Chiến hữu - Chương 25.2

Tôi xách va-li xuống lầu. Mọi thứ bỗng thân cận và ấm áp; cầu thang, mùi ẩm mốc của đầu cầu thang, mặt nhựa đường xám-cao su, lấp lánh và lạnh, trên đó Karl đang trờ tới.
"Tớ mang theo vài tấm chăn," Koster nói. "Trời sẽ lạnh. Cậu quấn cho kỹ vào."
"Ta thay nhau lái, hở?" tôi hỏi.
"Vâng. Nhưng để tớ lái trước. Lúc ban chiều, tớ đã đánh một giấc."
Nửa giờ sau chúng tôi để lại thành phố sau lưng và đêm trăng vằng vặc đón chào chúng tôi. Con đường trắng xa tít tận chân trời. Sáng đến nỗi chúng tôi có thể lái xe mà không cần đèn pha. Tiếng động cơ trầm như một nốt organ; nó không làm hỏng đi sự yên lặng, mà còn tăng thêm ý nghĩa.
"Cậu cần chợp mắt một lát," Koster nói.
Tôi lắc đầu. "Không thể, Otto."
"Vậy ít ra cũng cố thư giản, để sớm mai được tỉnh táo. Chúng ta có nguyên một nước Đức để lái xuyên qua."
"Tớ thích như thế này lắm."
Tôi vẫn ngồi cạnh Koster. Trăng lướt trên vòm trời. Đồng ruộng óng ánh như mặt xà cừ. Thỉnh thoảng một vài ngôi làng vút qua, đôi khi một thành phố, ngủ say, trống rỗng, lòng đường giữa những dãy nhà đong đầy ánh trăng yêu ma, vô hình khiến đêm trở thành một cuộn phim hư ảo.
Gần sáng trời trở lạnh. Đồng cỏ bỗng dưng lóng lánh với sương mai, cây cối như thép chảy trên nền trời xám; trong rừng, gió bắt đầu thổi và đây đó những làn khói dài tha thướt bốc lên từ những ống khói. Tới phiên tôi và tôi lái đến mười giờ. Rồi chúng tôi có một bửa điểm tâm vội vàng ở một lữ quán ven đường và tôi tiếp tục lái đến mười hai giờ. Từ lúc ấy trở đi, Koster giữ tay lái. Nếu một mình, anh còn lái nhanh hơn nữa.
Buổi chiều, khi trời chạng vạng, chúng tôi đến chân núi. Chúng tôi có mang theo xích sắt và thuổng xúc tuyết và hỏi thăm có thể lái được bao xa nữa.
"Với xích sắt, các ông có thể thử," người thư ký Câu Lạc Bộ Xe Hơi nói. "Năm nay trời ít tuyết. Nhưng ở những kí lô mét cuối cùng, sẽ ra sao, tôi không thể đoan chắc. Các ông có thể mắc kẹt ở đấy."
Còn rất lâu xe lửa mới đến nên chúng tôi quyết định lái xe lên núi. Trời lạnh nên không sợ có sương mù. Xe ngoan ngoãn leo con dốc ngoằn ngoèo. Được nửa đường, chúng tôi lắp xích vào bánh xe. Đường đã được cào tuyết, nhưng nhiều đoạn có một lớp giá mỏng ở trên và xe bị chao đảo. Đôi khi chúng tôi phải xuống xe và hì hục đẩy. Hai lần chúng tôi bị lún và phải dùng thuổng xúc cho Karl thoát ra. Ở ngôi làng cuối, chúng tôi xin một xô cát, vì chúng tôi đang ở một nơi rất cao và chúng tôi sợ những khúc quanh của đường xuống núi đóng giá. Bấy giờ trời đã tối hẳn. Vách núi thẳng đứng, chót vót và trơ trụi vươn lên trời đêm, đường đèo hẹp lại, máy xe gầm gừ ở số nhỏ nhất, và hết khúc quanh này đến khúc quanh khác đường xuống thấp dần. Thình lình đèn pha trợt khỏi sườn núi và lao vào hư không, núi mở ra, và trước mặt chúng tôi, đèn giăng như lưới trên ngôi làng thung lũng.
