Gia đình Penderwick ở phố Gardam - Chương 07 - Huấn luyện viên trượt băng và chú mèo vàng
CHƯƠNG BẢY
Huấn luyện viên trượt băng và chú mèo vàng
Kết thúc buổi
học ngày hôm sau, Rosalind rủ Anna về nhà với mình. “Để cho vài lời khuyên”, em
giải thích, và Anna vui vẻ nhận lời. Lúc nào em cũng nhảy cẫng lên sung sướng
khi có cơ hội cho ai đó lời khuyên, vì em vốn là con út - hai ông anh trai của
em đều học đại học xa nhà - và em chẳng có ai để mà khuyên bảo, thậm chí là một
con vật nuôi.
Hai đứa đón
Batty ở nhà trẻ Goldie rồi đi bộ về nhà. Khi Skye và Jane cũng về thì tất cả tụ
tập trong bếp để ăn vặt và giải thích về Kế-Hoạch-Cứu-Bố cho Anna nghe.
“Vậy là các cậu
đang cần tìm một người mà bác Pen sẽ không thích”, Anna nói khi mấy chị em kể
xong. “Ý tưởng thú vị đấy. Lẽ ra tớ phải thử làm thế với bố tớ từ bao nhiêu năm
trước rồi”.
“Chị không nghĩ
đấy là một kế hoạch quái quỷ à?”, Skye hỏi.
“Chị thích dùng
từ ‘quỷ quyệt’ hơn. Khi nào em lớn hơn, Batty ạ, chị sẽ giải thích cho em biết
quỷ quyệt nghĩa là gì”.
“Em đã biết
rồi”, Batty rất yêu quý Anna. “Đấy là một loại hạt”.
“Một loại hạt!”,
Skye khinh bỉ nói.
“Đừng bận tâm”,
Rosalind can thiệp. “Anna này, bọn tớ đã lên kế hoạch ấy, nhưng không nghĩ ra
được người nào cả. Cậu có biết người phụ nữ đáng ghét nào vẫn chưa có chồng
không?”.
“Nhưng đừng có
đáng ghét quá”, Jane nói. “Khổ thân bố”.
“Tớ sẽ cố. Để tớ
nghĩ xem nào”.
Trong lúc Anna
ngẫm nghĩ - và ăn bánh quy mặn - thì Batty nghịch nghịch mái tóc dài màu mật
ong của em, xoắn nó thành đủ hình thù kì dị. Batty rất thích mái tóc của Anna,
cũng như bé yêu cái mũi nhọn và nụ cười tinh quái của Anna. Trong ý nghĩ của
Batty thì Anna quả là xinh đẹp, nhưng tất nhiên là không xinh bằng chị Rosalind
của bé rồi.
“Tớ nghĩ ra
rồi”, đột nhiên Anna reo lên. “Valaria, cô ấy làm việc với mẹ tớ. Nhà cô ấy đầy
pha lê để thiền định và lúc nào cô ấy cũng nói về chuyện trong kiếp trước người
ta là ai. Cô ấy đã li dị chồng vì nghĩ rằng năm kiếp trước chú ấy là một thổ
dân ăn thịt người”.
“Không”, Skye
nói. “Không, không, không và không”.
“Skye nói đúng
đấy, Anna ạ”, Rosalind nói. “Bọn tớ muốn bố có một cuộc hẹn tồi, nhưng không
muốn làm cho bố phải khốn khổ”.
Jane cũng đồng ý
về chuyện không khốn khổ. Nhưng em vẫn hết sức thích thú với chuyện đầu thai.
Thỉnh thoảng em vẫn thường tự hỏi không biết trong kiếp trước mình có phải một
nhà văn nổi tiếng hay không - Shakespeare hay Beatrix Potter chẳng hạn. “Chị
Anna này, kiếp trước cô ấy là ai? Ý em là cô Valaria ấy mà”.
“Anna Boleyn
(1), bà Curie (2)”, Anna đáp, đếm trên đầu ngón tay. “Mary Magdelene (3), Mary
Nữ hoàng Scotland
(4), Mary Lincoln (5) - còn một đống Mary nữa…”
(1. Anna Boleyn
(1507 - 1536), vợ thứ hai của vua Henry VIII, mẹ Nữ hoàng Elizabeth I, bị Henry
VIII xử tử.
