Phần III. Trung Đông - Chương 63-64
63. Nắng thiêu ở Siwa
Tôi đọc trên CouchSurfing có một anh chàng lái
xe từ Alexandria đi Siwa, tìm người đi cùng để chia tiền xăng. Tôi tìm kiếm
nhanh trên Google thì biết Siwa là một ốc đảo xinh đẹp nằm sâu trong sa mạc
Sahara, tít gần biên giới Libya. Nghe thấy ốc đảo là tôi sướng mê. Tôi gửi tin
nhắn cho Ahmad xin đi cùng gấp.
“Sahara trong tiếng Ả Rập nghĩa là sa mạc”.
Ahmad giải thích cho tôi khi đang ngồi sau tay lái. Chuyến đi này chỉ có anh và
tôi. Ahmad gầy, nhỏ và hơi đen. Anh rất thích thú khi thấy rằng mới sau một
tuần ở Ai Cập, tôi đã có thể bắt đầu giao tiếp đơn giản bằng tiếng Ả rập.
“Ahmad tên của anh nghĩa là “ca tụng”, ám chỉ
người luôn luôn ca tụng Đức Allah. Tên họ anh là “Gamal”, nghĩa là lạc đà. Sa
mạc, lạc đà và Allah là ba điều quan trọng nhất đối với người Ai Cập”.
Đường cao tốc giữa sa mạc rộng, thẳng, đẹp.
Chúng tôi một mình một đường cứ tốc độ 140km/h mà đi, có khi kéo ga lên đến
180. Từ Alexandria đến Siwa khoảng 600 kilomet, chúng tôi đi chưa đầy bốn tiếng
đã đến. Ở Nepal để đi cùng khoảng cách này phải mất hai ngày. Hiếm hoi lắm tôi
mới gặp một xe khách hay xe tải khác. Ahmad bảo như thế là nhiều rồi đấy, có
khi anh lái xe cả ngày mà không gặp bất kỳ xe nào. Tôi tưởng tượng cảnh chết
máy giữa đường mà rùng mình. Khắp bốn phía là sa mạc. Một màu nâu nóng bỏng
chạy xa tít tắp đến tận chân trời. Thị trấn gần nhất có khi cách đến hàng trăm
cây số. Ấy vậy mà nơi đây vẫn có người qua lại. Thỉnh thoảng lại có những bóng
trắng xuất hiện ở chân trời, thoắt ẩn thoắt hiện làm tôi không biết đây là thật
hay chỉ là ảo giác sa mạc.
“Bedouin đấy”.
“Họ là người xấu á?”. (Tôi nghe nhầm thành Bad
one).
“Ha ha, không. Bedouin, Ba-da-wi”. Anh kéo dài
giọng. “Đây là một bộ tộc du mục sống trên sa mạc. Họ luôn mặc áo chùng trắng,
đầu quấn khăn, sống bằng việc nuôi lạc đà”.
“Sa mạc không có nước, không có cây thì họ
sống bằng cách nào?”.
“Họ có cách sống riêng của mình. Sống ở sa mạc
bao nhiêu đời nay thì phải thích nghi thôi”.
Cái bất tận của tạo hóa khiến đứa cả đời chưa
nhìn thấy sa mạc bao giờ như tôi chết lặng đi ngắm nhìn, trong khi nó khiến cho
Ahmad xém chút nữa ngủ gật vì sự đơn điệu chỉ cát với cát suốt chặng đường.
“Lái xe trong sa mạc một mình nguy hiểm lắm.
Không có người nói chuyện thì rất dễ ngủ gật”. Anh bảo.
Sự đơn điệu dần dần thay đổi khi chúng tôi
tiến đến gần ốc đảo. Đầu tiên là sự xuất hiện của những tảng đá khổng lồ hình
thù kỳ dị, trông giống như những gì còn sót lại của những kiến trúc hàng ngàn
năm về trước.
“Sắp đi qua trạm kiểm soát rồi, em giấu cái
này dùm anh nhé”.
“Cái gì vậy anh?”. Tôi chột dạ.
“Cần sa. Chỉ một cục nhỏ để hút thôi. Em giấu
vào người ấy”.
“Anh giấu không được sao?”.
“Không. Con gái giấu sẽ an toàn hơn. Ở Ai Cập
công an khôngbao giờ kiểm tra con gái”.
“Hừm”. Tôi cân nhắc rủi ro và độ tin tưởng của
mình dành cho Ahmad. “Anh có thể giấu một nơi nào đó khác mà không ai kiểm tra
không? Như gắn băng dính và gầm xe, bỏ trong túi bánh quy chẳng hạn?”.
