Truyện ngắn Anton Pavlovich Chekhov - Chương 05

Khóm Phúc Bồn Tử

Từ sáng sớm, những đám mây đen mọng nước đã phủ kín bầu trời;
không gian im ắng, dìu dịu mát mẻ và buồn tẻ như vẫn thường thấy trong những
ngày u ám, khi trên khắp cánh đồng mây đen đã giăng đầy, trời sẽ mưa và chưa
mưa. Bác sĩ thú y Ivan Ivanưts và ông giáo trường làng Burkin đã mỏi rời cả
chân, và cánh đồng trước mặt đối với họ tưởng như đang kéo dài vô tận. Phía đằng
xa tít tắp, trông không rõ hình chiếc cối xay gió làng Mirônôxitxki, phía bên
phải những ngọn đồi cao thấp nối tiếp theo nhau chạy dài rồi khuất mất sau xóm.
Cả hai người đều biết rằng đó là mạn bờ sông, phía ấy có những bãi cỏ mênh
mông, những hàng cây liễu rũ, những trang ấp, và nếu đứng trên đỉnh ngọn đồi
thì từ đó có thể nhìn thấy cả cánh đồng rộng lớn, nhìn thấy nhà dây thép và
đoàn tàu như một con sâu đang chậm rãi bò đi; vào những ngày tiết trời trong
sáng, từ ngọn đồi có thể nhìn thấy cả thành phố. Bây giờ, vào lúc trời im lặng,
khi mọi cảnh vật xung quanh đang hiện ra với vẻ tư lự đáng yêu, Ivan Ivanưts và
Burkin đều cảm thấy cả cánh đồng trải rộng mênh mông này thân thiết quá, hai
người đều nghĩ rằng, đất nước hùng vĩ và xinh đẹp biết bao.

- Lần trước, khi chúng ta đứng trước nhà kho của ông lý trưởng
Prôkôfi –Burkin nói- anh có định kể cho tôi nghe một chuyện cơ mà.

- Đúng rồi, lần ấy tôi muốn kể về người em trai của tôi.

Ivan Ivanưts hít vào thật sâu, rồi thở ra, lấy tẩu thuốc và
hút, sắp vào câu chuyện, thì vừa lúc trời bắt đầu mưa. Chừng năm phút sau, cơn
mưa chuyển thành nặng hạt, xối xả, dày đặc, và khó có thể biết bao giờ thì ngớt.
Ivan Ivanưts và Burkin dừng lại phân vân; hai con chó đi theo, lông ướt sũng,
đuôi cụp xuống, đứng yên nhìn chủ với vẻ trung thành tận tụy.

- Chúng ta phải trú tạm vào một chỗ nào thôi –Burkin nói- Ta
đến nhà Aliôkhin đi, cũng gần đây thôi.

- Ừ, phải đấy.

Hai người rẽ sang bên, đi băng qua cánh đồng mới gặt, lúc đi
thẳng, lúc vòng sang bên phải mãi mới ra được đường cái. Một lát sau, đã hiện
ra những cây dương, khu vườn, rồi những mái nhà kho ngói đỏ; dòng sông lấp
loáng sáng, một đầm nước rộng gần bên chiếc cối xay gió và một nhà tắm quét vôi
trắng. Đó là một làng Xôphinô, nơi ở của Aliôkhin.

Cối xay gió quay nhanh át đi cả tiếng mưa rào rào, con đập
chắn nước như đang rung lên. Bên cạnh những cỗ xe, có những con ngựa đang đứng
cúi đầu, nhiều người đang đi đi lại lại áo tơi khoác trên mình. Trời ẩm ướt mặt
đất lầy lội nhớp nháp, khu đầm nước trông lạnh lẽo và giận dữ. Ivan Ivanưts và
Burkin cảm thấy toàn thân mình ướt át, lấm láp, khó chịu, đôi chân nặng chình
chịch vì bết đất; và khi qua bờ đập, bước chân lên dãy nhà kho của chủ nhân, họ
im lặng như đang có chuyện gì cáu giận nhau vậy.

