Đất Trời- Chương 02 part 2
Từ sáu năm nay, Hà Trí Viễn là dân ngụ cư ở Nhị Khê, trông coi mồ mả, nhà cửa và mấy sào ruộng nhà họ Nguyễn. Vì xưa nay gia đình Trãi vốn được lòng mọi người, dân làng coi Viễn như khách quí. Nhất là Trãi đã thưa với tiên chỉ rằng đã nhận Viễn như nghĩa đệ, giao phó cho mọi việc kể cả việc làng. Có Viễn, chàng nay chỉ về Nhị Khê ngày giỗ ngày tết, mặc dầu từ Ðông Quan đi chỉ mất chưa đến một ngày đường.
Viễn là một người đặc biệt. To cao dềnh dàng, Viễn lúc nào cũng như cố thu người cho nhỏ lại. Bản tính lầm lì, chỉ cần lắm Viễn mới mở mồm ra nói. Mỗi ngày, công việc đồng áng xong là Viễn lại về trộn bùn nung gạch. Cực nhọc như vậy, là bởi Viễn chưa đầy hai mươi mà đã có đến sáu đứa con. Con đông thế, dĩ nhiên Viễn không chỉ một vợ. Cô vợ đầu Viễn lấy khi mới mười sáu chửa ngay. Khi mợ cả nằm dạ, cô em đến giúp chị. Thế là cô em chửa, thành mợ hai. Lần này, hai chị em không cho cô út đến giúp chị. Tưởng thế là xong ư ? Năm Viễn mười tám thì mợ cả và mợ hai đều lại chửa. Sắp đến ngày sinh, Viễn đi Ðông Quan thăm Trãi, khi về dẫn theo một người con gái. Viễn trừng mắt ‘‘... nhận chị nhận em với nhau đi ! ’’. Năm sau, mợ ba cùng hai chị thi nhau đẻ. Viễn điềm đạm bảo, có con là có của. Từ khi ấy, Viễn làm thêm một trái sau nhà. Người làng bông đùa, cả ba mợ cứ thấp thỏm đợi mợ tư. Viễn bảo ‘‘ tri túc hà thời túc ’’. Không hiểu gì, ba mợ rủ nhau lên chùa Thiên Pháp hỏi sư bác. Sư bác giảng ‘‘ biết đủ, thế là đủ ’’, rồi cười hềnh hệch nói lái ‘‘…chẳng chỉ đủ mà là đù quá là đủ đi chứ lị ! ’’.
Sư bác chùa Thiên Pháp xưa là võ tướng triều Trần, qui y sau lần đi đánh Chế Ma-Na đất Chiêm. Nghe nói là Sư phạm sát giới đến độ đêm nào cũng nằm mơ thấy máu me và ma quỉ về đòi mạng. Nhưng bỏ dao xuống là thành Phật. Và quả thế, Sư nay hiền hòa, động chân động tay thì chỉ dạy võ trong sân chùa cho bọn thanh thiếu niên quanh vùng đến xin học. Và Sư chỉ dạy đánh gậy, nhất định tránh những khí giới làm bằng chất kim. Trong số đệ tử, Viễn giỏi võ nhất. Bọn đồng học bảo là vì Viễn to con hơn cả. Sư giảng, không phải thế, chính tại nghiệp Viễn nặng nhất. Viễn thản nhiên nhìn mọi người.
Quãng xế chiều, trời bắt đầu tối dần. Ðầu dốc, Trãi chậm bước lại, tay nải chĩu một bên vai. Từ cao nhìn xuống những cánh đồng chiêm hắt hiu khói nước bốc từ những gốc rạ cắm vào mặt ruộng. Một cánh cò bay ngang, trắng muốt, thoắt biến sau ngọn đồi chơ vơ chắn sau, thoắt lại hiện ra ở dòng sông phía trước cóng lạnh thu mình nằm im đón những cơn gió bấc. Về Nhị Khê lễ Gia Tiên, chiều mồng một Trãi ra dọn dẹp ngôi mộ tổ nằm trên lưng đồi, đầu hướng về phía núi Tản, phía sau là một rặng bồ đề thân cây nào cây ấy sần sù đèo cả trăm năm trong những thớ gỗ đồng tâm xoay vòng đến chóng mặt. Viễn giúp Trãi phạt tranh, nhổ cỏ, vẫn lầm lì như thường lệ. Nhìn cánh tay Viễn săn chắc, bắp thịt cuộn lên thành những gút thừng, Trãi bỗng nhận ra sự yếu đuối của thể xác là một bất công của đấng cao xanh. Chữ với nghĩa, giờ tích sự gì ? Ðang miên man nghĩ, Trãi bỗng nghe :
- Bác đã gặp Trần Nguyên Hãn chưa ?