2. Marie Curie
(1867 - 1934), nhà hóa học và vật lí người Pháp gốc Ba Lan, đoạt giải Nobel Vật
lí năm 1903 và Nobel Hóa học năm 1911.
3. Một nữ thánh,
tông đồ của Chúa Jesus.
4. Mary Stuart
(1542 - 1587), nữ hoàng Scotland
từ 1542 đến 1567, bị Elizabeth I xử tử vì tội phản nghịch.
5. Mary Lincoln
(1818 - 1882), đệ nhất phu nhân Mĩ, vợ tổng thống Abraham Lincoln.)
Skye lấy tay bịt
tai. “Thôi đủ rồi!”.
Anna bỏ một
chiếc bánh quy mặn nữa vào miệng và lại suy nghĩ.
“Thế huấn luyện
viên trượt băng của tớ thì sao?”. Một lát sau em hỏi. “Tên cô ấy là Laurie
Jones, nhưng cô ấy tự nhận mình là Lara Jonisovich để các ông bố bà mẹ tưởng cô
ấy là người châu Âu và trả thêm tiền học phí”.
“Bố ghét những
người không trung thực”, Skye nói, mặc dù bịa một cái họ mới cho mình thì chắc
chắn vẫn còn hơn những viên pha lê và chuyện đầu thai.
“Cô ấy có xinh
không?”, Rosalind hỏi.
Anna nhún vai.
“Nếu cậu thích cái vẻ chết đói một nửa ấy. À với lại cô ấy không đọc sách bao
giờ. Cô ấy nghĩ rằng đọc sách sẽ khiến năng lực trí tuệ của ta sao nhãng khỏi
chuyện trượt băng”.
“Không bao giờ
đọc sách!”. Jane không thể tưởng tượng nổi cuộc sống mà không đọc sách thì sẽ
như thế nào.
“Cô ấy có thích
chó không?”, Batty hỏi.
“Chó thì chị
không biết”, Anna đáp. “Nhưng cô ấy mặc áo khoác lông thỏ”.
Batty tái nhợt
đi và lảo đảo vì choáng váng đến nỗi Rosalind và Anna phải lộn ngược bé lại cho
máu lưu thông.
“Được rồi, thế
là chắc chắn bọn mình không ưa cái cô Lara này, và bố cũng vậy”, Rosalind nói
khi Batty đã khá hơn một chút. “Bọn mình làm thế nào đây? Ý tớ là, mình sẽ làm
cách nào để hai người hò hẹn với nhau?”.
“Tớ sẽ nghĩ ra
cách gì đó”. Mặt Anna sáng lên với âm mưu li kì này. “Sau bữa tối hôm nay tớ có
buổi tập trượt băng. Các cậu có thể bảo bác Pen đến đón tớ ở sân băng sau đó
được không?”.
“Chắc là được
thôi. Sau buổi tập cậu gọi điện cho tớ nhé, và tớ sẽ bảo bố là mẹ cậu phải làm
thêm giờ”.
Có tiếng mở cửa
trước.
“Tất cả mọi
người ra vẻ bình thường đi!”, Rosalind thì thào giục giã.
Đến khi ông
Penderwick bước vào bếp thì cả bọn đều đang nhai bánh quy mặn và cố nhớ lại xem
bình thường chũng vẫn có vẻ như thế nào, mà điều đó có nghĩa là tất cả trông
đều hơi kì lạ một chút.
“Cháo các cô gái
của bố”, ông nói, nhấc bổng Batty lên để ôm hôn. “Chào cháu, Anna”.
“Cháu chào bác,
bác Pen. Hôm nay đẹp trời quá phải không ạ?”.
Ông Penderwick
đưa mắt ra ngoài cửa sổ nhìn những đám mây ảm đạm đang bao phủ khắp bầu trời
thành phố Cameron. “Cháu đang âm mưu chuyện gì thế, Anna?”.
“Không có gì cả
ạ, ý cháu là, nihil”. Anna cũng học
cùng lớp Latin với Rosalind.
“Rosalind!”.
“Gì ạ bố”.
“Bảo với Anna là
nó không đánh lừa được bố đâu”.
“Vâng ạ”.
Anna nhón nắm
bánh quy mặn cuối cùng rồi đứng dậy. “Cháu phải về nhà làm bài tập trước khi đi
học trượt băng đây. Chào cả nhà nhé”.