Xe lao như sấm giữa các cửa tiệm hai bên phố chính. Khách bộ hành nhảy tránh; giật mình trước hình ảnh khác thường, ngựa giật lùi; một cỗ xe trượt tuyết tự tuột dốc; xe chúng tôi lướt qua các khúc cong, vào dưỡng đường và dừng trước hiên. Tôi nhảy xuống; như qua một màng voan mỏng, nhìn thấy những gương mặt tò mò, người ta, văn phòng, thang máy; rồi tôi chạy trong hành lang trắng, tung cửa, và trông thấy Pat; như tôi đã trông thấy nàng hàng trăm lần trong mơ và ước vọng; nàng lại gần và tôi ôm nàng vào lòng, như ôm chính đời sống và còn hơn cả đời sống.
"Tạ ơn Chúa," tôi nói, khi đã hoàn hồn. "Anh cứ tưởng em còn nằm trên giường."
Trên vai tôi, nàng lắc đầu. Rồi nàng đứng thẳng lại, ấp tay vào mặt tôi và nhìn.
"Cứ nghĩ xem, anh có mặt nơi đây," nàng khẻ nói. "Và anh đến thăm em!"
Nàng hôn tôi, chăm chút, thận trọng, yếu ớt, như hôn một vật mà ta không muốn làm tan vỡ. Khi chạm môi nàng, tôi run lên. Mọi thứ xảy ra quá nhanh, tôi chưa bắt kịp. Tôi chưa có mặt ở đây; tôi vẫn còn di chuyển, tiếng máy xe gầm rú, và con đường. Tôi có cảm giác như một người bước ra khỏi giá lạnh và đêm tối vào một căn phòng ấm; hắn cảm thấy sức nóng trên da, chính mắt nhìn thấy điều ấy, nhưng vẫn chưa kịp ấm.
"Tụi anh lái khá nhanh," tôi nói.
Nàng không trả lời. Nàng nhìn tôi trong im lặng. Gương mặt nghiêm trang của nàng mang một vẻ quyết liệt, mắt nàng kề sát mắt tôi, và như thể nàng cố tìm lại một điều hệ trong. Tôi luống cuống. Tôi đặt tay lên vai nàng và cụp mắt xuống.
"Anh ở lại chứ?" nàng hỏi.
Tôi gật đầu.
"Hãy nói. Nói rằng một lần nữa, anh sẽ bỏ đi, để ngay lúc này em được biết."
Tôi định nói là tôi chưa biết, và có lẽ tôi sẽ ra về trong vài ngày tới, bởi vì tôi không đủ tiền trọ. Nhưng tôi không thể thốt nên lời. Tôi không thể, cách nàng nhìn tôi như thế.
"Vâng," tôi nói. " Anh ở lại. Cho đến khi hai đứa mình về cùng một lúc."
Mặt nàng không đổi. Nhưng rồi, đột nhiên nó rạng ngời, như thắp sáng bên trong.
"Ach," nàng thì thầm, "nếu không, làm sao em chịu nổi."
Qua vai nàng, tôi cố đọc tấm biểu đồ thân nhiệt treo trên đầu giường. Nàng biết, giật tờ giấy khỏi hộp, vo tròn và thẩy dưới gầm giường. "Không còn ý nghĩa nữa," nàng nói.
Tôi ghi nhớ vị trí của viên giấy và định là sau đó khi nàng không để ý sẽ cất vào túi.
"Em ốm à?" tôi hỏi.
"Nhẹ thôi. Nhưng đã khỏi."
"Bác sĩ nói sao?"
Nàng cười. "Đừng hỏi tới bác sĩ. Đừng hỏi gì cả. Anh có mặt ở đây, thế là đủ."
Nàng đã thay đổi bất ngờ. Tôi không hiểu có phải vì đã lâu tôi không gặp nàng, nhưng tôi cảm thấy nàng không giống như xưa. Cử động duyên dáng hơn, da ấm hơn, cách nàng đến với tôi khác hơn; nàng không chỉ là một cô gái trẻ đẹp mà ta cần bảo vệ; một điều gì đó đã xâm nhập, và trước đây tôi thường mù mờ không biết nàng có yêu tôi không, nay thì tôi biết rõ, nàng không che dấu điều ấy nữa, nàng hoạt bát và thân cận với tôi hơn bao giờ hết, sống động hơn, gần gủi hơn và xinh đẹp hơn, thú vị vui tươi hơn nhưng trong một cách thức lạ lùng, cũng gây nhiều lo âu hơn.
"Pat," tôi nói. "Anh phải xuống lầu một lát. Koster chờ bên dưới. Tụi anh phải tìm chỗ trọ."
"Koster? Còn Lenz đâu?"
"Lenz...," tôi nói. "Lenz phải ở nhà."
