Từ khi có em - Chương 04
Khi nàng nhìn chằm chằm một cách bế tắc vào Meg tội
nghiệp ở phía bên kia khoang tàu bé nhỏ, Sherry ước một cách chân thành
rằng nàng có thể trở lại Richmond, ngồi với bà bác của nàng trong căn
nhà nhỏ ba phòng họ ở chung, thưởng thức một bình trà ngon theo lệ
thường, và chờ đợi cả cuộc đời với trà ấm và sự tẻ nhạt.
Nhưng nếu Meg đúng về luật của nước Anh... thì
Sheridan sẽ không bao giờ có thể về nhà, không thể nhìn thấy bác của
nàng nữa, và cái ý nghĩ ấy gần như là hủy hoại nàng.
*
Sáu năm trước, khi nàng lần đầu tiên đến sống cùng
với chị gái của mẹ, cái viễn cảnh sẽ không bao giờ gặp lại Cornelia
Faraday sẽ làm cho Sheridan hoàn toàn hân hoan, nhưng cha của Sheridan
không cho nàng một sự lựa chọn. Cho đến khi đó, ông đã đưa nàng đi từ
nơi này tới nơi khác với mình trên chiếc xe ngựa chứa đầy các loại
hàng hóa, từ những miếng da lông thú và nước hoa đến những chiếc
bình sắt và chỉa rơm, những đồ xa xỉ và nhu yếu phẩm mà ông bán hoặc đổi
chác ở những nhà nông dân và những túp lều trên dọc “hành trình” của
họ.
“Hành trình” của họ là bất cứ ngã ba đường nào họ tình cờ
gặp và thấy cuốn hút - thường là đi về phía nam, dọc theo bờ biển phía
đông vào mùa đông và phía bắc vào mùa hè. Thỉnh thoảng họ rẽ sang
phía tây khi ánh chiều tà đặc biệt rực rỡ vẫy gọi, hoặc họ di
chuyển theo hướng tây bắc bởi tiếng suối chảy róc rách ở hướng đó.
Vào mùa đông, khi tuyết đôi khi làm cho việc di chuyển khó khăn hoặc
không thể, luôn có một người nông dân hoặc một người giữ kho cần thêm
những bàn tay giúp đỡ tự nguyện, và người cha Ai len của nàng sẽ lao
động chân tay tạm thời cho vài đêm.
Kết quả là, vào khoảng thời gian Sheridan 12 tuổi,
nàng đã ngủ ở mọi chỗ từ một cái chăn trong vựa cỏ khô đến cái
giường lông chim trong một căn nhà nơi cư trú của một đám những quí
bà vui vẻ, những người mặc những bộ áo dài sa tanh rực rỡ với
những đường viền cổ quá trễ khiến bộ ngực như chực rơi ra ngoài ngay.
Nhưng dù cho bà chủ nhà cho sự tạm bợ của họ là một bà vợ nông dân
khỏe mạnh hay vợ của người thuyết giáo có gương mặt nghiêm nghị hay
một quí bà trong bộ váy sa tanh màu tím có đính những chiếc lông
chim màu đen, những bà chủ nhà của họ gần như luôn kết thúc bằng
việc mê mẩn Patrick và thể hiện như mẹ một cách quá mức với Sheridan.
Bị quyến rũ bởi nụ cười thường trực, lúc nào cũng nhã nhặn, và sự
sẵn lòng làm những công việc nặng nhọc và kéo dài để đổi lấy nơi ăn chốn ngủ,
những phụ nữ sớm bắt đầu nấu những suất ăn đặc biệt lớn cho ông,
nướng những món tráng miệng ông ưa thích và tự nguyện vá lại quần áo
cho ông.
