Đất Trời- Chương 02 part 3

Phạm Văn Xảo cho người đến hẹn Trần Nguyên Hãn ở quán Hậu Ðình. Vốn lịch lãm nhưng kín đáo, Xảo khôn ngoan giao dịch với Thượng tướng Trương Phụ. Ðể tóc dài rồi tết đuôi sam, Xảo hòa nhập dễ dàng với đám quan quân nhà Minh. Phụ tin cậy giao cho Xảo công việc chuyển vận từ Giao Châu về chính quốc. Khi chuyển ngọc châu, kỳ hương, sừng tê về Yên Kinh, lần nào Xảo cũng tìm cách giữ được một phần riêng cho Phụ. Thuở theo Trùng Quang đế, Hãn lờ mờ biết rằng những tin mật thăm dò được từ bọn người Minh cầm đầu Giao Châu có thể là do Xảo báo. Vốn thận trọng, Xảo giao du rất giới hạn, không hề lộ ra một điều gì cho ai nghi ngờ được.

Xưa nay, Ðông Ðô có phường Yên Hoa là nơi tục khách đến vui chơi hát xướng. Phường có độ ba trăm nóc gia, tửu lầu nhan nhản hai bên đường, nhưng nhà hát nổi tiếng thanh lịch thì chỉ có dăm ba. Ở những nơi đó, ca kỹ được luyện tập từ tấm bé. Thường họ biết chữ nghĩa, và từ khi Giao Chỉ thuộc Minh, đã có những cô hát được sành sõi các làn điệu như Ức Tần Nga, Tần thu hoài, Vọng Giang Nam ... Nhiều tác phẩm lừng danh bên Ðại Quốc triều Tống hiện thời rất thịnh. Nhất là Tống từ của nữ sĩ Lý Thanh Chiêu, nỉ non kể lể nỗi niềm đám vợ hiền con thảo của những kẻ chinh chiến, khơi dậy nỗi buồn xa xứ trong lòng bọn quan quân biên ải.
Tiếng đàn sáo văng vẳng ngay từ đầu một cái ngõ đủ rộng cho hai cái kiệu đi. Trước cửa nhà hát, người ta treo những lồng đèn màu. Ánh sáng yếu ớt hắt qua những tấm sáo kín đáo che đậy vừa đủ để khêu gợi sự tò mò. Thỉnh thoảng tiếng cười đàn bà con gái cất lên, khi ròn rã gọi mời, khi lại uốn éo tựa tiếng mèo hoang động đực. Hãn dừng chân trước một căn nhà, tay vén bức sáo, nhô đầu vào định hỏi đâu là quán Hậu Ðình. Bên trong, năm bẩy cô ca nhi đang tựa vai kề má một bọn lính, tay chuốc rượu, mắt đưa tình, chẳng ai thèm trả lời. Thình lình, từ buồng trong một tên phóng mình ra, tay giữ cạp quần, cứ thế cắm đầu chạy. Ðằng sau, một ả nạ giòng đuổi theo, miệng la oai oái ‘‘…nó chơi quịt, chị em ơi ! Túm lại hộ ! ’’. Thuận chân, Hãn ngáng rồi giả vờ ngã theo tên lính, tay giúi đầu hắn xuống đất. Ả nạ giòng nắm cái giải quần tên lính, bù lu bù loa, kéo xềnh xệch. Cuộc ngã giá nhanh chóng kết thúc, với sự can thiệp của một mụ tú bà sành sỏi. Ả nạ giòng ngúng nguẩy, trả công Hãn bằng cách chỉ cho Hãn quán Hậu Ðình ở mé phải cuối ngõ.
Ðến trước, Hãn ngồi đợi trong một căn phòng do Xảo đã đặt sẵn. Bên cạnh, tiếng đàn thất huyền chậm rãi hòa vào tiếng tiêu đang vút cao rồi bỗng thình lình hạ xuống hẳn hai cung. Một giọng hát lảnh lót bất chợt cất lên, lời đong đưa :
Trời vần mây nổi sương giăng mắc
Tinh hà xoay nghìn cánh buồm say
Hồn ngỡ bàng hoàng về đất cũ
Thoáng bên tai
Ai đi về?