Nàng không để ý. "Em dám mạo hiểm xuống dưới nhà không?" tôi hỏi. "Hay tụi anh nên lên đây?"
"Chuyện gì em cũng dám. Hiện nay em có thể làm đủ mọi thứ. Chúng ta sẽ xuống lầu, gọi rượu. Em sẽ nhìn anh uống."
"Tốt. Vậy tụi anh chờ em ở phòng khách dưới nhà."
Nàng đến tủ lấy một chiếc áo đầm. Thừa lúc ấy,tôi dấu viên giấy biểu đồ vào túi.
"Được rồi, Pat; một chốc nữa gặp lại em, nhé?"
"Robby," nàng bước theo và quàng tay lên cổ tôi. "Em có nhiều chuyện muốn kể với anh."
"Anh cũng thế, Pat. Nhưng mình đủ thì giờ mà. Mình sẽ tâm tình suốt ngày. Ngày mai. Thuở ban đầu chúng ta không được vậy."
Nàng gật đầu. "Vâng, chúng ta sẽ kể cho nhau nghe tất cả. Chúng ta sẽ biết rõ về nhau, như chưa bao giờ chia cách."
"Dù sao, chúng ta chưa hề chia cách," tôi nói.
Nàng mỉm cười. "Em không cảm thấy như thế. Em không đủ sức mạnh. Em khổ sở hơn nhiều. Em không thể tự an ủi khi đơn độc. Lẻ loi, em chỉ biết vậy. Sẽ dễ dàng hơn khi ta đơn côi mà không có tình yêu." Nàng tiếp tục mỉm cười. Nụ cười ngớ ngẩn, vô hồn; nàng cố gắng bám víu, nhưng ta có thể thấy rõ điều ấy.
"Pat," tôi nói, "bà già can đảm."
"Lâu lắm em mới nghe anh gọi thế," nàng nói, và mắt đẫm lệ.
Tôi xuống nhà gặp Koster. Hành lý đã được lấy khỏi xe. Họ cho chúng tôi hai phòng sát nhau thuộc dãy nhà phụ. "Nhìn này," tôi nói, chìa cho anh tấm biểu đồ thân nhiệt. "Khi cao khi thấp."
Chúng tôi bước trên mặt tuyết lạo xạo, đi tới bậc thềm. "Ngày mai cậu hỏi bác sĩ," Koster nói. "Chỉ có thân nhiệt mà thôi, không đầy đủ."
"Theo tớ, đủ rồi," tôi trả lời và vo tròn nó và nhét vào túi.
Chúng tôi tắm gội. Rồi Koster qua phòng tôi. Trông anh như vừa thức giấc. "Phải mặc y phục vào, Bob," anh nói.
"Vâng," tôi choàng tỉnh khỏi giấc trầm tư và mở va -li, cất áo quần vào tủ..
Chúng tôi trở lại dưỡng đường. Karl vẫn đậu bên ngoài. Koster đã phủ một tấm chăn trên đầu máy. "Chừng nào ta về, Otto?"
Anh đứng lại. "Tớ định là tối mai hay sáng sớm hôm sau sẽ về. Còn cậu, ở lại."
"Nhưng tớ biết làm sao đây?" tôi tuyệt vọng. "Tớ chỉ đủ tiền trọ cho mười ngày. Còn viện phí của Pat chỉ trả tới mười lăm tây. Tớ phải về, đi làm kiếm tiền. Chắc ở đây không cần một nhạc sĩ dương cầm tồi."
Koster cúi mình trên đầu xe và nhấc tấm chăn. "Tớ sẽ chạy tiền cho cậu," thẳng người lên, anh nói. "Cậu cứ ở lại, đừng bận tâm về chuyện ấy."
"Otto," tôi nói, "Tớ biết cậu thu được bao nhiêu từ cuộc đấu giá. Chẳng tới ba trăm marks."
"Không phải thế. Tớ sẽ kiếm thêm. Đừng lo. Trong vòng tám ngày, cậu sẽ có tiền."
"Cậu được hưởng gia tài à?" tôi hỏi với một niềm hân hoan ảm đạm.
"Gần như thế. Để mặc tớ. Cậu không thể rời bỏ nàng."
Koster trải lại tấm chăn trên đầu máy. Anh vuốt ve nắp xe. Rồi chúng tôi vào phòng khánh tiết và ngồi cạnh lò sưởi. "Chắc trễ lắm, mấy giờ rồi nhỉ?" tôi hỏi.