Màu xanh rì của cây cối dần hiện ra phía sau
trạm kiểm soát, xung quanh một cái hồ lớn. Đây là hồ đẹp nhất mà tôi từng được
thấy! Mặt hồ mênh mông phẳng lặng, phản chiếu màu xanh ngắt của bầu trời, màu
trắng tinh của mây, màu nâu đậm của đá và cát. Giữa hồ là một tảng đá khổng lồ
mà theo như Ahmad, nơi đây từng được dùng là nơi chôn cất. “Hồ nước mặn đấy”,
Ahmad bảo. Có lẽ vì thế mà nước trong hồ nhìn cứ là lạ. Xe chạy chầm chậm ven
hồ, sát đến nổi tôi có cảm giác như mình đang trôi bồng bềnh trên mặt nước vậy.
Vẻ đẹp cứ như là ảo ảnh của hồ Siwa khiến hồ trở thành vị trí tuyệt đẹp để ngắm
hoàng hôn. Chiều chiều, cùng với mấy anh chàng người địa phương trong bộ áo
chùng trắng, đầu quấn khăn vải, chúng tôi trải chiếu dưới túp lều lá cọ ngay
sát mặt hồ ngồi ngắm mặt trời lặn. Chỉ cần một ấm chè, một ít lạc rang, một cái
“argeel” là họ có thể nhâm nhi cả buổi chiều. Argeel là dụng cụ hút thuốc của
người dân địa phương, mà tôi gọi nôm na là cái điếu cày Trung Đông bởi cơ chế
hoạt động của nó không khác gì điếu cày ở mình. Cái argeel mà chúng tôi dùng là
dạng thiết kế đơn giản nhất của cái mà thế giới biết đến dưới cái tên hookah để
hút shisha. Nó chỉ bao gồm một lọ thủy tinh nhỏ chứa nước, một ống với một đầu
để đốt thuốc lá, đầu kia dẫn khói thẳng xuống nước và một ống để hút. Trà ở đây
đắng. Đun trà xong, người ta chạy ra vườn, bứt vài ngọn lá húng lìu bỏ vào trà
cho thêm vị đậm đà. Gió sa mạc lồng lộng. Mặt trời lững thững khuất dần sau
phía sau tảng đá khổng lồ. Cái nắng gay nắng gắt bỗng dưng tan biến, gió cũng
nhẹ dần, trời bỗng trở nên mát lạnh. Cuộc sống ở đây thư thả đến lạ. Những ngày
ở Siwa, tôi tuyệt nhiên không được tiếp xúc với bạn gái nào. Cairo là thành phố
lớn, những quy tắc Hồi giáo dành cho phụ nữ được nới lỏng hơn nhiều. Nhưng ở
Siwa, phụ nữ vẫn phải trùm khăn kín mặt và không được phép ra ngoài một mình mà
không có bố, anh hay chồng đi kèm.
Siwa nổi tiếng thời cổ đại với đền thờ tiên
tri của Amun. Trước khi xâm chiếm Phổ, Alexander Đại Đế đi theo hướng chim bay
qua sa mạc và đến được nơi này. Lời tiên tri dự đoán rằng Alexander Đại Đế là
người trời và là Pharaoh chính đáng của Ai Cập. Mặc dù ngày nay chỉ còn là đống
đổ nát, đề thờ Amun vẫn là điểm hút khách du lịch. Một điểm hấp dẫn khác của
Siwa là suối nước nóng. Ốc đảo nhỏ bé này có tới ba trăm suối nước ngọt, rất
nhiều trong số đó là suối nước nóng. Đặc trưng khác của Siwa là những ngôi nhà
xây bằng gạch bùn và đá. Những ngôi nhà nhỏ nhỏ xinh xinh xen lẫn giữa những
tảng đá nâu bạc màu khiến người đến thăm có cảm giác như bị lạc vào một thị
trấn thờ Pharaoh vậy. Sống với thời tiết khắc nghiệt, người dân ở đây học được
cách sử dụng kiến trúc tự nhiên để điều hòa. Ngay cả trong giờ chết (thời gian
từ khoảng mười giờ sáng đến ba giờ chiều, nóng đến mức không ai muốn ra ngoài),
trong nhà vẫn mát lạnh mặc dù không sử dụng máy móc gì. Chúng tôi đến thăm khu
nghỉ mát Adrère Amellal nằm ngay bên hồ Siwa. Đây có lẽ là khu nghỉ mát cao cấp
duy nhất mà không có…điện. Khách sạn được xây hoàn toàn bằng chất liệu tự
nhiên, tường bằng gạch bùn, nội thất bằng muối tảng, mái lợp lá cọ và được thắp
sáng bằng nến sáp ong. Đây là nơi mà thái tử Charles của Anh đã nghỉ khi Thái
tử đến thăm ốc đảo Siwa xinh đẹp này.
