại Trung Quốc, là kỷ
niệm không thể xa lìa, ngày nào tôi cũng phải bày nó ra trước mặt, sáng thỉnh
an, tối hồi báo. Nếu ngày nào không nhìn thấy nó, tinh thần tự nhiên trở nên
hoảng loạn, đến nỗi ngay cả hướng bắc ở đâu cũng không biết; một ngày không gặp
cách tựa ba thu, nếu lỡ ba ngày không gặp có khi lo lắng đến tẩu hỏa nhập ma
vẫn là nhẹ. Lời tôi nói đây câu nào cũng là thật, nếu lão không tin thì cứ tìm
một miếng đậu phụ về đây, tôi sẽ đập đầu vào đấy cho lão xem”.

Hải
ngọng đứng bên cạnh nghe, không nhịn nổi cười thầm trong bụng, cậu ta cũng nhân
cơ hội để nâng giá cái bàn, bảo ít ra Triệu Lão Biệt cũng phải thò ra thêm ba
tút thuốc lá nữa thì mới đồng ý đổi.

Triệu
Lão Biệt nghe hai người bọn họ kẻ tung người hứng mà trợn mắt á khẩu. Lão còn
cho rằng có khi mình nhìn lầm, liền quay lại đăm đăm ngắm nghía cái bàn môt hồi
lâu, sau đó lắc đầu tỏ ý không tin, đồng thời mở toang cái túi vải đay ra cho
hai người nhìn, bên trong chẳng còn thứ gì đáng giá, đoạn lão nói: “Mỗ không
thể trả giá thêm cho hai cậu được”.


Mã Khôi thấy việc đã đến nước này thì cứ nói thẳng toẹt cho xong: “Bọn tôi và
lão là kẻ cắp gặp bà già, cóc cần sử dụng mấy chiêu thụt thò như bơi chó. Chẳng
thà đừng ai giở trò với ai nữa. Mấy bài của lão bọn tôi biết tỏng từ khuya,
trước đây cũng gặp nhiều rồi, nói chuyện cũng không cần vòng vo tam quốc, giấu
giấu giếm giếm làm gì. Bọn tôi đã sớm nhìn ra Triệu Lão Biệt lão đích thị là
tên biệt bảo, nếu không, chẳng người nào đang sống nhe nhởn lại quàng trên cổ
chuỗi bánh đả cẩu như lão”.

Cái
thứ “bánh đả cẩu” này thực ra là một loại bánh thuốc, dùng để xua đuổi chó mèo.
Thời xưa, ở vùng nông thôn, mỗi khi trong nhà có người chết, lúc đặt thi thể
vào quan tài thường đeo lên cổ xác chết chuỗi vòng này để đề phòng bị lũ chó
đói gặm nát thủ cấp hoặc bị mèo hoang nhảy qua khiến người chết nhập tràng sống
dậy. Những kẻ biệt bảo thường xuất hiện ở những nơi rừng già núi thẳm hoặc mộ
hoang, đất dữ, để tránh rắn độc, dã thú, họ cũng có thói quen đeo “bánh đả
cẩu”.

Triệu
Lão Biệt cũng nhận thấy cậu Tư Mã Khôi này tuy chỉ mười lăm mười sáu tuổi đầu
nhưng vô cùng tinh quái, hiểu biết rất nhiều chuyện và không dễ bị bắt nạt. Thế
nhưng tuyệt đối lão không thể tưởng tượng được tên tiểu tử ấy lại có thể nhìn
xuyên thấu hành tung của mình, nên trong lòng không tránh khỏi thất kinh một
phen, liền bội phần khâm phục nói: “Vị đầu lĩnh này đúng là nhãn lực hơn người,
không ngờ thời thế này vẫn còn có người biết đến nghề biệt bảo của bọn mỗ”.

