Chiến hữu - Chương 24.2

Tôi không trả lời. Gottfried vẫn tha thiết nhìn tôi.
Lâu lắm Koster mới trở lại. Một mình. Bác sĩ bỏ tờ báo đang đọc xuống. "Cảnh sát có ở đó không?" ông hỏi.
Koster lặng im. Anh không nghe bác sĩ.
"Có cảnh sát ở đó không?" bác sĩ hỏi lại một lần nữa.
"Có ạ," Koster đáp. Chúng ta phải gọi điện mời họ. "
Bác sĩ nhìn anh, nhưng không nói gì và đi tới điện thoại.
Vài phút sau hai người cảnh sát đến. Họ ngồi xuống bàn và ghi chép nhân dạng của Gottfried. Tôi không hiểu, nhưng thấy xuẩn ngốc làm sao, khi phải nói tên họ, ngày sanh tháng đẻ, nơi cư trú của anh, bây giờ, khi anh đã chết. Tôi cứ nhìn cái ngòi chì đen mà viên cảnh sát thỉnh thoảng lại đưa lên môi nhấp ướt, và tôi trả lời như máy.
Viên cảnh sát kia bắt đầu lấy khẩu cung. Koster khai những điều cần thiết. "Ông có thể cho biết sơ qua hình dáng thủ phạm?" viên cảnh sát hỏi.
"Không," Koster trả lời. "Tôi không có để ý."
Tôi nhìn anh. Tôi nhớ đến cái quần ống túm vàng và bộ đồng phục.
"Ông không biết đảng phái của hắn? Ông không thấy phù hiệu hay đồng phục của hắn?"
"Không," Koster nói. "Tôi chẳng nhìn thấy gì trước khi súng nổ. Và sau đó tôi chỉ nghĩ đến --" anh ngập ngừng một giây --"đồng chí của tôi."
"Ông là đảng viên của một đảng phái?"
"Không."
"Tôi hỏi thế, vì ông nói người quá cố là đồng chí của ông --"
"Anh ấy là chiến hữu của tôi trong thời chiến," Koster trả lời.
Người cảnh sát quay sang tôi. "Ông có thể mô tả nhân dạng của thủ phạm?"
Koster nhìn xoáy vào tôi.
"Không," tôi nói. "Tôi cũng không thấy gì hết."
"Xuất sắc," người cảnh sát nói.
"Lúc ấy chúng tôi đang trò chuyện, và không để ý chi cả. Rồi việc ấy xảy ra đột ngột."
Người cảnh sát thở dài. "Như thế chẳng hy vọng gì bắt được kẻ phá hoại." Ông ta kết thúc biên bản.
"Chúng tôi có thể nhận xác anh ấy được chứ?" Koster hỏi.
"Thật ra --" viên cảnh sát nhìn qua ông bác sĩ. "Đã xác định được nguyên nhân cái chết chưa nhỉ?"
Bác sĩ gật đầu. "Tôi đã viết giấy khai tử."
"Vậy đầu đạn ở đâu? Tôi cần thu tang vật."
"Đầu đạn vẫn còn trong thi thể. Lẽ ra tôi nên --" bác sĩ lưỡng lự.
"Tôi cần cả hai cái đầu đạn. Tôi phải quan sát để kết luận nếu chúng được bắn từ một khẩu súng."
"Vâng," Koster nói, đáp lại cái nhìn của bác sĩ.
Người y công đưa cáng vào vị trí và kéo ngọn đèn xuống. Bác sĩ lấy dụng cụ ra và với cái que, thăm dò vết thương. Ông nhanh chóng gấp được viên đạn thứ nhất; nó nằm ở một chỗ không sâu lắm. Với viên đạn kia, ông phải cắt xẻ. Ông kéo găng cao su, và với lấy các thứ nhíp mổ và dao mổ. Koster xấn tới, vuốt mắt Gottfried lúc ấy vẫn còn mở hé. Tôi quay mặt đi khi tiếng dao cắt ngọt vào thịt. Trong khoảng khắc, tôi muốn nhảy xổ vào, xô bác sĩ qua một bên bởi đột nhiên, tôi có ý tưởng là Gottfried chỉ bất tỉnh và bác sĩ thực sự đang giết anh -- nhưng rồi tôi hiểu. Chúng tôi dư sức hiểu, bởi chúng tôi đã nhìn thấy quá nhiều xác chết.
"Nó đây rồi," bác sĩ nói và đứng thẳng lên. Ông lau đầu viên đạn và đưa cho người cảnh sát.