Những thiện chí đó cũng dành cho cả Sheridan. Họ
trêu ghẹo nàng một cách trìu mến về sự rối bù của mái tóc đỏ rực
của nàng và cười khi cha nàng gọi nàng là “cà rốt nhỏ” của ông. Họ
để nàng đứng trên chiếc ghế đẩu khi nàng tình nguyện giúp rửa bát,
và khi nàng rời đi, họ đưa cho nàng những mảnh vải vụn hay những cái
kim tuyệt đẹp để nàng có thể tạo ra một cái chăn mới hay cái váy
cho búp bê của nàng, Amanda. Sheridan ôm chặt họ và nói với họ là
nàng và cả Amanda đếu rất biết ơn, và họ mỉm cười, vì họ biết nàng
thực có ý đó. Họ hôn nàng nụ hôn tạm biệt và ước rằng nàng sẽ trở
nên cực kì xinh đẹp vào một ngày nào đó, và Sheridan đã cười lớn
bởi vì nàng hiểu không thể nào họ thực có ý đó. Sau đó họ nhìn Sheridan
và cha nàng đánh xe đi trên chiếc xe hàng khi họ vẫy tay chào tạm
biệt và gọi to “Chúc may mắn” và “Sớm quay lại nhé”.
Thỉnh thoảng những người mà họ ở cùng gợi ý cha nàng
để mắt tới đứa nào đó trông số con gái họ, hay con gái người láng giềng của
một trong những con gái của họ hoặc con gái hàng xóm của họ, và nụ
cười luôn nằm trên khuôn mặt Ailen đẹp trai của ông, nhưng đôi mắt ông
tối lại khi ông nói, “Tôi rất biết ơn nhưng không. Thế sẽ là tội cưới
một người trong khi đã kết hôn với người khác, khi mà mẹ của Sheridan
vẫn sống trong tim tôi”.
Nhắc đến mẹ của Sheridan đã là một việc có thể làm
mờ đi nụ cười trong mắt ông, và Sheridan đã luôn bị gia tăng căng thẳng
cho đến khi ông trở lại là chính mình. Nhiều tháng sau khi mẹ nàng và
em trai nhỏ của nàng chết vì căn bệnh được gọi là băng huyết, cha
nàng cư xử như một một người xa lạ trầm lặng, ngồi bên lò sưởi trong
cái buồng nhỏ, uống whiskey, bỏ bê những vụ mùa đang chết dần trên
cánh đồng và chẳng buồn trồng trọt thêm gì nữa. Ông không nói chuyện,
không cạo râu, hầu như ko ăn gì và dường như không quan tâm đến con la của
họ có chết đói hay không. Sheridan, lúc đó được 6 tuổi và quen với
việc giúp đỡ mẹ nàng, đã cố gắng tiếp quản những việc vặt trong
nhà.
Cha nàng dường như không có ý thức về những cố gắng
của Sheridan cũng như về những sai sót và nỗi buồn của nàng. Cho đến
một ngày định mệnh, nàng làm bỏng cả tay mình cũng như cháy những
quả trứng nàng làm cho ông. Cố gắng không khóc vì sự đau đớn trên
cánh tay cũng như sự đau đớn trong tim, nàng kéo lê đống đồ giặt
xuống dòng sông cùng với những thứ còn sót lại của xà phòng giặt
quần áo. Khi nàng quỳ gối xuống bờ và thận trọng nhúng cái áo sơ
mi bằng vải flannel của cha nàng vào nước, những cảnh tượng của quá
khứ hạnh phúc trong cùng một hoàn cảnh quay trở lại ám ảnh nàng.
Nàng nhớ cách mẹ nàng thường ngân nga khi bà giặt quần áo ở đây trong
khi Sheridan trông nom Jamie nhỏ bé tắm. Nàng nhớ cách Jamie ngồi trong nước,
nói ríu rít hạnh phúc, đôi bàn tay mũm mĩm của cậu bé vỗ vỗ vào
nước trong niềm vui sướng đùa nghịch. Mẹ rất thích hát, bà đã dạy
Sheridan những bài hát từ nước Anh và hát chúng với nàng khi họ làm
việc. Thỉnh thoảng bà dừng hát và đơn giản lắng nghe Sheridan, đầu
bà nghiêng về một phía, một nụ cười kỳ lạ, tự hào trên khuôn mặt
bà. Nhiều khi bà quàng lấy Sheridan trong một cái ôm thật chặt và
nói điều gì đó tuyệt vời, như là “Giọng của con thật ngọt ngào và
rất đặc biệt – giống như là con vậy.”