Koster nhìn đồng hồ tay. "Sáu giờ ba mươi."
"Tuyệt vời," tôi nói. "Tớ tưởng phải khuya lắm rồi."
Pat đi xuống cầu thang. Nàng mặc chiếc áo lông ngắn và băng qua phòng khách đến chào Koster. Lần đầu tôi được thấy làn da của nàng nâu đến mực nào. Màu đồng đỏ, và trông nàng giống một cô Da Đỏ trắng trẻo.
"Em có bị sốt không?" tôi hỏi.
"Gây gây thôi," nàng đáp, nhanh và mơ hồ. "Buổi tối tại đây ai cũng sốt. Chỉ vì anh đã đến. Anh không mệt à?"
"Mệt vì cái gì cơ?"
"Vậy mình ra quầy rượu. Anh biết không, đây là lần đầu tiên em có người thăm."
"Tại đây có quầy rượu?"
"Vâng, bé thôi. Ít ra cũng là một góc phòng, gần giống quầy rượu. Là một phần của việc trị liệu. Phải làm đủ cách để không có thứ gì giống như bệnh viện. Ta chỉ được uống những thứ họ cho phép."
Quầy rượu đầy người. Pat chào hỏi khá nhiều. Có một người Ý mà tôi ưa thích. Chúng tôi ngồi vào một cái bàn vừa trống.
"Vậy em uống gì ?" tôi hỏi.
"Một ly cocktail với rum. Thứ ta thường uống ở quán 'The Bar.' Anh biết công thức chứ?"
"Đơn giản thôi," tôi nói với cô hầu bàn. "Nửa phần port, nửa phần Jamaica rum."
"Hai ly," Pat nói. "Và một ly Đặc Biệt."
Cô gái đem ra hai ly Porto-Roncos và một ly màu đỏ tươi. "Ly ấy của tôi," Pat nói. Nàng đẩy hai ly rum lại gần chúng tôi. "Salut!"
Nàng đặt ly xuống bàn mà không nhấp môi, nhìn quanh, rồi nhanh tay tráo nó với ly rượu của tôi và uống cạn. "Ach," nàng nói, "sao mà ngon thế."
"Em gọi món thổ tả gì vậy?" tôi hỏi, nếm thứ dung dịch đỏ tươi đáng ngờ ấy. Nó có vị của quả mâm xôi và chanh. Không chứa một giọt rượu.
"Ngon quá," tôi nói.
Pat nhìn tôi.
"Với người khát nước," tôi thêm vào.
Nàng cười to. "Gọi một ly Porto-Ronco nữa nhé. Nhưng cho anh. Em không được phép uống."
Tôi ra dấu cho cô gái. "Một Porto-Ronco và một Đặc Biệt," tôi nói. Tôi thấy ở các bàn chung quanh, nhiều người uống ly Đặc Biệt.
"Cho em mạo hiểm hôm nay, Robby nhé?" Pat nói. "Chỉ hôm nay mà thôi? Như ngày xưa. Vâng, cho em nhé, Robby nhé?"
"Ly Đặc Biệt cũng khá ngon," tôi trả lời và uống ly thứ hai.
"Em ghét nó. Tội nghiệp Robby, anh phải uống thức giải khát ở đây."
"Nếu ta gọi cho nhanh, thế nào anh cũng hưởng phần," tôi nói.
Pat cười to. "Chút nữa, sau bửa ăn tối, em sẽ được uống một thứ gì ấy. Vang đỏ."
Chúng tôi gọi vài ly Porto-Roncos nữa, rồi vào phòng ăn. Trông Pat thật đáng yêu. Gương mặt rạng ngời. Chúng tôi ngồi ở một cái bàn nhỏ phủ khăn trắng, cạnh cửa sổ. Phòng ấm, và dưới kia là ngôi làng trong tuyết với những con đường sáng đèn.
"Helga Guttmann đâu em?" tôi hỏi.
"Đã đi," Pat nói, sau một chút ngập ngừng.
"Đã đi? Sớm thế ư?"
"Vâng," Pat đáp và tôi hiểu ý nàng.
Cô hầu bàn đem ra một chai vang đỏ sậm. Koster rót vào ly. Mọi bàn ăn đều có người ngồi. Ai nấy cười nói râm ran. Tôi nắm tay Pat.
"Anh yêu," nàng nói âu yếm, ngọt ngào. "Em không thể chịu đựng nhiều hơn nữa."

Báo cáo nội dung xấu