Về đâu đây ?
Chỉ biết đường xa chiều đã tà
Theo chẳng kịp chân vần thơ cổ
Gió lại chẳng dừng
Thuyền Bồng nào ghé bến mơ xa.
*
Tiếng hát kéo dài van vỉ tiếc nuối. Nó vẳng xa như một giấc mơ đọng lại ở phút cuối giấc ngủ, lềnh bềnh giữa hư thực, mỏng mảnh nối quá khứ vào hiện tại. Hãn chạnh lòng hồi tưởng lại quãng thời gian phiêu bạt. Tháng tám năm Kỷ Sửu, Hãn đến Bình Than xung quân. Trương Phụ nhà Minh vây hãm, Hãn theo Ðặng Dung lui về cửa Hàm Tử. Quân ta phải gặt lúa sớm, lính bữa đói bữa no, lâu tất phải thua vì lương thiếu. Trương Phụ đến đâu, thây chết thành non chỗ ấy. Lính Minh cướp bóc và giết chóc như trò chơi. Chúng rán thịt lấy mỡ, móc ruột quấn cây đốt đuốc, mổ bụng moi thai mang nộp lấy thưởng, sự tàn bạo khiến đến cỏ cũng không dám mọc thẳng trên đất Giao Chỉ. Thủy quân của Phụ phá được Hàm Tử, vua Trùng Quang lui về Nghệ An cầm cự được hơn một năm. Ðến tháng tư năm Quí Tỵ, quân ta mười phần còn ba, phải lùi vào Hóa Châu. Vua sai sứ giả mang phương vật đến Nghệ An xin cầu phong. Trương Phụ chỉ cười, không thèm trả lời, mang chém sứ. Nghe tin, Trùng Quang Ðế khóc rồi lại tính gửi sứ giả khác đến gặp Phụ. Ðặng Dung cản nhưng vua không nghe. Dung lẳng lặng chẳng nói gì, suốt đêm mài kiếm, tiếng đá xoèn xoẹt chói buốt khiến không một ai ngủ được. Tảng sáng, Hãn đến. Dung nói ngay ‘‘... ông đến cáo biệt, ta biết rồi ’’. Hãn ngậm ngùi ‘‘ Nhà Trần tuyệt mất, tôi là tôn thất mà nay cũng chịu. Tướng quân đi với tôi, ta lo kế khác ’’. Ðặng Dung ngửa mặt cười một thôi dài rồi bảo ‘‘... ông đi đi. Nhớ cầm theo cái này...’’. Ðó là bài thơ Cảm Hoài, than rằng dưới trăng mài kiếm đã mấy chầy, sự thế lao đao khi tuổi tác, nợ nước chưa trả mà đầu đã bạc với tháng ngày.
Ðang còn ngẩn ngơ, Hãn nghe tiếng kẹt cửa. Xảo bước vào, tươi cười, giọng đùa cợt :
- Ðể huynh đài một thân một mình chốn lầu hồng, đệ cứ áy náy. May có cố nhân đây bảo, ai chứ Hãn thì có đâu câu nệ những chuyện vặt ấy…
Một người đứng sau bước lên. Nhìn thoáng, Hãn reo nhỏ :
- Trãi đấy à ? Ta không ngờ gặp chú ở đây đấy. Chú em tên Viễn dặn ta cẩn thận. Quả có thế, ta đến chỗ chú hai lần, chúng nó rình mò thật ! Chú trói gà không chặt mà sao chúng nó lại hãi chú thế hả ?
Trãi cười không đáp. Lấy tay vẫy, Xảo gọi đám ca nhi vào theo, rồi thì thầm :
- Chuyện đại sự mà không có tiếng đàn tiếng sáo thì buồn lắm. Nhất là ở Hậu Ðình ...