Việc
đến nước này, Triệu Lão Biệt chỉ còn cách thẳng thắn thừa nhận mình quả thực là
một tay biệt bảo, hôm nay gặp vận may lớn, khi vô tình đi ngang qua khu Hắc Ốc
hoang phế, liền phát hiện ra chiếc bàn chặt thịt, đúng là “Đi mòn gót giày tìm
chẳng thấy, đứng lại ngồi nhìn ở ngay đây”. Cuối cùng lão đã nói với bọn Tư Mã
Khôi và La Đại Hải : “Lão mỗ đây chẳng nói sai với người ngay thẳng, có gì nói
nấy, cái bàn gỗ dùng để chặt thịt của hai cậu đích thị là một vật vô cùng quý
hiếm, nhưng chỉ sợ trên đời này, ngoại trừ Triệu Lão Biệt mỗ ra thì chẳng còn
người thứ hai hiểu được giá trị của nó. Hôm nay trời đã muộn, chúng ta tạm thời
cáo biệt ở đây, hai người các cậu cứ bàn bạc kỹ xem. Lời đã nói thẳng như vậy
thì mỗ cũng chẳng để hai cậu phải chịu thiệt thòi quá đáng. Trong thành mỗ còn
giấu một vật rất tốt, ngày mai sẽ mang đến đây. Nếu lúc đó các cậu vẫn khăng
khăng không chịu đổi hàng, mỗ sẽ không nói đến câu thứ hai, cất bước đi luôn,
đã đi là không quay trở lại, có câu nói xưa mỗ thấy rất hay “Không ai tắm hai
lần trên cùng một dòng sông”, đến lúc đó hai cậu đừng có hối hận”.


Mã Khôi và La Đại Hải gật đầu đồng ý, hai người nhìn Triệu Lão Biệt đi khỏi Hắc
Ốc liền lập tức trở lại lán, khêu to ngọn đèn dầu cho sáng, khênh chiếc bàn
nhớt nhát cáu bẩn dầu mỡ đặt lên mặt đất, lật đi lật lại hồi lâu, nhưng cả hai
xem tới xem lui mãi mà vẫn không phát hiện ra tý sửu dần mão gì ẩn chứa bên
trong chiếc bàn nên đầy bụng nghi hoặc. Đêm hôm đó, cả hai suy đi tính lại,
nghĩ trước nghĩ sau, trằn trọc mất ngủ cả đêm.

Sáng
sớm hôm sau, Triệu Lão Biệt quả nhiên lại tìm đến, lần này trong túi vải đay
của lão có thêm chiếc áo lông da trơn bóng, mềm mại, lớp lông da màu đen pha
lẫn ánh đỏ, có vài phần khá giống với da báo nhưng rất nhẹ và mỏng. Có điều Tư
Mã Khôi và La Đại Hải thì  đừng nói da
báo, mà ngay cả lông chồn Đại Liên cũng chưa bao giờ nhìn thấy nửa cọng, nên
hai người đành giả vờ am hiểu hỏi Triệu Lão Biệt: “Đây là da con gì vậy? Trông
lớp da bóng láng, sáng sủa cũng không tệ, là da xịn hả?”

Triệu
Lão Biệt nghe xong càng thêm đắc ý, lão liền khoe khoang: “lai lịch chiếc áo lông
này của mỗ đúng là bất phàm”. Sau đó  lão
kể lại lai lịch của nó cho hai người nghe. Lão bảo trước giải phóng thường đến
núi Trường Bạch để đào nhân sâm, đêm đến tá túc ở một lâm trường bỏ hoang.
Trong lâm trường có một con mèo già, lông vằn vện như lông hổ, to béo mập mạp,
lại vô cùng linh hoạt nhanh nhẹn, lên cây bắt được chim, xuống đất vồ được
chuột.

Triệu
Lão Biệt ở trong lâm trường lâu dần cũng trở nên quen thuộc với nó, bởi thường
cho con mèo ăn thức ăn của mình. Về sau, một buổi sáng trước khi vào núi, lão
nhìn thấy con mèo nằm rạp trên cành cây, thở hổn hển, trong có vẻ sức cùng lực
kiệt, ngay cả đuôi cũng chẳng buồn động đậy, suốt nhiều ngày trời nó đều ở
trong tình trạng như vậy.

Triệu
Lão Biệt thầm thấy lạ. Với con mắt cú vọ của kẻ biệt bảo, lão vừa nhìn là biết
ngay con mèo này chắc chắn đã gặp kỳ ngộ gì đây, liền nảy ra ý định phải tìm
hiểu cho rõ ngọn ngành. Thế là lão âm thầm quan sát theo dõi, phát hiện chỉ
cần  màn đêm vừa buông xuống, con mèo già
liền chạy vào miếu sơn thần, nó luồn vào khe cửa rồi náu mình trong bóng tối
nơi góc tường, ở đó án binh bất động.