Những kỉ niệm về những ngày điền viên làm mắt
Sheridan đau đớn khi nàng quì gối xuống dòng nước. Những lời của bài
hát ưa thích của mẹ thì thầm trong tâm trí nàng, cùng với kỉ niệm
về nụ cười của mẹ nàng, đầu tiên là với Jamie khi cậu bé cười khúc
khích và té nước, và tiếp đến là vào Sheridan, người cũng thường
xuyên bị ướt. “Hát cái gì đó cho chúng ta,“ bà sẽ nói vậy, “Hát cho
chúng ta, thiên thần ...”
Sheridan cố gắng làm theo lời yêu cầu còn nhớ, nhưng
giọng nàng nức nở và đôi mắt nàng sũng nước mắt. Dùng lòng bàn tay,
nàng lau đi những giọt nước mắt chỉ để nhận ra rằng chiếc áo sơ mi
của cha nàng đang trôi xuôi dòng, đã vượt khỏi tầm với của nàng, và
thế là Sheridan đã thua trận đánh để trở nên dũng cảm và trưởng
thành. Gập đầu gối tỳ vào ngực, nàng vùi khuôn mặt trong cái tạp dề
của mẹ nàng và nức nở với sự đau buồn và hoảng sợ. Vây xung quanh
với hoa dại mùa hè và mùi cỏ tươi, nàng rung rung, khóc cho đến khi
cổ họng nàng đau và những lời của nàng chỉ là nhịp điệu rên rỉ thì
thầm. “Mẹ ơi”, nàng than khóc, “Con nhớ mẹ, con nhớ mẹ, con nhớ mẹ.
Con nhớ Jamie. Làm ơn hãy quay trở về với cha và con. Xin hãy quay trở
về, xin hãy quay trở về. Ôi, làm ơn. Con không thể làm một mình, mẹ
ơi. Con không thể làm được. Con không thể, Con không thể -“
Lời cầu nguyện đau buồn của nàng bị ngắt quãng bởi
giọng nói của cha nàng – không phải cái giọng thẫn thờ, thiếu sức
sống, xa lạ khủng khiếp của ông trong vài thàng vừa qua, mà là cái
giọng nói trước đây- giờ khàn khàn với sự lo lắng và tình yêu. Cúi
mình xuống bên cạnh nàng, ông kéo nàng vào hai cánh tay mình.
“Cha cũng không thể làm một mình,” ông nói, bế nàng
chặt hơn dựa vào ông. “Nhưng cha sẽ đánh cá là chúng ta có thể cùng
làm với nhau, con yêu”.
Sau đó, sau khi ông lau nước mắt cho nàng, ông nói,
“Con có thích rời khỏi đây và đi du lịch, chỉ có con và cha? Chúng ta
sẽ làm cho mỗi ngày là một cuộc phiêu lưu. Cha đã từng có những
cuộc phiêu lưu tuyệt vời. Đó là cách cha đã gặp mẹ con như thế nào –
cha đã có một cuộc phiêu lưu ở nước Anh, ở thung lũng Sherwyn. Một
ngày nào đó chúng ta sẽ trở lại thung lũng Sherwyn, cha và con. Chỉ
không phải là cách cha và mẹ con đã rời đi. Lần này, chúng ta sẽ
trở lại theo một cách cao quý.”
Trước khi mẹ của Sheridan chết, bà đã nói một cách
lưu luyến về ngôi làng đẹp như tranh ở nước Anh nơi bà đã được sinh
ra, về miền quê tuyệt đẹp của nó, về những con đường thẳng hàng cây,
và những điệu nhảy bà đã tham gia trong nhưng căn phòng hội hè ở đó.