Xảo quay người, tay kéo Hãn và Trãi vào một góc, miệng ngâm nho nhỏ hai câu thơ nổi tiếng theo cách Thanh bình điệu:
‘‘ Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Ðình hoa ’’
than người con gái chẳng biết gì mối sầu mất nước nên bên sông vẫn cứ còn hát mãi khúc hát Hậu Ðình.
Ba người tụm lại, mặc cho đám ca nhi múa hát góc bên kia. Họ châu đầu nói thì thào, thỉnh thoảng lại với ống điếu, rít thuốc rồi nhả khói bay xanh một góc. Tình hình sau khi Trùng Quang bị bắt ngày một thê thảm. ỞÛ Hoan, Ái tinh thần nghĩa quân không còn, lực lượng tứ tán. Trương Phụ phái bọn Phương Chính và Thái Phúc vào giữ thành Nghệ An, làm thế ỷ dốc với Diễn và Hóa Châu, vây chặn. Sự thể trước mắt thật khó, tiến chẳng được mà lui cũng không. Trên miệt Mường La và Phục Lễ, Cao Bằng, nhà Minh đặt đám Dao, Mán, Mường vào những chức vụ Tri Châu, biến họ thành một tầng lớp phiên thần khá đắc lực làm tay sai. Hơn nữa, ở miệt trên, hậu phương không có, đánh rút rất dễ mất chủ động nên phải bó tay.
Nhìn Trãi, Hãn thở dài. Xảo chán chường, ngả người ra với chiếc gối kê lưng. Nhìn hai kẻ kiệt hiệt vẻ chừng như đã thấm mệt, Trãi ngẫm nghĩ một hồi lâu. Bấy giờ, chỉ còn tiếng hát lẫn trong tiếng đàn ai oán. Trãi bỗng thấy sợ. Nếu ngay những người này mà hoài nghi rồi buông thả, giang sơn Ðại Việt sẽ còn gì ? Không, không thể thế được ! Nhưng làm sao đây ? Phải rồi, phải đổi cách nhìn. Trãi bóp trán, giọng trầm tĩnh :
- Nói đến động binh trước mắt thì có thế thật. Nhưng nhìn dài hạn, đệ không bi quan như hai vị, ngược lại là đằng khác…
Nuốt nước bọt, Trãi nhìn ánh mắt thôi thúc cũa Hãn, nhẹ nhàng nói tiếp :
- Nay người Minh một mặt rêu rao nhân nghĩa, mặt khác thì bắt dân lên rừng tìm sừng tê, xuống biển mò ngọc trai, đòi hết voi trắng đến kỳ lân, thu mua đủ hàng hiếm quí với giá ăn cướp. Thuế cũng tăng, phu dịch thì ngày một nặng nề, dân sợ ngậm miệng nhưng ca thán trong lòng. Trương Phụ tàn bạo, động là giở trò chém giết. Hoàng Phúc thâm độc, đốt sách vở Ðại Việt, lại chiêu dụ hiền tài mang về Yên Kinh. Nhưng cái sách bắt đàn bà mặc quần cạo răng trắng, bắt đàn ông tết bím để đuôi sam thì không phải là khéo cho lắm. Chẳng chóng thì chày cũng sẽ có chống kình. Mà hễ có, là Trương Phụ lại sai Mộc Thạnh ra tay đàn áp. Dĩ nhiên máu sẽ đổ. Máu lại gọi máu, thù lại réo thù. Cứ chồng chất lên thì lúc nào đấy, hô một tiếng là có lê dân, giặc dẫu mạnh cũng không thể nào cưỡng nổi. Một khi có lòng dân, sớm muộn rồi ta cũng thắng...
Hãn im lặng, tay laiï quơ điếu thuốc lào, châm đóm rồi rít sòng sọc. Xảo nhìn Trãi, ngờ vực hỏi :
- Sớm muộn là bao lâu ?