Đợi
đến lúc đêm đã về khuya, cả không gian tĩnh lặng, thì trên chiếc kèo gỗ của
miếu sơn thần bất ngờ phát ra một tiếng động nhỏ, trông lên chỉ thấy một con
chuột khổng lồ to như con chó, hai mắt sáng quắc như đèn pha, đang bò từ trên
kèo nhà xuống trước mặt các vị thần. Đến nơi, nó dùng đuôi ngoáy vào trong
chiếc đèn dầu, ăn trộm dầu đèn mà người ta cúng cho sơn thần, đồng thời ôm ngọn
nến mỡ bò gặm nham nhở, phát ra âm thanh nghe “lọt cọt, lọt cọt”.

Lúc
này con mèo già đột ngột từ trên góc tường nhảy vọt ra, quyết sống mái với con
chuột. Con chuột tuy to xác nhưng không hề đù đờ, chẳng những vậy nó còn vô
cùng hung tàn hiểm ác và dường như không hề sợ kẻ địch. Con mèo già di chuyển
nhanh thoăn thoắt mà vẫn không làm gì được nó, hai con quái thú quần nhau huỳnh
huỵch, đánh nhau không biết mệt mỏi, đúng là quyết chiến sống chết một phen,
bởi con nào cũng thần thông, nên khó phân định cao thấp.

Nhờ
vào ánh trăng, Triệu Lão Biệt có thể nhìn rõ sự việc và hiểu được chân tướng.
Thì ra đêm nào con mèo cũng phải đến đây quyết đấu với con chuột cho nên khi
trời sáng nó mới mệt đến nỗi không lết nổi thân.. lão nhìn trộm trận ác chiến
giữa hai kẻ địch, mải mê đến độ quên hết mọi thứ xung quanh, toàn thân căng
thẳng theo nhịp độ của trận đấu, rồi vô tình lão chạm vào một cánh cửa bị hỏng
khiến nó đổ rầm xuống đất.

Con
chuột khổng lồ đang toàn tâm toàn ý tập trung vào trận ác đấu với con mèo già,
đột nhiên nghe thấy âm thanh lạ từ đằng sau vọng đến liền giật nảy mình và chỉ
cần mấy giây mất tập trung cũng khiến nó lộ ra điểm yếu để con mèo già quật
ngã, cắn đứt cổ họng. Phút chốc máu nó trào ra như suối, nhuộm đỏ cả gạch ngói
vương trên mặt đất miếu thần. Nó giãy giụa một hồi rồi cuối cùng cũng trợn
ngược mắt, thở hắt ra mà chết. Đây đúng là: “Tranh hùng quyết sống mái, phút
cuối phân thắng bại”.

Triệu
Lão Biệt là tay sành sỏi trong nghề, vừa nhìn đã biết con chuột này đã nhiều
năm ăn dầu đèn, gặm sáp nến, chắc chắn đã thành tinh, đạo hành cũng không ít,
nên liền lấy dao lột da nó, mang về đem đi thuê người làm thành một chiếc áo
khoác da thú. Vào những ngày tháng chạp băng giá, ở quan ngoại nước nhỏ thành
băng, nhưng chỉ cần khoác chiếc áo da chuột này lên người, thì cho dù bên trong
để mình trần, trán vẫn đổ mồ hôi như thường. Chỉ có điều, lão ta chưa bão giờ
tiết lộ cho người ngoài biết đây là chiếc áo da chuột trăm năm, mà chỉ gọi nó
là “Hỏa long tuấn mã”.

Triệu
Lão Biệt lại bảo Tư Mã Khôi và La Đại Hải: “Đừng thấy bây giờ là mùa hè nóng
bức, mà cho rằng chiếc áo này vô dụng. Hãy đợi khi mùa thu đến, lá trên cây ngả
sang màu vàng, hàng đàn chim ưng kêu quang quác bay về phương nam tránh rét;
đến lúc ấy nếu các cậu vẫn sống trong cái lán rách khu Hắc Ốc này, chắc khó
lòng chống chọi nổi với cái lạnh căm căm và không khí ẩm ướt, chẳng chóng thì
chày cũng nhuốm bệnh vào thân. Lúc đo hai cậu không thể rời xa chiếc áo da “Hỏa
long tuấn mã” của mỗ đây một bước được đâu”.