Em ra về trong
cái lắc đầu của ông Penderwick. “Nếu không phải là một cô tiên thì sẽ là một
tên tội phạm xảo quyệt. Các con gái của bố thế nào? Mọi chuyện ở trường thế
nào? Mọi chuyện ở nhà trẻ của cô Goldie thế nào? Kể cho bố nghe trong khi bố
nấu bữa tối nhé”.
Sau bữa tối, Rosalind
bảo các em là em sẽ dọn dẹp trong bếp hộ chúng. Em muốn chúng ra khỏi bếp trước
khi Anna gọi điện, vì phải thực hiện một cuộc trò chuyện giả tạo trong khi
chẳng có ai quan sát đã đru khó khăn lắm rồi. Batty vui sướng đi vào phòng
khách với Cún để chơi trò Ông Vua Núi trên chiếc xe đẩy màu đỏ. Skye và Jane
thì không được sung sướng như thế khi đi lên phòng mình, vì mặc dù thoát chuyện
dọn dẹp tuyệt vời thật đấy, nhưng như thế chỉ có nghĩa là chúng sẽ phải bắt đầu
làm bài tập sớm hơn thôi.
Cả hai ngồi vào
bàn học. Skye viết một lèo xong bản báo cáo về cuốn truyện Thuyền Chim Nhạn và thuyền Amazon, xếp nó gọn ghẽ vào trong vở, rồi
lôi ra một tờ giấy mới và viết Đám dân
Aztec ngu ngốc trên đầu. Đến cuối tuần này là em phải nộp vở kịch của mình
rồi, và dù muốn hay không thì em cũng phải viết thôi.
Có tiếng điện
thoại reo vang dưới nhà.
“Chị Anna đấy”, Skye
nói. Bỗng nhiên em chỉ muốn chạy xuống dưới nhà và kể với bố tất cả mọi chuyện,
trước khi mọi sự đã rồi.
Jane cũng có vẻ
lo sợ như Skye vậy. “Bọn mình sắp rơi vào một tấm lưới gồm những lời dối trá và
lừa lọc, và sẽ vĩnh viễn đánh mất danh dự cùng sự chính trực của mình”.
“Chị biết”.
Một phút sau Rosalind
thò đầu qua cánh cửa. “Bố và chị sẽ đến sân băng, Batty với Cún sẽ đi cùng.
Chúc bọn chị may mắn đi”.
“May mắn nhé”,
Jane nói khi Rosalind rút lui.
Vừa nghiền ngẫm
về ý nghĩa của từ may mắn, Skye vừa ngả chiếc ghế của mình nghiêng về phía sau
cho đến khi nó chỉ còn đứng trên một chân. Trong toán học, em thầm nghĩ, không có
may mắn gì hết, chỉ có cơ hội ngẫu nhiên thôi. Nếu may mắn thật sự tồn tại, thì
các ông bố sẽ không bao giờ phải hò hẹn, Melissa Patenaude sẽ không bao giờ được
sinh ra trên đời hay ít nhất thì cũng sống ở một bang khác, và em sẽ có thể
nhấc cả hai chân lên khỏi mặt đất mà vẫn giữ thăng bằng được nhờ một cái chân
ghế. Em nhấc một chân lên, rồi cả hai. Rầm!
“Nếu chị cứ làm
thế thì chị sẽ vỡ đầu và sẽ chỉ có mình em ở đây để nghe lời trăng trối của chị
thôi đấy”, Jane nói.
“Chị chẳng có gì
để trăng trối cả”. Skye ngồi dậy và nâng cái ghế lên. “Ngoại trừ việc chị ước
là chị chưa bao giờ nghĩ ra cái ý tưởng tìm những người đáng ghét cho bố hẹn
hò, và dân tộc Aztec thì làm chị chán điên lên được, việc viết một vở kịch về
họ làm chị ngấy đến tận cổ rồi”.
“Chị phải viết
một vở kịch về người Aztec à? Chị thật may mắn”.
Đấy, lại may mắn
rồi, Skye nghĩ. Nếu em may mắn thì sẽ thật sự mong muốn điều gì nhỉ? Đến Boston thăm Jeffrey. Có
ai đó viết vở kịch về người Aztec cho em. Em quay sang nhìn Jane đang cúi xuống
bàn, viết lia lịa trên một tờ giấy. Có lẽ cuối cùng thì nó cũng đã nghĩ ra được
đề tài cho bài luận khoa học của mình. Skye cầm cặp ống nhòm lên và phát hiện
ra rằng nếu đứng lên ghế và chĩa ống nhòm về phía bàn học của Jane thì em có
thể đọc được những chữ nguệch ngoạc.