Trong một căn nhà kho, có tiếng máy quạt lúa quay vù vù,
cánh cửa mở rộng, bụi từ trong nhà bay ra tơi tấp. Trên ngưỡng cửa chính là
Aliôkhin, một người đàn ông trạc bốn mươi tuổi, to cao, để tóc dài, trông giống
một vị giáo sư hay một họa sĩ hơn là một vị điền chủ. Ông ta mặc một chiếc áo
sơ mi đã lâu không giặt, ngang mình thắt dây lưng, mặc một chiếc quần đi ngựa,
đôi ủng bám đầy đất quện rơm. Mắt và mũi dính đầy bụi bặm. Ông ta nhận ra ngay
Ivan Ivanưts và Burkin, và trông rõ là ông ta mừng rỡ.

- Mời hai vị vào nhà tôi chơi. –ông ta vừa nói vừa cười- Tôi
về ngay bây giờ đây.

Nhà Aliôkhin khá to, gồm hai tầng. Aliôkhin ở tầng dưới
trong hai căn phòng trần cuốn vòm và cửa sổ nhỏ -đấy là chỗ ở ngày xưa của người
quản gia; nơi ăn chốn ở của Aliôkhin có một vẻ giản dị đơn sơ, thoang thoảng
mùi bánh mì đen, mùi rượu vốt-ca rẻ tiền và mùi yên cương.

Ông ta ít khi lên gác, nơi có phòng lớn sang trọng hơn, ông
chỉ lên đó khi có khách thôi. Bước vào nhà, Ivan Ivanưts và Burkin gặp người hẫu
gái, một phụ nữ còn trẻ, xinh đẹp đến mức mà cả hai người bất giác cùng đứng sững
lại và nhìn sang nhau.

- Các vị không thể hình dung nổi, tôi mừng thế nào khi gặp
được các vị đâu, -Aliôkhin nói trong khi bước theo họ vào tiền sảnh- Tôi cũng
không ngờ! Này cô Pêlagâya, -ông ta nói với người hầu gái- cô lấy cho mấy vị
khách này quần áo khô để thay nhé. Tôi cũng phải thay quần áo. Nhưng mà trước
tiên là phải đi tắm một cái đã chứ không lâu quá rồi, có dễ từ dạo xuân tới giờ
tôi chưa tắm. Hai vị cùng đi tắm với tôi đi, tắm xong thì cô cũng sẽ sửa soạn
xong quần áo thay.

Cô Pêlagâya xinh đẹp, điệu bộ lịch sự, dáng vẻ dịu dàng,
mang đến cho họ khăn tắm và xà phòng, Aliôkhin và hai vị khách đi ra nhà tắm
ngoài đầm.

- Phải rồi, lâu lắm rồi tôi chưa tắm, -Aliôkhin vừa cởi quần
áo ngoài vừa nói-. Nhà tắm của tôi, các vị thấy đấy, cũng đẹp lắm chứ, làm từ
thời còn cha tôi kia, nhưng mà cũng chẳng lúc nào rỗi rãi mà tắm.

Ông ta ngồi xuống bậc, dội lên mái tóc dài, lên cổ, nước bên
cạnh ông ngả sang màu nâu sẫm.

- Lâu lắm tôi không tắm rồi –Aliôkhin ngượng ngùng nhắc lại,
ông ta lại xát xà phòng dội nước lần nữa, nước bên cạnh chỗ ông ta ngồi lại hóa
ra màu đen sẫm như màu mực.

Ivan Ivanưts bước ra ngoài cầu, nhảy ùm xuống nước, sải tay
bơi dưới trời mưa, sóng tỏa chung quanh, những bông hoa súng trắng dập dình
trên mặt sóng. Ivan Ivanưts bơi đến giữa đầm thì lặn xuống, một lát sau nổi lên
ở chỗ khác, bơi một quãng rồi lại hụp xuống cố lặn tới đáy. “Chà, mát quá…-Anh
thích thú nhắc lại- Chà, mát quá…”. Bơi đến bên cối xay gió, anh dừng lại nói
chuyện với những người nông dân, rồi bơi ngược trở về, đến khoảng giữa đầm, anh
bơi ngửa, để cho mưa rơi xuống mặt mình. Burkin và Aliôkhin đã mặc quần áo và sắp
sửa vào nhà, mà Ivan Ivanưts thì vẫn còn bơi và ngụp lặn.