Bà thậm chí còn đặt tên Sheridan theo một loại hoa hồng đặc biệt đã
nở trong nhà cha xứ, một loài hoa hồng đỏ đặc biệt mà bà nói nó nở
vô số dọc hàng rào quanh nhà cha xứ. Mối bận tâm của cha Sheridan với sự
trở lại thung lũng Sherwyn dường như bắt đầu sau cái chết của mẹ
nàng. Tuy nhiên, điều làm Sheridan khó hiểu trong một khoảng thời gian
dài là chính xác tại sao cha nàng muốn quay trở lại nơi đó nhiều đến
vậy, đặc biệt khi người đàn ông quan trọng nhất trong làng dường như
là một con quái vật quỉ quyệt, cao ngạo, Địa chủ Faraday, người khống
chế tất cả mọi người và người sẽ không làm một người hàng xóm tốt
bụng chút nào khi cha nàng xây căn nhà lớn của ông bên cạnh nhà ông
ta, khi đó là dự định của ông.
Nàng biết cha nàng lần đầu tiên gặp Địa chủ Faraday
khi ông đưa đến một con ngựa quý từ Ai len mà lão đã mua cho con gái, và
nàng biết rằng từ khi cha nàng không còn họ hàng thân thuộc còn sống ở
Ailen, ông đã quyết định ở lại đây làm chân giữ và huấn luyện ngựa cho điền
chủ. Nhưng mãi cho đến khi nàng 11 tuổi nàng mới phát hiện ra rằng lão
Địa chủ Faraday xấu xa, lạnh lùng, đáng ghét, cao ngạo thực sự lại
chính là cha của mẹ nàng! Nàng luôn tự hỏi tại sao cha nàng lại mang
mẹ nàng đi xa khỏi ngôi làng yêu dấu và sau đó đưa bà đến nước Mỹ, cùng
với chị gái của mẹ nàng, người sau này định cư ở Richmond và từ
chối nhúc nhích bất kì phân nào nữa. Chỉ hơi lạ là ngoài quần áo mặc
trên người và một chút tiền ít ỏi, họ mang theo một chú ngựa tên là Vạch kết
thúc – chú ngựa mà mẹ nàng thích đến nỗi phải mang nó theo và trả cả
tiền vận chuyển nó, và vậy mà bà đã bán nó không lâu sau khi họ tới
nước Mỹ.
Một vài lần cha mẹ nàng đã nói về chuyến đi từ
nước Anh, nó luôn luôn có vẻ vội vàng sao đó và gần như cũng không hạnh
phúc, nhưng nàng không thể tưởng tượng tại sao nó lại trở nên như
vậy. Thật không may, cha nàng không hề sẵn lòng làm thỏa mãn sự hiếu
kì của nàng ở điểm này, điều này buộc nàng không có sự lựa chọn nào
ngoài chấp nhận kiềm chế sự hiếu kì của nàng và đợi cho đến khi họ
xây xong căn nhà lớn ở thung lũng Sherwyn để nàng có thể tự tìm hiểu
ra. Nàng lập kế hoạch để đạt được mục tiêu của nàng bằng việc hỏi
tất cả các câu hỏi được che đậy một cách cẩn thận một khi nàng ở đó.
Còn theo nàng hiểu, cha nàng định đánh cược vào lá bài và xúc xắc để đạt được
mục tiêu của ông, với bất kì khoản tiền nào mà họ có thể để dành
và ông cũng thường tìm được những cuộc đỏ đen dọc đường. Sự thật là, ông đơn
giản không có vận may với cả bài lẫn xúc xắc, nhưng ông tin là điều đó sẽ thay
đổi vào một ngày nào đó. “Tất cả những gì cha muốn, con yêu,” ông nói
với một điệu cười toe toét “chỉ là đúng bàn chơi với vận may trường. Cha
đã có vài lần như thế trong thời kì của cha, và nó lại đang tới. Cha
có thể cảm thấy nó”.