Ngạc nhiên, Trãi lắc đầu.
- Hãn đến đây mấy ngày trước. Em chỉ chỗ bác ở Ðông Quan, nhưng có dặn phải cẩn thận, giặc nó rình mò.
- Hãn đi lâu chưa ?
- Ðược ba ngày rồi.
- Chắc Hãn về Côn Sơn. Ngày tết ngày nhất mà.
- Không ! Hãn về đó thì bị bọn phiên lại địa phương bắt ngay. Chúng đều biết Hãn theo Trùng Quang đế...
Thở dài, Trãi khẽ gật đầu. Lẳng lặng châm một bó hương, Trãi châm đợi cho lửa bắt cháy phừng lên. Chàng chắp tay vẩy cho lửa tắt. Mùi hương bốc lên bay thoang thoảng trong gió nhẹ hững hờ. Ðồ cúng đã sắp ra. Ðơn giản có một buồng chuối, ba nắm cơm, trầu têm và ít cau đã bổ nhỏ. Trãi khấn thầm, mắt nhìn vào quãng không, trí tuệ nắm bắt khoảng cách giữa mình và bộ xương của vị cố tổ dưới lòng đất. Chàng rùng mình. Ðo bằng thời gian, khoảng cách đó xa, xa lắm. Nhưng đo bằng hạt giống di truyền, nó lại gần, gần đến đáng sợ. Vì sự hiện hữu không chỉ là phút này, giờ này, tháng này hay năm này. Nó có trước từ một duyên khởi mù tăm. Và sẽ tiếp tục đi vào tương lai xa tít tắp.
Khấn vái xong, Trãi kéo chiếc áo kép co ro ngồi xệp xuống. Viễn khum tay che gió rồi bật hồng để hóa vàng. Những mảnh giấy vuông vắn mạ ánh vàng bốc lửa, cong queo quặn mình lại biến ra tro than. Viễn nhìn trời, thình lình trầm giọng :
- Hoàng Phúc về Nhị Khê đã ba lần. Nó đi dò gì không biết, nhưng lấy thước ra đo đạc khu mộ này, rồi cặm cụi ghi chép. Một đêm, nó ở lại đây. Vào quãng giờ Hợi, nó lập đàn cúng kiếng, xõa tóc vái sao trên trời, miệng lại bí ba bí bô như đọc thần chú...
- Hoàng Phúc là một tên dị đoan mê tín pháp thuật. Nó lập đàn thờ đủ thứ thần, Trãi cười nhạt - thần sông thần gió...
Viễn lắc đầu, cắt ngang :
- Nhưng từ hai tháng nay, khe nước dưới chân đồi không hiểu sao lại cạn dần. Nền nhà lắm khi nghe lục bà lục bục như đang vữa ra thành mảng. Rồi đêm đêm có tiếng lao xao mà không thấy người.
- Chú nghe tận tai ?
- Vâng. Cả ba con vợ em cũng đều nghe thấy.
- Thế còn đám trẻ con ?
- Chúng nó thì không. Không thấy chúng nó nói gì.
Im lặng một lúc, Viễn quay nhìn Trãi, giọng trầm tĩnh :
- Em định từ từ để vợ con em về bên ngoại, rồi em đi.
- Chú đi đâu ?
- Em theo bác Hãn.
Viễn tần ngần :
- … Ði thì em có thể nhờ người làng đây trông nom mộ phần các cụ. Nhìn bó hương cháy dở, Viễn tiếp - bên nhà vợ em họ nhận giúp rồi. Với lại giỗ tết thắp cho nén hương thì cũng chẳng có gì...
Trãi vỗ vai Viễn :
- Người sống lo việc sống là quan trọng. Cúng kiếng chỉ là cách làm cho người sống hiểu rằng quá khứ còn đó. Ðôi khi con người phải chủ động dứt lìa quá khứ. Nhưng quá khứ thì lại chẳng bao giờ thực sự tách bạch khỏi đời sống con người. Chú bất tất lo lắng chuyện này...