Mình ghét bài luận khoa học. Mình ghét bài
luận khoa học. Mình ghét bài luận khoa học. Mình ghét…
“Jane”, em gọi,
trèo từ trên ghế xuống. “Có nhớ năm ngoái khi chị làm cái mô hình cối xay gió
hộ em và em viết thơ cho chị không?”.
“Và chị đã thề
là chị sẽ không bao giờ đổi bài tập về nhà với em nữa”.
“Có lí do chính
đáng mà. Cô giáo của chị không thể tin nổi chị đã viết Tra-la các bông uất kim hương xòe nở vui tươi biết bao. Ha-ha những chú
ong nghệ bay vo ve sung sướng biết bao. Em đang sống và em nhảy múa, em đang
sống dù cái chết luôn cận kề. Khi rốt cuộc chị cũng thuyết phục được cô ấy
tin là chị đã viết thế thật, thì cô ấy lại hỏi xem chị có cần phải nói chuyện
với bác sĩ tư vấn tâm lí của trường không”.
“Hừm”. Jane không
thể chịu nổi bất kì điều gì nghe giống như một lời chê bai đối với các sáng tác
của em.
“Dù sao thì có
lẽ chị cũng không nên thề là sẽ không bao giờ đổi bài tập với em nữa”.
Jane không trả
lời, và Skye lại tiếp tục thử giữ thăng bằng trên một chân ghế với cả hai chân
nhấc lên khỏi mặt đất. Em nghĩ nếu em có vỡ đầu thật thì ít ra em cũng sẽ không
phải viết vở kịch đó nữa.
“Em thật sự rất
thích viết về người Aztec”, một lúc sau Jane nói.
Skye để cái ghế
rơi xuống đánh rầm một cái. “Còn chị thì thật sự rất thích viết một bài luận
khoa học về… đề bài là về cái gì thế?”.
“Khoa học đã
thay đổi cuộc sống của chúng ta như thế nào”.
“Chị có thể viết
bài luận ấy. Chị có thể viết cả chục bài luận như thế mà chả tốn một giọt mồ
hôi nào. Nhưng em có viết được một vờ kịch mà không có tra-la hay ha-ha không?”.
“Tất nhiên rồi”.
“Thế thì xin mời”.
Skye vác chồng sách về Aztec của em đặt lên bàn Jane. “Mà này, không Sabrina
Starr nhé”.
“Tất nhiên là không
rồi”. Jane mở cuốn sách đầu tiên ra, mắt sáng rực.
Nửa tiếng sau, Skye
buông cây bút xuống vẻ đắc thắng. Bài luận của em - Kháng sinh, thứ vũ khí tối thượng - là một bài luận tuyệt vời, được
viết rất chuẩn, với vừa đủ lượng kiến thức khoa học. Em hết sức nóng lòng được khoe
nó, nhưng Jane vẫn đang viết lia lịa, sung sướng chìm đắm trong vùng đất Aztec.
Skye để mặc cô em gái. Em chộp lấy cặp ống nhòm và trèo ra cửa sổ để lên mái
nhà.
Các ô cửa sổ
trên phố Gardam đều đang sáng đèn. Phải hết sức quyết tâm thì mới có thể không chĩa
ống nhòm về phía một trong những ô cửa sổ này, và quả thật Skye đã hướng ống
nhòm - dù chỉ trong một giây thôi - về phía nhà Geiger, nhưng đúng lúc đó Nick
lại tình cờ đứng ở cửa sổ nhìn ra, và em biết nếu bắt quả tang em đang nhìn
trộm thì anh ấy sẽ cho em một trận nên thân, vì vậy em thôi không nhòm ngó nữa.
Thay vào đó em nhìn lên bầu trời quang đãng, vì giờ đây những đám mây lúc chiều
đã tan hết, và tìm kiếm những hình hình học do các ngôi sao tạo nên. Đặc biệt
em muốn tìm hình thoi, hiện nay nó đang là hình em thích nhất. Một hình vuông
lệch. Còn gì thú vị hơn thế chứ?
Rồi có một tiếng
thịch, và Skye không còn ở trên mái nhà một mình nữa. Em hạ ống nhòm xuống và
trông thấy một chú mèo vàng rất to đang đứng cách đó vài thước. Chắc hẳn nó đã
trèo lên cây, giống như Tommy vậy.