- Chà, mát ghê…-anh nói- Cầu trời phù hộ…

- Anh sẽ gặp may đấy! Burkin nói to xuống đầm cho Ivan
Ivanưts nghe thấy.

Mọi người trở vào nhà. Và chỉ đến khi đèn đã châm sáng trong
căn buồng trên gác, Burkin và Ivan Ivanưts đã mặc bộ quần áo thoáng rộng, bằng
lụa toàn tơ, đi giày ấm và ngồi trong ghế bành, còn Aliôkhin thì sạch sẽ, chải
chuốt trong bộ cánh đen đi đi lại lại trên gác như để thưởng thức tất cả vẻ ấm
áp, sạch sẽ, quần áo thơm tho, đôi giày mềm nhẹ, khi cô Pêlagâya xinh đẹp bước
êm êm trên tấm thảm dài và dịu dàng cười bưng khay trà và bánh qui lên, chỉ đến
khi đó, Ivan Ivanưts mới bắt đầu vào câu chuyện; và anh có cảm tưởng rằng,
không phải chỉ Burkin và Aliôkhin nghe anh kể thôi đâu mà những bà mệnh phụ cả
trẻ lẫn già, những ngài mặc quân phục đang lặng lẽ, nghiêm nghị đứng trong những
khung ảnh mạ vàng nhìn xuống cũng chăm chú lắng nghe.

- Chúng tôi là hai anh em -Ivan Ivanưts bắt đầu kể-. Tôi và
em tôi là Nhicôlai ivanưts, kém tôi hai tuổi. Tôi theo đuổi việc học và trở
thành bác sĩ thú y, còn Nhicôlai thì từ năm mười chín tuổi đã đi làm viên chức ở
sở thuế vụ. Ông thân sinh chúng tôi là Trimsa Ghimalaixki, vốn là con nhà lính.
Nhưng sau khi được phong hàm sĩ quan thì đã để lại cho chúng tôi danh hiệu quí
tộc truyền đời và một trang ấp nhỏ. Sau khi ông thân sinh mất đi, tôi phải bán
trang ấp để trả nợ, nhưng dù thế chăng nữa, tuổi thơ ấu của chúng tôi cũng đã
trôi qua dưới quãng trời khoáng đãng ở chốn thôn quê. Như tất cả lũ trẻ thôn
quê khác, suốt ngày, suốt tối chúng tôi ở ngoài đồng, trong rừng, đi chăn ngựa,
bóc vỏ cây, câu cá, bày đủ thứ trò chơi…Các vị có biết không, ai trong đời mình
dù chỉ một lần câu được con cá rô, hoặc là đã nhìn thấy về mùa thu đàn chim sáo
bay về phương Nam, vào nhưng ngày tiết trời mát mẻ, quầng mây giăng hàng bay
qua làng, thì người ấy không còn là dân thành phố nữa và cho đến khi chết, người
ấy vẫn ước ao được sống giữa chốn thôn quê thoáng đãng. Làm ở sở thuế, em tôi
cũng cảm thấy buồn tẻ lắm. Năm tháng cứ trôi qua, mà nó vẫn phải ngồi mãi một
chỗ, ngày này qua ngày khác viết đi viết lại một thứ giấy tờ, lúc nào cũng mơ ước
được về sống nơi thôn dã. Dần dần, nỗi buồn nhớ của chú ấy biến thành một nguyện
vọng cụ thể, ao ước làm sao tậu được một trang ấp nhỏ ở một nơi nào đó ven
sông, hay ven hồ.