Trãi hiểu hy vọng nào cũng cần một cái mốc thời gian làm chuẩn. Oái oăm thay, tương lai lúc này đâm ra tùy thuộc vào một võ đoán. Nhưng không làm không được. Hít hơi vào đầy lồng ngực, Trãi nghiêm nghị :
- Nhà Hồ được sáu năm, dân bỏ. Hậu Trần thì chưa đâu vào đâu, nhưng không gây tội nên có thua quân Minh cũng phải mất năm năm. Từ nay, ai cũng rõ Ðại Việt thành ra phủ Giao Châu dưới đế quyền Vĩnh Lạc nhà Minh. Trương Phụ cứ vơ vét bạo ngược thế này, đệ nghĩ là chỉ năm, bảy năm cái chế độ thuộc Minh phơi bày đủ để lê dân biết đâu là quyền lợi của họ. Từ đó, chiến thắng thì mất thêm năm đến mười năm.
Hãn chừng đã xuôi tai, ngắt :
- Nhưng cần chính danh. Phò ai làm vua sau này ?
- Tìm người nhân đức mà phò, dụng tâm công mang đạo nghĩa chống hung tàn ...
Mang đạo nghĩa chống hung tàn ? Trãi ngạc nhiên nghe chính mình có thể nói đơn giản đến thế vậy. Có lẽ từ một cõi tiềm thức thăm thẳm, chàng buột miệng, mặc cho trực giác dẫn trí tuệ đi một con đường thẳng tắp, không ngoằn ngoèo biện minh, không đôi co lý lẽ. Hãn bật cười, nhưng giọng dịu xuống :
- Ta thấy ít kẻ thật nhân đức mà lấy được thiên hạ. Thường, họ trí trá, giỏi nói và giỏi giả nhân đức. Cái kiểu Lưu Bị ném ấu chúa đi, mắng cho vui lòng Triệu Tử Long, vì mi mà ta suýt mất một tướng tài ấy mà !
Khuya hôm ấy, ba người dặn dò nhau rồi chia tay. Xảo và Trãi đợi cho đến khi Hãn khuất bóng mới ra cửa. Trên trời, sao khuya dày đặc một giải óng ánh. Xảo ngần ngừ, giọng chân tình :
- Bài thơ nôm huynh làm hôm tất niên hay lắm !
Bất giác, Trãi thở dài, lúng túng quay đi. Xảo níu tay Trãi, nói nhỏ :
- Này, tình thật nhé. Cái chuyện chèo quơ nước ngược chuyến đò ngang ấy mà... Việc gì phải khổ thế, hở huynh ? Ở Ðông Quan chắc cũng còn lâu, huynh cần có người chăm nom cho. Cứ nói một tiếng, em gái đệ sẽ theo về hầu. Nó ở vậy chờ mãi, xem ra cũng tội nghiệp...
*
Ra khỏi quán Hậu Ðình, Trãi cắm đầu đi trong đêm hun hút, bỏ đằng sau tiếng xênh tiền và những lời ca thương nữ bên kia dòng sông lấp loáng ánh đèn. Ðông Quan bây giờ im và lắng. Thỉnh thoảng có tiếng chó ằng ặc sủa, ngắt quãng như bị bóp cổ, nhỏ dần rồi tan loãng vào màn đêm lạnh chớm hơi sương. Ðâu đây, ai say rượu lè nhè hát, tiếng khô đục chạm vào mặt đất dội lại thành lúc ê a, lúc ậm ừ, lúc lại ừng ực như đang nuốt vào lòng những giọt nước mắt. Mùi hoa sữa dọc con dốc thoang thoảng, gió lên là biến đâu mất, và khi gió ngừng thì lại quanh đây, ngọt ngào, bảo bọc.
Ðêm đen. Tiền đồ ? Trãi chỉ dự đoán và ước vọng. Bao lâu ? Câu hỏi của Xảo lại vang lên. Sự xác quyết của Trãi ban nẫy nay không thuyết phục được chính Trãi. Nó chỉ nhằm động viên khi ý chí nhất thời xuống dốc. Con đường trước mặt thật vẫn gập gềnh. Và bất cứ ở khúc quanh nào tình cờ cũng rình rập đe dọa. Lấy đạo nghĩa, chống hung tàn. Nhưng mấy khi thắng được ? Mà nếu không, Trãi chua xót nghĩ, thì hung tàn chính là qui luật tiến hóa ư ?