“Đi đi”, Skye nói,
phát chán lên với những kẻ xâm phạm sự riêng tư của mình.
Con mèo chậm rãi
quay đầu về phía em. Nó có đôi mắt to màu vàng, và trông hầu như có vẻ thông
minh, nếu bạn tin rằng mèo cũng có trí thông minh. Skye thì không. Em không cần
mèo, cũng như không cần các em bé vậy.
“Mày không ở lại
đây được đâu”, Skye nói. “Đi đi không thì tao sẽ đuổi đấy”.
Chú mèo, vẫn không
rời mắt khỏi em, bình thản ngồi xuống và bắt đầu liếm bàn chân trái của mình.
Thế thì đuổi tôi đi, nó đang bảo em như vậy. Skye không thể bỏ qua một sự thách
thức quá rõ ràng như vậy, nhất là lại từ một con mèo nữa. Em thận trọng trượt
dọc theo mái nhà - gần hơn - gần hơn - nhưng đúng lúc em định túm lấy tên xâm
lăng này thì nó nhẹ nhàng nhảy vào lòng em.
“Đồ ngu ngốc”,
em nói, nhưng em vòng tay ôm nó và ngạc nhiên khi thấy nó tỏ ra dễ chịu đến mức
nào.
Giừo em nhận ra
nó đang đeo một cái vòng cổ có đề chữ Tôi
là Asimov Aaronson. Thì ra đúng là cô Iantha có nuôi một con mèo thật. Batty
đã nói vậy, nhưng bé vẫn rất hay bịa chuyện. Hừ, Skye tự nhủ, cho dù có là con
mèo của một nhà vật lí thiên thể thì Asimov vẫn cứ phải xuống khỏi mái nhà của
em. Nhưng em chưa kịp quyết định xem phải cần đến bao nhiêu sức lực để di
chuyển một còn mèo to thế này thì nó đã khoanh tròn lại trong lòng em như thể
nó muốn ở lại đó một lúc lâu. Và khi nó bắt đầu gừ gừ trong họng thì Skye liền
quay lại tìm kiếm hình thoi trên trời bằng cặp ống nhòm, thời gian trôi qua một
cách dễ chịu cho đến khi ánh sao bị che mờ bởi ánh đèn ôtô của bố em đang quay
về nhà.
“Giờ thì mày
phải đi thật thôi, Asimov ạ”, Skye nói.
Asimov, có vẻ
như quyết tâm gây ấn tượng với Skye bằng trí khôn của mình, ngoan ngoãn trèo
xuống khỏi lòng em, nhẹ nhàng nhảy từ mái nhà sang cái cây, rồi biến mất trong
màn đêm.
“Và đừng có quay
lại đấy!”, Skye gọi với theo, vì em cũng quyết tâm không kém là sẽ không để
mình bị gây ấn tượng. Rồi thì em lại chui qua cửa sổ quay về phòng, nơi Jane
vẫn đang miệt mài viết giữa một đống giấy bị vò nát.
“Jane, mọi người
từ sân băng về rồi đấy”, Skye bảo.
“Em đã viết được
mấy trang đầu của vở kịch rồi. Đầu đề là Hai
chị em và sự hi sinh, và nó mở đầu như sau: Thuở xa xưa ở vùng đất Aztec, người dân đang hết sức lo sợ. Đã nhiều
tháng rồi trời không mưa, và nếu không có mưa, ngô sẽ không mọc được, và nếu không
có ngô, người dân sẽ chết đói”.
“Nghe hay đấy.
Bây giờ bọn mình nên xuống nhà thôi”.
“Hay ấy à? Chị
chỉ nói được có thế thôi à? Hay? Đó là một khởi đầu hoàn hảo cho những kịch
tính sắp tới! Hai chị em cùng yêu một chàng trai, và rồi một người bị chọn làm
vật tế thần và người kia thì…”.
“Jane, chị không
quan tâm đến chuyện kịch cọt gì cả! Bố đã từ sân băng về rồi!”.