Em tôi là một người tốt bụng, dễ mến, tôi rất yêu cậu ta
nhưng mà cái ao ước tự khóa chặt cả đời mình vào trong một trang ấp thì tôi
không bao giờ thông cảm được. Người ta thường quen nói rằng con người chỉ cần
ba thước đất. Nhưng chẳng phải là chỉ có xác chết mới cần ba thước đất, chứ con
người đâu chỉ cần có thế! Bây giờ người ta cũng hay nói rằng nếu giới trí thức
chúng ta để tâm nhiều hơn đến ruộng đất và ai nấy đều muồn về trang ấp thì đó
là một điều đáng mừng. Nhưng rời bỏ thành phố, lánh xa những cuộc đấu tranh, lảng
tránh cuộc sống sôi nổi, lẩn trốn về trang ấp của mình nơi thôn dã, đó không phải
là sự sống, mà là sự ích kỷ, lười nhác, một kiểu đi tu, nhưng đi tu mà không lập
nên kỳ tích gì. Con người không phải chỉ cần ba thước đất, không phải chỉ cần một
trang ấp nhỏ, mà là tất cả trái đất, tất cả thiên nhiên; trên cả miền đất bao
la ấy, con người mới có thể bộc lộ được hết phẩm chất và đặc điểm của tinh thần
tự do của mình.

Những lúc ngồi bên bàn giấy, em tôi đã mơ tưởng đến ngày sẽ
được ăn đĩa súp bắp cải hái từ vườn nhà mình tỏa mùi thơm phức, ngon lành khắp
sân, mơ tưởng những bữa ăn dọn ngay trên thảm cỏ xanh, được ngủ trong khu vườn
râm mát dưới anh mặt trời, được ngồi hàng giờ liền trên chiếc ghế băng dài đặt ở
lối cổng mà nhìn ra phía đồng và cánh rừng xa. Những cuốn sách nhỏ về nghề
nông, những lời khuyên trong các cuốn lịch đã đem đến cho chú ấy niềm vui và là
món ăn tinh thần chủ yếu; chú ấy ham đọc các báo, nhưng chỉ đọc trong đó những
lời rao bán bao nhiêu mẫu đất, bãi cỏ cùng với những trang ấp có vườn, có cối
xay gió, có sông lạch, ao đầm…Và trong đầu chú hiện ra hình ảnh những con đường
nhỏ chạy quanh co trong khu vườn bên những khóm hoa, cây quả, chuồng chim sáo sậu
trên cây cao và những đàn cá chép dưới ao, các vị biết đấy tưởng tượng theo lối
đó thì vô cùng. Khi đọc những lời rao trên báo, chú ấy hình dung ra đủ những bức
tranh khác nhau, nhưng không hiểu vì lẽ gì trong những bức tranh thể nào cũng
phải có khóm phúc bồn tử. Chúng ta không thể nào hình dung ra một trang ấp, một
chốn đầy thơ mộng, mà lại thiếu khóm phúc bồn tử được.

- Cuộc sống nơi thôn quê có những thú vị riêng -nhiều lần
chú ấy nói- Ngồi trên ban công uống trà, dưới ao, đàn vịt của anh đang bơi lội,
hương cây ngào ngạt, và…và khóm cây phúc bồn tử mỗi ngày một lớn…

Chú ấy vạch ra viễn cảnh của trang ấp tương lai, và lần nào
cũng vậy, viễn cảnh ấy hiện ra theo trình tự như sau: a) nhà trang chủ, b) nhà
cho người làm, c) vườn rau, d) khóm phúc bồn tử. Chú ấy chi tiêu rất dè sẻn, ăn
không no, uống không đủ, mặc xoàng xỉnh thế nào xong thôi, trông như kẻ hành khất,
dành dụm được đồng nào chú ấy đều gửi vào nhà băng tất, tính tình chú ấy trở
nên tham lam. Trông thấy chú ấy, tôi động lòng thương, thỉnh thoảng vào các dịp
lễ tết, tôi cũng gửi giúp ít tiền, nhưng chú ấy đều để dành, không tiêu đến. Nếu
người ta đã mải mê theo đuổi một ý định gì, thì chẳng biết khuyên can thế nào
được nữa.