"Chúng giống hệt nhau. Bắn từ một khẩu súng, phải không?"
Koster khom xuống và chăm chú nhìn hai viên đạn nhỏ, sáng mờ, lăn lăn trong lòng bàn tay người cảnh sát.
"Vâng," anh nói.
Viên cảnh sát gói chúng trong giấy và bỏ vào túi.
"Thật tình thì không được phép," ông ta nói, đoạn tiếp tục, "nhưng nếu ông muốn đem ông ấy về nhà ... Các dữ kiện đều đã được minh xác, phải không bác sĩ?" Bác sĩ gật đầu. "Dĩ nhiên, ngài cũng là chuyên viên giám định tử thi," người cảnh sát nói tiếp; "trong trường hợp này, nếu ông muốn -- ông chỉ cần ... Có thể ngày mai sẽ có một ủy viên tới đây --"
"Tôi hiểu," Koster nói. "Chúng tôi sẽ giữ nguyên tình trạng."
Hai người cảnh sát ra về.
Bác sĩ đã đậy vết thương của Gottfried. "Các cậu tính sao? ông hỏi. "Các cậu có thể mượn cái cáng. Chỉ cần sáng mai mang trả, giờ nào cũng được."
"Vâng, cảm ơn bác sĩ," Koster nói. "Ta đi thôi, Bob."
"Để tôi giúp một tay," người y công nói.
Tôi lắc đầu. "Chúng tôi tự lo được."
Chúng tôi khênh cáng ra và đặt nó lên hai cái ghế trái đã hạ lưng dựa. Người y công và bác sĩ bước ra nhìn. Chúng tôi phủ cái áo khoác của Gottfried lên thi thể anh, và lái đi. Một chốc sau, Koster quay sang tôi.
"Chúng ta sẽ lái vòng quanh một hồi. Tớ đã rà soát một vòng. Nhưng có lẽ khi ấy còn quá sớm. Không chừng lần này chúng ta sẽ gặp lại chúng."
Tuyết bắt đầu lất phất rơi. Koster lái xe gần như không tiếng động. Anh nhả số, và đôi khi lại tắt máy. Anh không muốn ai nghe tiếng máy nổ, mặc dù bốn đứa mà chúng tôi tìm không thể nào biết, dĩ nhiên, chúng tôi có xe hơi. Chúng tôi lướt êm như bóng ma trắng dưới trời tuyết càng lúc càng nhặt. Tôi lấy cây búa từ hộp dụng cụ sửa xe, đặt bên mình để sẳn sàng nhảy khỏi xe và tấn công.
Chúng tôi lái vào con đường nơi đã xảy ra sự việc. Vẫn còn đó, vũng máu đen dưới ngọn đèn đường. Koster tắt đèn xe. Chúng tôi áp sát vĩa hè và quan sát chung quanh. Không một bóng người. Chỉ nghe tiếng ồn từ một quán rượu còn sáng.
Koster dừng xe ở ngã tư. "Ngồi đây," anh nói. "Tớ muốn vào xem."
"Tớ sẽ đi với cậu," tôi trả lời.
Anh nhìn tôi, cái nhìn mà tôi đã biết từ những lần khi xưa anh muốn tuần tiểu một mình. "Tớ sẽ không làm vọng động," anh nói. "Nó có thể trốn thoát. Tớ chỉ muốn biết nó có mặt trong đó hay không. Rồi chúng ta sẽ chờ. Cậu ngồi đây với Gottfried."
Tôi gật đầu và anh biến mất trong đám tuyết lả tả bay. Những bông tuyết tấp vào má tôi và tan trên da. Đột nhiên tôi không chịu được việc Gottfried bị che phủ, như thể anh không thuộc về chúng tôi nữa, và tôi kéo cái áo khoác xuống quá đầu anh. Giờ thì tuyết cũng rơi lên mặt, lên mắt, lên môi anh, nhưng chúng không tan. Tôi lấy khăn tay, lau chúng đi, và kéo áo khoác trùm đầu anh lại.
Koster trở về. "Không có gì?"
"Không," anh nói.
Anh ngồi vào xe. "Bây giờ chúng ta sẽ lái lòng vòng trên những con đường khác. Tớ có linh cảm chúng ta sẽ chạm mặt chúng chỉ trong vài phút nữa."