Vì chưa bao giờ ông nói dối nàng, nên Sherry cũng tin vào
điều đó. Và như thế họ lại tiếp tục cùng nhau rong ruổi, chuyện trò về
nhiều chủ đề từ tầm thường như là những thói quen của loài kiến cho tới
to tát như là sự hình thành vũ trụ. Với một số người, kiểu sống lang bạt của họ
chắc hẳn là lạ lắm. Ban đầu Sherry có vẻ cũng cảm thấy như vậy, lạ lẫm và
sợ hãi, nhưng nàng đã sớm trở nên yêu thích nó. Trước khi họ rời trang
trại, nàng thực sự nghĩ là cả thể giới rộng lớn trông cũng giống
hệt như đồng cỏ nhỏ bé của họ và rằng thật khó mà có ai khác sống ở phía bên
kia ranh giới của nó. Còn giờ đây mỗi chỗ ngoặt đều có những cảnh tượng mới và
sự háo hức gặp gỡ những con người thú vị dọc đường, những người cùng một hướng
đi – những người du hành đến và đi từ những nơi rất xa và ngoại lai như
Mississippi, hay Ohio, hay thậm chí cả Mexico nữa!
Từ họ, nàng đã nghe những câu chuyện kì lạ về nhưng
nơi xa xôi, những phong tục đáng ngạc nhiên, và những cách sống kì
lạ. Và bởi vì nàng đối xử với tất cả mọi người giống như cha nàng
- với sự thân thiện, nhã nhặn và thích thú - nhiều người trong số họ
chọn lựa đi chung cùng xe của nhà Bromleigh vài ngày trong một khoảng
thời gian hoặc thậm chí là vài tuần. Dọc đường Sheridan đã học thêm
thậm chí nhiều hơn: Ezekiel và Mary, cặp vợ chồng da đen với làn da trơn
bóng như than, mái tóc xoăn đen, và những nụ cười ngập ngừng nói với
nàng về một nơi gọi là Châu Phi, nơi mà những cái tên của họ thật
khác biệt. Họ dạy cho nàng những khúc thánh ca lạ kì, có nhịp
điệu, nó không hẳn là một bài hát, nó khiến tinh thần nàng mạnh mẽ và
sôi nổi.
Một năm sau khi Mary và Ezekiel đi con đường riêng của
họ, một người Anh-điêng tóc bạc với làn da dãi dầu sương gió và nhăn
nheo như da khô xuất hiện trên ngã rẽ của con đường trong một ngày mùa
đông xám xịt, cưỡi trên một con ngựa đốm đẹp tuyệt sung sức và đầy
năng lượng trong khi người cười ngựa đã già và mệt mỏi. Sau khi được
sự động viên đáng kể từ cha Sheridan, ông ta buộc con ngựa vào đằng sau
chiếc xe, trèo lên khoang xe và trả lời câu hỏi của Sheridan, ông ta
nói tên mình là Chó Nằm Ngủ. Tối đó, ngồi bên đống lửa trại, ông ta
đáp lại câu hỏi của Sheridan về những bài hát của người Anh-điêng
bằng việc đưa một màn biểu diễn kì lạ, màn biểu diễn dường như bao
gồm những âm thanh từ yết hầu được đệm bằng việc đập lòng bàn tay
lên đầu gối. Nó nghe thật kì lạ và không êm ái đến nỗi Sheridan đã
phải nén lại một nụ cười vì sợ làm tổn thương đến những cảm xúc
của ông ta, và sau đó ông ta dường như hiểu đó là sự thích thú một
cách hoang mang của nàng. Ông ta đột nhiên dừng lại và nheo mắt. “Bây
giờ,” ông nói, với giọng đột ngột và ra lệnh, “hãy hát một bài”.