Vừa dứt lời, bó hương bỗng bắt lửa phừng phực cháy. Viễn nói như reo :
- Các cụ vui mà cười đấy !
Trãi không tin, nhưng lạ là lúc đó trời không một chút gió. Ðêm hôm đó, Trãi lắng tai nhưng không có tiếng người lao xao. Cũng không có tiếng đất cục cựa vỡ mình ra từng mảnh. Chỉ có tiếng mèo cái gọi đực. Thao thức cho đến khi gà gáy sáng, Trãi trở dậy rồi lên đường về lại Ðông Quan.
*
Mồng ba Tết, năm Quí Tỵ. Ðông Quan vào Xuân nhưng tối nay trời bỗng lạnh hẳn xuống. Những cơn mưa dầm ngỡ đã qua lại kéo nhau về sụt sùi dai dẳng. Gió ù ù thổi văng vào thế gian cái ẩm lạnh buốt người ta tưởng đã quên được từ buổi tàn đông. Trãi khép tấm liếp, quàng tấm áo bông lên vai, lẳng lặng ngồi dựa mình vào chiếc cột giữa căn nhà trống vắng. Tiếng mưa nỉ non gợi lại những ngày qua. Qua đi như đám lục bình trôi sông, như đám mây vờn trên nước. Qua đi bữa đói bữa no. Qua đi những đêm dài chong ngọn đèn dầu chờ sáng. Còn ở lại ? Chút hương phấn hôm nào Xuyến đến. Khóe mắt có đuôi thấp thoáng định mệnh ánh lên từ sự bí ẩn nhất của con người. Ðó là đam mê. Và rồi đam mê cũng sẽ qua. Nếu không còn gì, thì thế thôi. Nhưng nếu sau đam mê, cái sắp tới là ngưỡng cửa bước vào thảm kịch ?
Trãi ngả người lên chiếc võng, mắt áp vào chiếc gối vẫn thoang thoảng mùi bồ kếp từ mớ tóc Xuyến vấn cao để lộ ba ngấn cổ thuôn cong ngọc ngà. Vẫn mưa. Mưa rỉ rả. Tiếng côn trùng vẳng đến mơ hồ nửa hư nửa thực. Bóng tối sập xuống vách đất trát rơm dưới ánh đèn hiu hắt cứ chập chờn nhảy múa đùa cợt. Trên xà nhà, một tà áo xanh rũ xuống.
- Ơ, người là ai ?
- A ha, mi không biết à ?
- Liên quan gì đến ta ?
- Ta là người đàn bà vừa chết. Ta là kẻ báo mộng xin với ngươi thêm ba ngày để ấp xong trứng. Hừ, chỉ thế mà mi không cho. Bọn học trò phát cỏ đuổi theo. Ta quay lại van vỉ. Thằng lớn nhất - cái thằng trưởng tràng - nó vung cây gậy quật xuống. Tiếng xương sọ vỡ vụn nghe như tiếng chim non kêu. Ðầu ta dập ra, nát bét, ép nhẹp. Hai vợ chồng ta đến ở nhờ trong đám cỏ tranh, đợi cho hai cái trứng nở là đi. Tội tình gì mà mi đánh đuổi. Chồng ta mất vợ, mất con định về rình cắn cho mi chết. Nhưng không, mi đi vắng. Thất vọng, chồng ta trầm mình trong dòng nước sông Tô, đầu rúc vào lòng bùn, bỏ cái dương gian khốn nạn này cho bọn mi sống. Nhưng ta thì không. Này, mạng sẽ trả mạng.
Hai cánh tay từ xà nhà dài ra uốn éo rồi xiết vào cổ Trãi. Sặc sụa, Trãi cố há miệng hớp hơi vào, kêu trời hỡi trời, nào ai ngờ là trong đám cỏ gianh có nhà rắn !