Mã Khôi trong lòng từ biết chiếc áo khoác da này chắc chắn là cái giá cuối cùng
mà Triệu Lão Biệt đồng ý trả; và dù sao dựa vào nhãn lực và kiến thức của mình,
cậu cũng không thể nhìn ra cái bàn chặt thịt mục nát đó rốt cuộc là bảo vật
phương nào, chi bằng cứ đổi quách đi cho xong, nên chấp nhận điều kiện trao
đổi. Thế nhưng cậu vẫn giao kèo với Triệu Lão Biệt : “Vụ làm ăn này giữa bọn
tôi và lão chắc không có vấn đề gì, nhưng xin lão sư phụ không ngại chỉ dạy
cho, đừng để chúng tôi chịu thiệt một cách mù mờ. lão hãy nói cho bọn tôi biết
rõ toàn bộ ngọn nguồn lai lịch của chiếc bàn chặt thịt, đồng thời nói luôn rốt
cục lão làm cách nào để phát hiện ra nó có điểm khác thường, và mang nó đi để
dùng vào việc gì? Nếu có chỗ nào giải thích không rõ ràng, Tư Mã Khôi tôi đây
thà chẻ nó ra làm củi đun chứ tuyệt đối không chịu để cho lão hưởng lợi dễ dàng
như thế đâu.”

Triệu
Lão Biệt vô cùng khó xử, nhăn mặt nói: “Tư Mã đầu lĩnh, cái lý của cậu có phần
không đúng lắm, người xưa đã có câu: “Khăn thêu uyên ương, mặc cho người thưởng
ngoạn. Kỹ nghệ kim chỉ, một mình mình hay”. Hai bên chúng ta tiến hành giao
dịch lấy vật đổi vật, mỗ lại không để cậu thiệt thòi chút nào, sao nhất định
phải ép mỗ nói ra gốc gác của nó?”

Tuy
rằng Tư Mã Khôi và La Đại Hải phiêu bạt giang hồ đã nhiều năm, nhưng rốt cục
vẫn không thoát khỏi tâm lý hiếu kỳ của trẻ con, mọi chuyện đều muốn biết rõ
chân tướng mới thỏa mãn, nếu trắng đen mập mờ, cả đêm ngủ cũng không ngon giấc.
Vậy nên hai người kẻ đánh người xoa, nằng nặc đòi Triệu Lão Biệt giải thích
bằng được, lại còn thề thốt sau này tuyệt đối không hối hận mà thay đổi quyết
định, cũng không trở thành kẻ phản đồ tiết lộ bí mật cho người khác.

Triệu
Lão Biệt gặp phải hai hòn đá tảng cứng đầu đành tự nhận mình đen đủi, buộc phải
tiết lộ vài phần sự thực. Thế gian đều nói bọn man tử biệt bảo mắt sắc như dao,
sự thực quả đúng như vậy. Trưa hôm qua, khi đi ngang khu Hắc Ốc hoang phế,
Triệu Lão Biệt đảo mắt một cái liền phát hiện trong lán có điểm khác thường.

Nhãn
lực nhận biết bảo vật là một môn công phu, hơn nữa còn là kinh nghiệm được tích
lũy nhiều năm, nói sao được nhỉ? Kỳ thực phải nói trắng ra thế này, khả năng ấy
không hề tà ma như dân gian vẫn truyền miệng, cũng không phải cái gì xa xôi như
kiểu nhìn thây ánh hào quang lấp lánh tỏa ra từ cái lán gỗ, mà chỉ đơn giản là
người lằm nghề biệt bảo rất giỏi quan sát,họ có thể phát hiện ra những chi tiết
nhỏ bé mà người thường dễ dàng bỏ qua.

Triệu
Lão Biệt liền đi đến cái lán thì phát hiện gần khhu vực đó có rất nhiều hiện
tượng khác thường. Theo lẽ tự nhiên, thời tiết oi bức thế này, khu vực hắc Ốc
rác rưởi chồng chất như núi, La Đại Hải lại vừa mới cắt chiếc thủ lợn vứt quay
lơ trên mặt bàn, khiến khắp nơi đều nhuốm mùi máu tanh, thì xung quanh lẽ ra
phải có rất nhiều ruồi nhặng bay lượn vo ve không ngớt mới đúng. Thế nhưng xung
quanh cái lán phía đằng sau Tư Mã Khôi và La Đại Hải lại tịnh không thấy bóng
dáng nửa con ruồi, đó chẳng phải chuyện rất lạ hay sao?