Lúc đó, Sheridan đã quen ngồi quanh đống lửa trại và
hát với những người lạ cũng như nói chuyện với họ và như thế nàng
hát - một bài hát Ailen mà cha nàng đã dạy nàng hát về một người
đàn ông trẻ tuổi đã mất đi tình yêu của mình. Khi nàng hát đến phần
về người đàn ông trẻ đang khóc trong tim cho người thiếu nữ xinh đẹp,
Chó nằm ngủ phát ra một tiếng đè nén trong cổ họng ông nghe như một
tiếng khịt mũi và một tiếng cười. Một cái nhìn nhanh qua đám lửa
tới cái vẻ mặt thấtkinh của ông chứng minh suy đoán của nàng là đúng,
và lần này là Sheridan dừng lại ở nốt giữa.
“Khóc,” Người Anh-điêng nói cho nàng với một giọng
kiêu căng, trịnh thượng trong khi chỉ ngón tay vào nàng “là dành cho
phụ nữ”.
“Ồ” nàng nói, thất vọng, “Cháu - cháu đoán những
người đàn ông Ailen, vâng, khác biệt bởi vì bài hát nói là họ khóc,
và Papa đã dậy nó cho cháu, và ông ấy là người Ailen”. Nàng tìm sự
xác nhận từ cha nàng và nói ngập ngừng, “Đàn ông từ những vùng quê
cũ có khóc, đúng không, Papa?”
Ông bắn cho nàng một cái nhìn vui vẻ khi ông đổ cặn
còn lại của cốc cà phê vào đống lửa và nói, “Nào, bây giờ, con yêu,
thế nếu mà cha nói họ làm như thế, và Ngài Chó Nằm Ngủ rời chúng ta
với ý nghĩ rằng Ailen là một nơi buồn bã, đầy những chàng trai thểu
não tất cả trái tim họ khóc hết nước mắt và ruột để ngoài da thì sao?
Đó không phải là một điều tốt đúng không? Và bây giờ nếu cha nói là
họ không khóc, con có lẽ sẽ thôi nghĩ về bài hát và cha thành ra nói
dối, vậy cũng không tốt chút nào”. Với một cái nháy mắt bí ẩn, ông
kết thúc, “Giả sử cha nói với con là nhớ sai bài hát đó, và đó
thực sự là những người Ý mới khóc thì sao nhỉ?”
Ông đã diễn đạt tất cả như thể nó là một phần của
trò chơi ưa thích “Giả sử” của họ, một trò chơi họ đã sáng tạo ra
và chơi thường xuyên cho qua thời gian trong suốt ba năm lang bạt. Thỉnh
thoảng trò chơi cũng về những sự kiện nghiêm túc có khả năng có thật,
như kiểu “Giả sử những con ngựa đi khập khiễng thì sao.” Thỉnh thoảng
nó lại ngớ ngẩn kiểu “Giả sử một bà tiên đến và cho chúng ta một
điều ước thì sao nhỉ”, nhưng không quan tâm đến tiền đề, kết quả luôn
hướng tới giải pháp có thể tốt nhất trong khoảng thời gian ngắn nhất.
Sheridan chơi rất khá, đến nỗi cha nàng phải tự hào tuyên bố rằng nàng khiến
ông rất vất vả để giữ hòa với nàng.
Sheridan nhăn trán tập trung một chút, rồi nàng đưa ra giải
pháp với một điệu cười khúc khích: “Con nghĩ cha tốt nhất là giả vờ có
một số thứ cha phải làm bây giờ, vì thế cha không phải trả lời câu
hỏi. Nếu cha nói bất cứ một điều gì, nó chắc chắn sẽ hạ cha xuống
những cây tầm xuân”.
“Con đúng đấy”, ông nói, cười, sau đó ông nghe những
lời khuyên của nàng sau khi chúc Chó Nằm Ngủ một buổi tối tốt lành
một cách lịch sự. Cuộc trao đổi vui vẻ thậm chí không kiếm nổi một nụ cười
yếu ớt từ người Anh-điêng khắc kỉ, nhưng qua ánh lửa, ông gửi tới
Sheridan một cái nhìn thật lâu và mãnh liệt, rồi ông ta cuộn chân và
biến mất vào cánh rừng trong đêm tối không một lời từ biệt.