Lần này thì Jane
mới nghe ra. Em buộc mình phải rời khỏi vùng đất Aztec và cùng Skye chạy ra
khỏi phòng. Hai đứa xuống đến chân cầu thang vừa đúng lúc mấy bố con bước vào
qua cửa trước. Tất cả đều có vẻ cáu kỉnh, đặc biệt là Batty. Sau này Skye và
Jane được biết cô huấn luyện viên trượt băng nọ không chỉ mặc áo khoác lông thỏ
mà còn có cả lông thỏ viền quanh mép ủng nữa.
“Chào mọi người”,
Skye nói, không biết làm cách nào để biết được đã xảy ra chuyện gì. “Có gì vui không
ạ?”.
“Vui ấy à? Không”.
Ông Penderwick cởi áo khoác ra ném lên ghế - đúng hành động ông luôn cấm các cô
con gái làm. “Có vẻ như bố đã kiếm được một cuộc hẹn nữa rồi”.
“Vậy là bố thích
cô ấy hả bố?”, Jane hỏi.
Ông nhìn em vẻ
nghi ngờ. “Thích ai?”.
“Cái người mà -
dĩ nhiên là cái cô mà bố đã hẹn gặp
ấy ạ”, Skye nói, giẫm mạnh lên chân Jane. “Mà đó là ai thế ạ?”.
“Huấn luyện viên
trượt băng của Anna”, Rosalind đáp. “Tên là Lara”.
“Trời ơi!”, Skye
cố tỏ ra kinh ngạc. “Ai mà lại nghĩ đến cô ấy cơ chứ?”.
Ông Penderwick
nhặt chiếc áo khoác từ ghế lên, rồi lại ném xuống. “Phải, ai mà lại nghĩ đến cô
huấn luyện viên trượt băng cơ chứ? Chắc chắn không phải bố rồi. Bố và cô ấy
đang chuyện gẫu trong khi bố đợi cái cô bé Anna mà có trời mới biết là đang ở
đâu, thì cái cô Lara ấy nói rằng cô ấy thích nhạc cổ điển đến mức nào, và bố tỏ
ý tán thành. Rồi cô ấy bảo bố là cô ấy có vé đi xem buổi hòa nhạc của Bach vào
thứ Năm này, bố bèn lịch sự đáp lại là cô ấy thật may mắn khi có chúng, và rồi
cô ấy mời bố đi cùng, và bố, kẻ khốn khổ khốn nạn này, không nghĩ ra được cách
gì để từ chối cả”.
“Nhưng bố thích
nhạc cổ điển thật mà”, Rosalind nói.
“Ừ, nhưng quả
thực bố không hiểu sao người phụ nữ này lại biết nhiều về bố đến mức mời bố đi
cùng được. Chắc chắn Anna không nói gì hết - thôi, thôi, thôi, không quan
trọng. Bố đã biến thành một ông bố già hay nghi ngờ mất rồi”.
“Không, bố ơi,
bố không như thế đâu”, Skye nói.
“Không già hay
là không hay nghi ngờ?”, ông cố gắng mỉm cười.
Nếu cảm giác tội
lỗi có màu - ví dụ màu tím chẳng hạn - thì mấy cô bé nhà Penderwick hẳn đã tím
tái mặt mày đến nỗi màu tím sẽ nhỏ cả từ trên người chúng xuống, lan ra khắp
nhà và biến tất cả mọi thứ từ nhà trên đến nhà dưới thành màu tím hết. Thật là
khoảnh khắc kinh khủng, và một lúc sau, khi cả bọn tụ tập trong phòng Rosalind,
chúng đồng ý rằng chưa bao giờ chúng thấy yêu bố đến thế.
“Vậy mà bọn mình
lại giày vò bố”, Skye nói.
“Bọn mình có nên
dừng lại không?”, Jane hỏi, với em từ “giày vò” nghe cũng đáng sợ gần bằng “tra
tấn”.
“Bọn mình phải
can đảm tiếp tục Kế-Hoạch-Cứu-Bố chứ”, Rosalind kiên quyết. “Đây là vì lợi ích
của bố kia mà. Thực sự là như thế”.
“Em có can đảm
mà, chị Rosalind”, Batty nói. “Nhưng mà em ghét cái cô mặc áo và đi ủng bằng
lông thỏ ấy lắm”.
Batty òa khóc,
vì bé rất yêu quý loài thỏ, và rồi mấy cô chị của bé cũng muốn khóc, vì chúng
cảm thấy mình thật là những đứa con gái đốn mạt, dối trá, sau nữa tất cả lê
bước về phòng, để cô đơn đối mặt với nỗi đau khổ của mình.