Xe gầm lên và bị giảm tốc độ ngay. Chúng tôi len lén đi trong đêm cuồn cuộn trắng, đường này qua đường khác; ở các góc quẹo tôi giữ chặt Gottfried để anh không tuột khỏi xe; thỉnh thoảng chúng tôi lại ngừng vài chục mét quá một quán rượu và Koster lại phóng chân trở lại quán để nhìn. Anh bị ám ảnh bởi một nỗi hận thù lạnh lùng, bi thảm; anh không nghĩ đến việc mang Gottfried về nhà trước nhất; có hai lần anh định làm như vậy, nhưng quay đầu xe trở lại ngay, vì anh tưởng tượng hảo huyền rằng bốn thằng nhóc sẽ xuất hiện liền khi ấy.
Thình lình, ở một con đường trống trải, chúng tôi thấy một khóm đen đàng xa. Koster lập tức tắt máy; và không tiếng động, không đèn, xe chúng tôi lướt tới. Họ không nghe gì. Họ rân ran trò chuyện. "Bốn thằng," tôi nói nhỏ với Koster.
Cùng lúc ấy, chiếc xe gầm lên, phóng hai trăm mét cuối cùng, leo lề và thắng kịt bên những người đang rú hét. Koster nghiêng mình khỏi xe, căng như cánh cung thép sẳn sàng bật, và gương mặt ngùn ngụt nỗi chết.
Đó là bốn ông già vô hại. Một ông đã say khướt. Họ bắt đầu chửi rủa. Koster không trả lời. Chúng tôi tiếp tục lái đi.
"Otto," tôi nói, "tối nay chúng ta sẽ không tìm thấy nó. Tớ không tin là nó dám chường mặt ra đường."
"Vâng, có lẽ," một lúc sau anh trả lời, và quay đầu xe.
Chúng tôi lái về nhà Koster. Phòng của anh có lối đi riêng nên chúng tôi không phải đánh thức ai. Khi sắp xuống xe, tôi hỏi: "Sao cậu không muốn mô tả nhân dạng của thằng đó cho cảnh sát? Như thế sẽ giúp cuộc điều tra dễ dàng hơn. Và ta đã nhìn hắn khá rõ."
Koster ngó tôi. "Bởi vì chúng ta sẽ giải quyết lấy, không cần tới cảnh sát. Thế cậu nghĩ --" Giọng anh êm ả, kềm chế và đáng sợ -- "Thế cậu nghĩ, dù sao, tớ cũng nộp hắn cho cảnh sát? Để hắn lảnh vài năm tù? Cậu hiểu rõ những trường hợp ấy sẽ kết thúc ra sao. Mấy thằng đó biết chúng sẽ gặp các quan tòa dễ dãi. Chúng ta không có gì như thế cả. Hơn nữa, nếu cảnh sát tìm ra nó, tớ cũng sẽ thề quyết rằng không phải nó, để sau này chính tay tớ xử. Gottfried đã chết và nó còn sống ... Chúng ta không có gì cả."
Chúng tôi nhấc cáng khỏi ghế và khiêng đi trong trời hoa tuyết xoáy lượn và trong gió, như xưa kia ở Flanders, chuyển vận xác một đồng đội từ mặt trận về hậu cứ.
Chúng tôi mua một cỗ áo quan và huyệt phần trong nghĩa trang giáo xứ. Gottfried thường nói, những khi chúng tôi bàn bạc, rằng lò thiêu xác không dành cho binh sĩ. Ý của anh, là được chôn trong lòng đất nơi anh đã sống lâu nay.
Hôm đi chôn là một ngày nắng đẹp. Chúng tôi mặc cho anh chiếc áo lính cũ với tay áo tả tơi vì đạn pháo và hãy còn vết máu. Chúng tôi tự đóng nắp quan tài và mang anh xuống lầu. Không mấy ai đưa tiễn, chỉ có: Ferdinand, Valentin, Alfons, Fred bồi rượu, Georg, Jupp, Frau Stoss, Gustav, Stefan Grigroleit, và Rosa.
Ở cổng nghĩa trang, chúng tôi phải chờ. Có hai đám tang trước chúng tôi, một đám với xe nhà đòn đen, đám kia xe thổ mộ, ngựa phủ chăn đen và bạc và người đưa đám dường như không tỏ vẻ buồn thảm cho lắm.
Chúng tôi nhấc quan tài khỏi xe và tự hạ huyệt bằng dây thừng. Người phu đào huyệt hài lòng, vì ông đã quá cực nhọc ở các đám tang kia. Chúng tôi có mời một mục sư. Chúng tôi không biết Gottfried nghĩ thế nào về chuyện ấy, nhưng Valentin kiên quyết. Ít ra chúng tôi cũng yêu cầu ngài đừng đọc diễn văn. Ngài chỉ cần đọc một đoạn trong Kinh Thánh.