Buổi sáng tiếp theo, Chó Nằm Ngủ đề nghị cho nàng
cưỡi chú ngựa của ông –một niềm vinh dự mà Sheriddan nghi ngờ là nảy sinh từ
mong muốn của ông được ngồi thoải mái trên chiếc xe mà không chịu thừa nhận như
vậy và bằng cách đó để giữ mặt mũi cho ông. Sheridan, người chưa từng
cưỡi bất cứ cái gì, ngoại trừ con ngựa già, võng lưng kéo xe cho
họ, quan sát con vật xinh đẹp, sinh động với một chút kích động và
khá nhiều lo sợ hồi hộp. Nàng gần như đã từ chối khi nàng bắt gặp
cái nhìn đầy thách thức trên khuôn mặt người Anh-điêng. Cẩn thận xen
vào một âm thanh hối tiếc trong giọng nói của nàng, nàng hướng sự
chú ý vào việc họ không có một cái yên cương. Chó Nằm Ngủ gửi cho
nàng một cái nhìn ngạo mạn và cao ngạo khác và nói cho nàng rằng
các thiếu nữ người Anh-điêng cưỡi ngựa không yên và ngồi dạng chân.
Cái nhìn không chớp mắt của ông, kèm theo cái cảm giác
là ông biết nàng sợ, nhiều hơn là nàng có thể chịu đựng. Sẵn sàng
liều mạng sống và chân tay còn hơn là cho ông một lý do để đánh giá thấp
nàng, và cũng như tất cả những đứa trẻ Ailen, nàng bước qua tới chỗ
ông và nhận lấy cái dây thừng buộc ngựa từ tay ông. Ông không đề nghị
giúp nàng trèo lên, vì thế nàng dẫn con ngựa qua cái xe, trèo lên xe,
rồi mất vài phút cố gắng dắt khéo léo con ngựa tới một vị trí
gần đủ để vắt chân lên lưng nó.
Khi mà nàng đã trèo lên lưng ngựa, nàng ước nàng đã
không làm được thế. Từ trên lưng ngựa, mặt đất trông như rất xa, và
rất rất cứng, nàng ngã năm lần trong ngày hôm đó, và nàng có thể
hầu như cảm giác được người Anh-điêng và con ngựa bướng bỉnh của ông
ta đang cười nàng. Khi nàng chuẩn bị trèo lên trong lần thử thứ sáu,
nàng quá tức giận và quá đau nhức đến nỗi nàng giật mạnh cái dây
thừng, túm lấy cái tai con ngựa và gọi nó là một con quỉ, dùng một
từ tiếng Đức mà nàng đã được một cặp vợ chồng người Đức dạy trên
đường về Pennsylvania, rồi nàng tự nhấc bản thân lên khoang xe và giận
dữ nắm quyền chỉ huy cưỡi ngựa. Mất mấy phút để nàng nhận ra loài ngựa
Anh-điêng đúng là hạng thân lừa ưa nặng bởi vì con ngựa dừng việc bước
sang ngang và lồng lên và chạy nước kiệu ổn định một cách hồ hởi.
Tối đó, khi nàng ngồi cạnh đống lửa trại quan sát
cha nàng nấu súp, nàng đổi vị trí cho đỡ đau lưng và vô ý bắt gặp cái
nhìn của Chó Nằm Ngủ, cái nhìn mà nàng đã cố tránh kể từ lúc nàng buộc lại
con ngựa vào xe vào lúc sớm. Thay vì lời nhận xét bẽ bàng về khả năng cưỡi ngựa
kém cỏi của nàng so với các cô gái Anh-điêng, Chó Nằm Ngủ nhìn nàng không
chớp mắt trong ánh lửa bập bùng và hỏi một câu dường như chẳng ra đâu vào
đâu. “Tên của cháu có ý nghĩa gì?”
“Tên của cháu có ý nghĩa gì á”? Nàng nhắc lại sau
một thoáng suy nghĩ.