Lên đến đầu dốc, căn nhà Trãi sừng sững như một khối cô đơn khổng lồ. Ði chậm lại, Trãi bỗng sợ phải một mình đối mặt với khoảng tịch mịch trong kia. Trãi ngừng chân, ngửng mặt nhìn lên bầu trời đen ngòm, cảm thấy mình ngụp lặn tận đáy sâu một vực thẳm. Ở đó, đúng là không còn chút dưỡng khí. Trong lòng, ngọn lửa vừa nhen lụi dần. Những tế bào não tê dại dập tắt khả năng vùng dậy để ước mơ. Với người, Trãi mới đây gầy tro than nhóm lên hy vọng. Một mình, Trãi lại chỉ thấy giá băng. Và một niềm tuyệt vọng mang mang. Hai con chó từ sân sau sủa khe khẽ, chạy lại quấn lấy chân Trãi, đuôi vẫy rối rít. Mở cửa, Trãi lách vào.
Góc nhà, ngọn đèn dầu ai châm lóe sáng. Trãi che mắt hỏi :
- Ai ?
- Em. Em đây.
- Ơ kìa, có thật là em ? Trãi dụi mắt, tưởng mình mê ngủ.
-...
- Sao em đến khuya thế ?
- Thì còn sao nữa...Ðừng cứ hỏi tại sao.
Người con gái ngồi trên giường, tay xổ khăn, mớ tóc huyền bung ra đổ xuống bờ vai như thác chảy. Nàng nhẹ nhàng kéo áo rồi lần lên cởi, những ngón tay thuôn mềm trên yếm đào nửa vội vàng, nửa chậm rãi. Nhắm mắt, hàng mi cong vành cong như một vết chì thỉnh thoảng chớp nhẹ. Nàng mỉm cười, hàm răng đen nhấp nháy dưới ánh đèn. Trãi sực đưa mắt lên xà nhà. Mơ hay là thực đây? Không, không phải là người đàn bà áo xanh đêm nào. Trãi cúi mặt nhìn xuống. Nàng chỉ còn chiếc váy che hạ thể, hai tay từ từ vuốt lên bụng, rồi lên ngực, rồi xòe ra che hai bầu vú cong nhọn run rẩy. Trãi thều thào :
- Thôi, em...
- Không ! Nhất định...
Trãi ngần ngừ. Chàng bước đến cạnh giường, tay để nhẹ lên vai nàng. Bất chợt, chàng mơ màng :
- Em có thật đây mà...
Trãi lênh đênh mặc cho thể xác phiêu bồng, kéo yếm rồi lần xuống cởi dần sợi dây quấn váy, cảm thấy tay người con gái nắm tay mình lúc như cưỡng, khi thì giục, trong tiếng rên rỉ nguyên sơ của nhục cảm diệu kỳ. Hai cánh tay mềm mại vòng lên cuốn lấy cổ Trãi rồi khẽ ghì xuống, lôi trời lôi đất vào mênh mang, kéo hạ thể theo chuyển động co thắt của giải ngân hà, tinh tú thình lình tán loạn, sao băng tứ phía, vũ trụ thành trận pháo hoa. Trãi hỏi trong mê hoảng, em, có thật không em, hay em là giấc mơ có giọt máu rắn đêm nọ và hình ảnh chập chờn một giải áo xanh oan nghiệt. Người con gái thình lình kéo đầu Trãi xuống úp vào ngực mình, miệng chữ còn chữ mất :
- Còn ai nữa. Em có thật...
Mùi hương thoảng vào mũi Trãi như thuở còn thơ chàng vẫn thường tìm hoa nhài kết vòng mang về ngâm vào nước pha trà cho cha. Trãi giúi mặt vào lồng ngực phập phồng, nghe tiếng tim đập như khơi giục, ngột ngạt đến nghẹt thở. Chàng ngửng lên, để mặc thác tóc huyền xô vào mùi bồ kết cứ ban đêm là sực thơm, thơm huyền ảo mùi thơm thuở khai thiên, giữa sấm chớp xé vũ trụ thành những mảnh li ti, làm ra thiên hà, tạo ra cái trái đất bé bỏng nhưng đầy bí ẩn này.