Triệu
Lão Biệt đoán chắc gần đây có giấu bảo vật, liền lập tức dừng bước, giả bộ xin
bát nước chè, rồi nhân cơ hội này ngồi luôn xuống trước cửa lán, nhìn quanh bốn
phía cẩn thận dò xét, cuối cùng ánh mắt dừng lại ở chiếc bàn mục nát dùng để
chặt thịt. Chiếc bàn chặt thịt  là phần
bên trên của một thân trụ gỗ, bốn phía buộc dây thừng gai, trên mặt bàn còn đặt
một chiếc đầu lợn mắt trợn trừng không chịu nhắm, máu tươi nhỏ ròng ròng xuống,
nhưng lạ một điều là không nhìn thấy giọt máu nào chảy ra ngoài mà từ từ thấm
ngược vào trong thân gỗ.

Triệu
Lão Biệt liếc mắt một cái, liền đoán định ra bên trong chiếc bàn gỗ nhuốm đầy
dầu mỡ này hẳn phải có một kỳ vật. Khúc gỗ để làm chiếc bàn chắc chắn được lấy
từ một thân cây cổ thụ. Trước khi bị người ta đốn chặt, trong thân nó có lỗ
hổng do sâu đục, vừa vặn để một con rết cỡ nhỏ chui lọt. Con rết ở trong thân
cây lâu ngày, cơ thể dần phình to, khó lòng chui ra ngoài thoát thân, đành chịu
bị nhốt ở bên trong. Con rết liên tục được hút tiết lợn, qua năm dài tháng
rộng, lâu dần cơ thể nó tiết ra một viên “Ngọc Định Phong”. Nghe nói vì viên
ngọc có thể chữa trị bệnh thống phong nên người ta mới đặt cho nó tên ấy, chứ
không phải đó là viên ngọc mà Tôn Ngộ Không năm xưa được Tiên Ông ban cho để
chiến đấu mượn được quạt Ba Tiêu của Bà La Sát trên đường đi Tây Thiên thỉnh
kinh. Về sau, chiếc bàn chặt thịt bị chủ hàng vứt bỏ, không biết lưu lạc thế
nào lại đến được khu Hắc Ốc hoang phế, con rết già nằm bên trong đã bị chết đói
từ lâu, nhưng viên ngọc thì vẫn còn. Viên “Ngọc Định Phong” này là loại linh
đơn được kết tụ bởi rất nhiều âm tà huyết khí, nên lũ ruồi muỗi mới không dám
bén mảng đến gần. Vật mà Triệu Lão Biệt muốn có, chính là viên ngọc quý này.

Lúc
ấy, Tư Mã Khôi không thể tin nổi, làm gì có chuyện chuẩn xác đến thế? Cậu lập
tức đi tìm cái rìu bổ củi, bổ toang cái rìu chặt thịt ra làm mấy mảnh, và trong
đó quả nhiên có một con rết lớn, toàn thân đỏ au au nằm cuộn tròn người. Bị rìu
chặt ra làm hai đoạn, tuy nó đã chết nhưng trông vẫn sinh động như đang sống,
còn trong miệng con rết ngậm một viên ngọc trắng phơn phớt, tròn vành vạnh,
không hề tỏa ánh sáng bóng, mà nhìn giống như một cái mắt cá màu đùng đục.


Mã Khôi và La Đại Hải nhìn chằm chằm không rời, và đến lúc này mới coi như thực
sự tâm phục khẩu phục, có trách thì chỉ trách bản thân mắt mờ, ở bên cạnh bảo
vật bao lâu nhưng không hề nhìn thấy, sau này muốn hối hận cũng không kịp, tối
nay cứ việc nằm đợi mà nuôi muỗi.