Khi ông ta gật đầu, nàng giải thích rằng nàng được
đặt tên theo một loài hoa nở trên mảnh đất của mẹ nàng ở nước Anh, ở
nơi mà phải vượt qua biển. Ông ta làu bàu không tán thành, và Sheridan
đã rất giật mình đến nỗi thốt lên. “Ồ, vậy thì, tên của cháu nên có ý nghĩa
như thế nào ạ ?”
“Không phải là hoa, cháu ấy” ông ta nói, xem xét cẩn
thận khuôn mặt tàn nhang và mái tóc ngỗ ngược của nàng. “Lửa, cháu
đấy. Ngọn lửa. Thắp sáng.”
“Cái gì? Ôi!” nàng nói, cười hé ra sự thông cảm.
“Ông muốn nói mái tóc của cháu trông giống như đang cháy bởi vì màu
của nó đúng không?“ Mặc cho bản tính xa cách, nói chuyện cộc lốc, và
con ngựa vô lễ của ông ta, Sheridan, như thường lệ, thân thiện một cách
tự nhiên, tò mò dai dẳng và không đủ khả năng tức giận đến một giờ,
“Papa gọi cháu là ’Cà rốt’ bởi vì mái tóc của cháu,” nàng nói với
một nụ cười. “Cà rốt là một loại rau màu cam... giống như... như ngũ
cốc là một loại rau,” nàng thêm vào. “Đó là tại sao ông ấy gọi cháu
là ’cà rốt’”.
“Người da trắng không giỏi đặt tên như người
Anh-điêng.”
Lịch sự kiềm chế để khỏi chỉ ra rằng đặt tên theo
một con chó không hề thích hợp như là được nhắc đến như một loại rau, Sheridan
nói, “Vậy cái tên nào người Anh-điêng sẽ đặt cho cháu?”
“Tóc của lửa,” ông thông báo, “Nếu cháu là một đứa
con trai, tên của cháu là Khôn ngoan lâu năm.”
“Cái gì?” Sheridan ngây ra hỏi.
“Cháu đã khôn ngoan sẵn rồi!” ông làm cho giải thích một
cách vụng về, “Khôn ngoan, nhưng không bị già. Mà trẻ tuổi.”
“Ôi, cháu thực sự thích được gọi là khôn ngoan!”
Sheridan kêu lên, ngay tức thì đảo lại quyết định trước đây, quyết định
nàng sẽ rất thích ông ấy, thật vậy. "Khôn ngoan lâu năm," nàng
nhắc lại, đưa một cái nhìn hạnh phúc sang người cha đang thích thú.
“Cô bé con” ông mâu thuẫn, làm cụt hứng niềm vui sướng
của nàng với thái độ trọng nam. “Đàn bà con gái thì không gọi là khôn
ngoan.Gọi cháu là Tóc của lửa.”
Sheridan quyết định dù sao cũng sẽ thích ông và kiềm
chế sự trả miếng tức giận rằng cha nàng kiểu gì cũng nghĩ nàng
thông minh, trái ngược với quan điểm của ông ta. “Tóc của lửa là một
cái tên đẹp” thay vì thế nàng nói.
Ông ta cười lần đầu tiên, một nụ cười ranh mãnh đã
xóa đi hàng chục tuổi trên khuôn mặt ông và khiến nó rõ ràng là ông
biết rõ sự kiềm chế trên khuôn mặt của nàng đối với sự khiêu khích
của ông. “Cháu Khôn ngoan lâu năm,” ông ta nói, nụ cười của ông ta mở
rộng ra khi ông ta nhìn cha nàng và gật đầu.
Cha nàng gật đầu đồng ý trở lại, và Sheridan quyết
định, cũng như mọi lần rằng cuộc sống thật vui vẻ, và rằng cho dù mỗi người bên
ngoài có khác nhau đến mấy, thì bên trong cũng rất giống nhau. Họ thích cười
và nói chuyện và mơ mộng... và giả vờ rằng họ luôn dũng cảm, không
bao giờ đau đớn, và nỗi sầu muộn chỉ là tâm trạng không vui thoáng qua. Và
thường như thế.