- Mặt đất này là của chung, loài người chúng bay lấy cái nghĩa lýù gì để làm thành tư riêng mà đánh đuổi muôn loài ? Nghĩa lý không có, nhưng chúng bay có phương tiện ! Luyện kim làm dao búa, đao kiếm, chúng bay hóa ra chúa muôn loài, đến hổ báo voi gấu cũng phải lui về ẩn sơn lâm. Huyễn hão, chúng bay đòi sẽ chinh phục thiên nhiên, ngăn sông, xẻ núi, phá rừng. Rồi coi, một ngày bay sáng mắt ra để nhìn cho rõ cái thân phận chúng bay. Cũng là từ thiên nhiên, bay như muôn loài, khác gì từ con sâu cái kiến cho đến ngọn cây cành cỏ?
Trãi cố vùng, nhưng người tê liệt, ngực nặng như bị đá đè. Trãi thét lên:
- Không không, loài người chúng ta không ngu độn đến thế!
- Bay còn ngu độn hơn thế. Chính con người mới là kẻ thù của chính mình. Như người Minh với người Ðại Việt. Như người họ Trần với người họ Hồ. Như Hoàng Phúc với ngươi. A ha, chúng bay thù oán chém giết nhau thật, nhưng thế đã đủ đâu. Chúng bay còn chém giết muôn loài, say máu đến độ coi như thế là tự nhiên. Tết năm nay, dân Ðông Quan ăn bao nhiêu gà, bao nhiêu vịt, bao nhiêu lợn, bao nhiêu bò ?
Trãi nghiến răng giơ chân đạp, mồ hôi ra ướt đầm lưng áo. Vùng vẫy cho đến khi ngã lăn xuống nền nhà, Trãi thấy miệng mằn mặn vị máu. Choáng váng, Trãi ra ngồi ở thư án, tay ôm lấy đầu. Mở tập giấy Trãi đã gửi gấm vào cả trí tuệ mình năm sáu năm nay, Trãi ngẩn ngơ rồi cố tập trung đọc từng chữ.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Sách Bình Ngô bắt đầu như vậy. Nhưng mắt Trãi hoa lên. Trên xà nhà, một con rắn uốn éo bò, mắt lấp loáng ánh lân tinh xanh lè, đầu vắt vẻo chúc xuống. Trãi cắn môi, tay nắm cái nghiên mực ném lên.
Tiếng đá xoang xoảng vỡ toang thành mảnh sắc cắt thực tại từ mê hoảng trộn lộn vào một không gian lạ lùng, trên có bàn thờ tổ họ Nguyễn ở Nhị Khê, dưới là Nguyễn Ứng Long đang quì lậy. Lửa bất chợt bùng cháy, bốc lên đến xà nhà khiến con rắn trườn xuống, đầu ngóc vào làm đổ bát hương thờ. Ứng Long chồm lên đỡ, nhưng không kịp, áo đột nhiên bắt lửa thành đuốc. Trãi không còn thấy con rắn, nay chỉ có cha mình quằn quại trong ánh lửa đỏ mỗi lúc mỗi sóng sánh chảy ào ra một thứ dung dịch bốc mùi tanh tưởi. Hoảng sợ, Trãi co người nhưng hai chân bị kéo xoạc ra, bụng nhầy nhẫy chất nhờn loài bò sát uốn éo trờn qua trờn lại, tai thình lình lại chói nhọn tiếng hú địa đầu năm nọ. Trãi vùng vẫy tuyệt vọng. Tiếng rắn phì phì phun nọc phà sát màng nhĩ. Hơi tanh lắng xuống thật sâu khứu giác rồi bốc lên lợm mùi xác chết đang rữa thối. Lưỡi rắn nhớp nháp thò ra liếm láp hạ thể, trườn dần xuống bắp đùi, kích thích quá độ khiến xúc giác nhột nhạt hóa ra hình phạt. Thét lên hãi hùng, Trãi nghiến răng vùng dậy nhưng lại ngã úp mặt xuống trang sách đọc dở. Có phải một giọt máu ở đâu vừa rơi vào chữ Ðại trong câu ‘‘ Nhân tất thế thiên, thể hành đại mệnh ’’, đoạn nói về quan hệ giữa đấng tối thượng và con người trần thế này. Ðó là một phủ quyết về thiên mệnh. Ðiều này quảù táo bạo ở thời đại Trãi đang sống. Nhưng thực ra đó cũng chỉ là cái vùng mình tuyệt vọng chống lại sự bé nhỏ thảm hại của thân phận con người.
Giọt máu trên chữ Ðại thấm qua ba trang sách.
Báo cáo nội dung xấu