Trãi lăn vào cuộc nồng nàn nhận sự dâng hiến đầu tiên của người con gái khi đau chỉ nghiến răng ứa nước mắt.
- Sao em khóc ?
- Không. Em sung sướng. Ðội ơn chàng ! Cái chuyến đò ngang đó...
Cứ thế, đêm qua đi. Bao nhiêu sinh lực Trãi chẳng kìm đều cho ra hết. Người con gái ngỡ ngàng. Nàng dịu dàng bảo, em là của chàng mãi mãi. Có gì vội đâu, chàng ơi, đời vẫn còn dài. Và đêm, đêm vẫn còn dài. Nhắm mắt, Trãi mê dần, thân thể choãi ra rồi tê dại, mùi máu tanh đêm gặp rắn lại bỗng thoang thoảng xông lên. Trãi hoảng hốt nhìn vào hạ thể người con gái, hai bên đùi lem vết máu trinh tiết ứa từ cửa mình. Trãi tiếc nuối như thể chính thân mình vừa mất mát rơi vỡ. Người con gái se sẽ ngồi dậy. Giọt máu trườn theo chiều thon bắp đùi chảy dài xuống giây vào bàn tay Trãi đang ve vuốt. Trong bóng đêm, mắt Trãi cay sè nhức bỏng. Chàng bỗng chơ vơ như lúc lạc đường thuở chập chững tập đi. Trãi thầm kêu, ơi hỡi, ta lại vừa đèo bồng đời một người con gái, lấy đi trinh tiết. Ðể cho lại, liệu ta có gì ngoài cái khoảng trống hun hút trong lòng. Và bờ vực chập chùng cạnh bước chân, với những câu hỏi vò xé tâm can. Trong cái thế người bị trị cổ kê dưới lưỡi đao đầu kiếm, cớ sao ta vẫn cứ một điều nhân nghĩa, hai điều tâm công? Sách Bình Ngô trích dẫn những Thúc Di, Bá Tề, viện lời Khổng Khâu nói về Quản Trọng, kêu đuổi giặc cốt để giữ lấy văn hiến. Nhưng như thế, ta bị chữ nghĩa cầm tù, ngôn từ vây bủa. Cớ sao cứ phải lập lại những Luận Ngữ, Trung Dung ? Câu đáp tên Hoàng Phúc, rằng Ðạo Thánh là của chung thiên hạ nhưng làm theo Ðạo thì mỗi nơi một phách, chẳng qua đặng chẳng đừng ? Ði đến gốc đến rễ, phải chăng há miệng mắc quai ?
Lảm nhảm, Trãi nói như hóa dại. Người con gái ấp tay Trãi vào lòng, thỉnh thoảng gạt nước mắt cho Trãi. Nàng se sẽ ru, như thể lời ru mang cái nhiệm mầu cứu rỗi mọi nỗi oan khổ oán hờn. Trãi muốn xua tất cả đi để thực sự sống trọn vẹn một đêm. Nghĩa là sống trong hiện tại. Với xác thân, thứ thuốc an thần êm ái dìu vào giấc ngủ. Chàng tận lực lật cho nàng nằm úp lên mình, mặc cho đất trời vần vũ quay cuồng. Cuối cùng chàng chỉ nhớ tiếng nàng thì thào :
- Chàng ơi ! Hạnh phúc có trong từng những cái nhỏ nhoi !
Nằm vật xuống, Trãi thả mình vào một miền đắm đuối có tiếng nỉ non van nài :
- Sự sống có đâu chỉ ở chuyện đại sự! Cứ như trẻ thơ. Ðừng gồng mình! Hãy để mọi sự tự nhiên, như mây cao, như gió lộng. Ðừng lo đời thiếu mình, để kết cục chính mình thiếu tất cả. Ðiều kỳ diệu của sự sống chỉ nắm bắt được khi ta biết yêu biết quí từng cái nh
Báo cáo nội dung xấu