Triệu
Lão Biệt cười hì hì, trong lòng vô cùng đắc ý nhưng vẫn giả bộ khuyên giải hai
người: “Có câu nói xưa thế nào nhỉ… “Số mệnh ba thước, khó cầu một trượng”. hai
vị đầu lĩnh tuổi trẻ xuất anh hùng, tuy rằng vô duyên với viên ngọc này, nhưng
ngày dài tháng rộng, hơn nữa còn đổi được chiếc áo da, thuốc thơm và nhiều đồ
nhai sướng miệng nữa, thì cũng nên biết thỏa mãn. Hai bên chúng ta đều có được
vật mà mình muốn có, chẳng ai thiệt thòi cả, núi không chuyển thì sông chuyển,
sau này chắc chắn còn có cơ hội gặp mặt”. Nói đoạn, lão nắm chặt viên Ngọc Định
Phong trong tay, quay người định đi.


Mã Khôi và La Đại Hải đang lúc hưng phấn, làm gì có chuyện buông tay bỏ qua dễ
dàng như thế, hai người liền vội vàng ngăn Triệu Lão Biệt lại: “Lão vẫn chưa
nói  rõ hết mọi chuyện, sao nói đi là đi
ngay được? Viên ngọc trông giống cái mắt cá này rốt cục có công dụng gì? Lão
mang nó đi định dùng vào việc gì?”

Triệu
Lão Biệt có vẻ hơi ngần ngừ một chút. Lão vốn không định nói thêm nữa, nhưng
thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải gan to hơn trời, ngông cuồng chẳng biết sợ thần
quỷ gì cả, mà bây giờ một mình lão vào núi biệt bảo lại đang cần trợ thủ, nếu
được hai thiếu niên trẻ tuôi ở bên cạnh giúp sức thì chẳng phải công việc sẽ
thêm phần suôn sẻ hơn sao? Nghĩ đến đây, Triệu Lão Biệt liền nheo mắt nhìn trời
rồi thấp giọng bảo: “Xem ra cái thị trấn cổ trong Hắc Ốc này địa hình không
phải hạng xoàng, vốn là mảnh đất vàng, phong thủy thuận chiều “Phượng hoàng sải
cánh, tung ngọc rải vàng”, nhưng bao năm nay không biết vì lý do gì mà đất đai
trở nên cằn cỗi, người vật cùng kiệt?”


Mã Khôi và La Đại Hải cảm thấy không thể lý giải nổi, liền hỏi: “Mấy cái thuật
phong thủy địa lý cổ xưa, anh em bọn tôi cóc hiểu lắm, nhưng nghe nói Hắc Ốc từ
trước đến nay đều nghèo xơ xác thế này, cỏ dại mọc um tùm, đất đai nứt nẻ,
trồng cây gì chết cây đấy, thì làm sao có thể gọi là mảnh đất vàng được?”

Triệu
Lão Biệt nói: “Lúc trước mỗ đã nói gì nhỉ, có trách thì chính là trách điều
này, nơi đây tuy rằng địa lý rất tốt nhưng lại nằm ở giữa hai dải núi, thiếu mất
nguồn linh khí mà những mảnh đất vàng phong thủy khác vẫn có, vì thế mỗ đây dám
phỏng đoán rằng bên trong ngọn núi hoang vu phía tận cùng mạch đất nơi con
người chưa hề đặt chân tới, chắc chắn có chôn giấu một cổ vật ngàn năm mang âm
khí rất nặng nề, chính vật này đã hút cạn tinh hoa của trời đất, ám hại thổ
nhưỡng sông ngòi nơi này. Nhưng vẫn có câu “Phải nhìn tận mắt mới hay thật
giả”, rốt cuộc trong lòng núi cất giấu vật gì, bây giờ mỗ cũng không dám đoán
bừa”.

Triệu
Lão Biệt tự nhận mình phải dùng trăm phương ngàn kế mới lấy được viên Ngọc Định
Phong trong chiếc bàn chặt thịt mục nát. Lão muốn mượn vật này để đi đào bảo
vật chôn giấu dưới lòng núi. Trước khi đi, lão ta còn nhắn nhủ: “Này hai vị đầu
lĩnh! Nếu hai cậu có gan thì giờ Tý đêm nay đến chân cầu La Sư phía sau khu Hắc
Ốc đợi mỗ, tới lúc đó mỗ sẽ cho hai cậu mở rộng tầm mắt. Có điều hai cậu phải
tuyệt đối nhớ kỹ, việc này không được tiết lộ với bất kỳ ai”.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3