Năm thánh qua đi, chú ấy chuyển sang làm ở một tỉnh khác, tuổi
đã ngoài bốn mươi, thế mà chú ấy vẫn theo dõi đọc những lời rao vặt trên báo và
dành dụm tiền. Sau đó tôi nghe là chú ấy lấy vợ. Cũng vẫn với mục đích làm sao
mua được một trang ấp nhỏ có khóm cây phúc bồn tử chú ấy đi lấy một bà góa già,
xấu xí mà lòng không chút yêu đương nào, chỉ bởi một lẽ rằng bà ta có một món
tiền kha khá. Chú sống với vợ vẫn theo lối dè sẻn, hà tiện, cho bà ta ăn uống
kham khổ, bao nhiêu tiền của bà ấy chú đều gửi tất cả vào nhà băng theo tên
mình. Ngày trước bà ta lấy một ông chủ sự bưu điện; sống với ông ấy, bà ta quen
được ăn các thứ bánh ngọt ngon lành, uống rượu mùi hảo hạng, còn bây giờ sống với
chồng mới, bà dần dần héo mòn, ốm yếu trong cảnh sống như thế, chỉ khoảng ba
năm sau là đã về chầu thượng đế. Và tất nhiên người em trai không bao giờ nghĩ
rằng chú ấy có lỗi trong cái chết của bà ta. Tiền bạc, như rượu trắng, biến tâm
tính con người thành kỳ quặc. Ở ngoài thành phố tôi ở, có một gã lái buôn hấp hối,
trước khi chết y bảo người nhà mang đến một đĩa mật rồi chấm mật ăn hết số tiền
và vé số trúng của mình, để số tiền đó không rơi vào tay ai khác. Có lần tôi
đang khám cho một đám súc vật trên ga thì có một tay buôn ngựa bị ngã vào trước
đày tàu đang chạy, anh ta bị cụt mất một chân. Chúng tôi khiêng anh ta vào
phòng trong ga, máu chảy lênh láng, thật là khủng khiếp, thế mà anh ta chỉ một
mực đòi mọi người tìm lại cho anh ta đoạn chân đã bị cụt, anh ta lo lắng một điều
rằng trong đôi ủng nơi cẳng chân cụt của anh ta có nhét vào hai mươi rúp, chỉ sợ
số tiền ấy bị mất.

- Anh kể lạc đề rồi đấy –Burkin nói.

- Sau khi vợ chết -Ivan Ivanưts nghĩ ngợi một lát rồi kể tiếp-
người em trai tôi bắt đầu đi tìm một trang ấp. Tất nhiên là dù rằng có tìm chọn
suốt dăm năm chăng nữa, cuối cùng vẫn có thể phạm sai lầm, mua phải nơi khác xa
mơ ước của mình. Qua một tay môi giới, chú ấy đã mua một khu đất rộng một trăm
hai mươi đêxiachin(1), có nhà lớn dành cho trang chủ, nhà cho người làm, có vườn
hoa, nhưng không có vườn cây ăn quả, không hề có khóm phúc bồn tử nào, không có
ao đầm vịt lội; kề bên một dòng sông nhưng nước đen sẫm như nước cà phê vì một
bên sông là nhà máy gạch ngói, một bên nữa là nhà máy nung xương. Nhưng anh
chàng Nhicôlai của tôi không lấy làm buồn; chú ấy đặt mua liền hai mươi khóm
phúc bồn tử đem về trồng và bắt đầu sống cuộc đời một nhà điền chủ.

Năm ngoái tôi có đến thăm chú ấy. Tôi định đến xem người em
ăn ở ra sao. Trong những bức thư gửi cho tôi, anh ta tự gọi trang ấp của mình
là “bãi hoang Tsumbarốclốp”, “Ghimalaixkôêtôs”. Quá trưa hôm đó, tôi đến
“Ghimalaixkôêtôs”. Trời nóng bức. Chỗ nào cũng thấy mương rãnh ngang dọc, nhiều
hàng thông non mới được trồng, không thể biết được lối nào là lối đi vào sân,
chỗ nào là chỗ buộc ngựa. Tôi bước lại gần ngôi nhà; đi ngược về phía tôi là một
con chó lông màu vàng sẫm, béo phục phịch như lợn…Chắc nó muốn sủa lắm, nhưng
lười nhác nên lại thôi. Một mụ đầu bếp bước ra, chân đi đất, cũng béo ục ịch
như lợn, bà ta nói rằng ông chủ đang nằm ngủ sau bữa ăn trưa. Tôi vào trong
phòng người em trai, anh ta ngồi trên giường, chăn phủ kín chân; trông chú ấy
già đi, người béo bện trắng nhợt, má, mũi và đôi môi cứ chảy ra.

 

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3