Mục sư là một người lớn tuổi, cận thị. Khi tới bên mồ, ngài vấp phải một cục đất và có lẽ đã té xuống huyệt nếu Koster và Valentin không đỡ kịp. Quyển Thánh Kinh và đôi mục kỉnh mà ngài sắp sửa mang, văng khỏi tay. Chúng rơi tọt xuống huyệt. Ngài thất thần nhìn theo.
"Không sao, thưa Mục sư." Valentin nói, "chúng con sẽ giúp ngài."
"Quyển sách không cần lắm," ngài dịu dàng nói, "nhưng ta cần cặp kính."
Valentin bẻ một nhánh cây ở hàng dậu nghĩa trang. Rồi anh quỳ cạnh huyệt và cố tìm cách móc một bên gọng kính và lôi nó khỏi những vòng hoa. Gọng kính mạ vàng. Thánh Kinh lọt vào khe giữa quan tài và vách đất; cần phải nhấc quan tài ra khỏi huyệt và nhảy xuống lấy. Cả Mục sư cũng không muốn vậy. Ngài đứng đó, bối rối. "Ta có nên nói vài lời, thay vào đó?"
"Mục sư đừng ngại," Ferdinand nói. "Cậu ấy đã có nguyên một quyển KInh Thánh bên dưới."
Đất mới đào có mùi rõ rệt. Trong một những hòn đất, có con ấu trùng bọ da màu trắng đang ngọ ngoạy. Khi đất được lấp, nó vẫn sẽ tiếp tục sống dưới đấy, nở ra, và sang năm sẽ trồi lên và thấy lại ánh sáng. Nhưng Gottfried Lenz đã chết. Anh bị hủy diệt. Đứng bên mồ của anh, chúng tôi biết rằng thân thể của anh, tóc của anh, mắt của anh vẫn còn đó, tuy đã biến đổi, những vẫn còn đó và mặc dù tất cả những điều ấy, anh đã mất và sẽ không bao giờ trở lại. Vượt ngoài tầm hiểu biết. Da của chúng tôi ấm, ý nghĩ của chúng tôi rộn rịp, tim của chúng tôi bơm máu trong huyết quản; chúng tôi đã như thế trước đây, chúng tôi cũng vậy hôm qua; chúng tôi không bất thần muốn một cánh tay, chúng tôi đã không mù hay ngu xuẩn, mọi thứ đều như lệ thường, chẳng bao lâu chúng tôi sẽ ra về -- và Gottfried Lenz sẽ ở lại và sẽ không bao giờ đến. Thật ngoài tầm hiểu biết.
Những hòn đất rơi lộp bộp trên nắp quan tài. Người phu đào huyệt đã đưa chúng tôi mấy cây thuổng, và bây giờ chúng tôi chôn anh, -- Valentin, Koster, Alfons, và tôi, -- như chúng tôi đã chôn biết bao chiến hữu trước đây. Ù ù, một bài hát nhà binh xưa, vang trong đầu tôi, một bài hát nhà binh buồn thê thiết mà anh thường ngân nga -- "Argonnewald, Argonnewald, một nghĩa trang yên tĩnh là ngươi đây..."
Alfons mang theo một thập tự bằng gỗ đen, đơn giản, như hàng trăm ngàn thập tự khác ở những dãy dài vô tận các nấm mồ bên Pháp. Chúng tôi cắm nó xuống đầu mộ và mắc cái mũ sắt cũ của Gottfried lên.
"Về thôi," cuối cùng Valentin nói, giọng khản đặc.
"Vâng," Koster nói. Nhưng anh vẫn ở lại. Tất cả chúng tôi đều ở lại.
Valentin nhìn suốt chúng tôi. "Và để làm gì?" anh chậm chạp nói."Để làm gì? Mẹ kiếp."
Không ai trả lời.
Valentin phác một cử chỉ mỏi mệt. "Ta về thôi."
Chúng tôi ra về, theo con đường trải sỏi. Ở cổng Fred, Georg và những người kia còn đứng chờ. "Cậu ấy có lẽ đã cười một trận thỏa thích," Stefan Grigoleit nói, và nước mắt ràn rụa trên gương mặt giận dữ, bất lực của ông.
Tôi nhìn quanh. Không có ai theo dõi chúng tôi.

Báo cáo nội dung xấu