Ốc đảo có khoảng ba khu nghỉ mát hạng sang như
thế, mỗi phòng lên đến hàng trăm đô la một đêm. Thị trấn Siwa nhỏ xíu với
khoảng bốn, năm khách sạn, mỗi phòng khoảng 20USD. Chúng tôi quyết định nghỉ
tại một trại trong sa mạc cách thị trấn khoảng bảy kilomet. Trại chỉ có hai túp
lều để ngủ, một chỗ đốt lửa ngoài trời mà tối tối khách ngồi quây quần. Cuộc
sống ở sa mạc quả thực không dễ dàng. Ban ngày chúng tôi phải đánh nhau với
ruồi để chiếm bóng râm, tối tối phải gồng mình lên chịu cái lạnh đêm sa mạc.
Chăn chiếu lúc nào cũng phủ đầy cát. Suốt ba ngày ở đấy chúng tôi không có nước
để tắm rửa giặt giũ, nói gì đến đèn điện thắp sáng. Niềm an ủi duy nhất là suối
nước nóng cách trại chỉ vài bước chân. Phần lớn khách đến Siwa là để trượt cát.
Xe thường không đi được vào sa mạc, người muốn đi trượt cát phải thuê xe Jeep.
Một ngày thuê xe lên đến 1.200 LE (khoảng $200). Không đủ tiền thuê, chúng tôi
quyết định đi bộ vào sa mạc. Đi được khoảng hai tiếng, nóng, khát, mệt, lại bị
ám ảnh bởi quãng đường về, chúng tôi đành bỏ cuộc. Hai đứa nằm ườn trên mặt
cát. Chúng tôi chôn chân dưới lớp cát mát lạnh, phủ khăn lên mặt, thiu thiu
ngủ. Cái mênh mông của sa mạc khiến mọi lo toan tan biến hết. Cuộc sống ở sa
mạc kể cũng không đến nỗi nào.
64. Kim Tự Tháp
Amr bảo, lần đầu tiên thấy tôi bước từ trong
xe ra với cây gậy trên tay, cậu đã nghĩ rằng tôi bị mù. Thảo nào cậu lúng túng
thế khi lần đầu tiên gặp. Anh chàng cứ đứng gãi đầu gãi tai, thấy tôi bước đi
thì đưa tay ra đỡ, xong rồi lại bỏ xuống, định xách hộ ba lô cho tôi nhưng rồi
lại thôi. Cây gậy đấy là cây gậy tôi nhặt được ở Siwa phòng chẳng may gặp rắn,
nhưng thấy nó đẹp nên cầm luôn về Cairo.
Amr ở với bà nội trong một căn hộ ở ngay tầng
hai một tòa nhà cổ ở khu phố cũng cổ luôn của thành phố. Căn nhà cậu ở rộng
thênh thang với cách trang trí khiến tôi liên tưởng ngay đến nghìn lẻ một đêm:
những tấm thảm hoa to, những chiếc đèn chùm dát bạc, những chiếc ghế gỗ cong,
những khung ảnh chạm khắc tinh xảo với những khuôn mặt quý phái nhìn từ trên
cao xuống. Tôi nhận ra ngay đây không phải là một gia đình tầm thường. Tôi được
cho ở trong một căn phòng ấm cúng trang bị đầy đủ đồ đạc. Amr mê Rock, căn
phòng của cậu dán kín ảnh Metallica, Iron Maiden, Slayer và đủ các band nhạc
tôi không tài nào nhận ra. Vốn là công tử, cậu được gia đình đầu tư cho hẳn một
căn phòng để cậu chơi nhạc với nào là piano, trống, kèn, ghi ta gỗ, ghi ta
điện. Cậu thua tôi một tuổi, nhưng vẻ ngoài đậm chất Trung Đông khiến cậu nhìn
như chú tôi vậy: mặt vuông góc cạnh, tóc dài đen nhánh buộc lại sau lưng, mắt
sâu, lông mày rậm. Cậu mà muốn dọa ai thì chỉ cần trừng mắt là người ta sợ khiếp
vía. Nhưng cậu là một chàng trai rất dễ thương: hiền lành thì không hẳn nhưng
rất tốt bụng. Bạn bè cậu rất hay sang chơi nên tôi nhanh chóng làm quen với cả
nhóm. Trong nhóm cậu có hai người tên là Mohamed và một người tên là Ahmad.
“Hình như 90% đàn ông Ai Cập tên là Ahmad hay
Mohamed”. Tôi nhận xét.
“Ừ”. Đám bạn Amr phá lên cười.
“Thế mọi người gọi nhau như thế nào để biết ai
là ai?”.
“Biệt danh. Bạn này là Cous-cous. Đúng rồi,
tên của món ăn đấy. Bạn này là Hookah”.
“Thế sao ngay từ đầu không đặt biệt danh luôn
đi còn đặt tên làm gì cho nó thừa?”.
Hầu hết bạn bè của Amr có bố mẹ làm ở nước
ngoài: Mỹ, châu u và nhiều nhất là Ả rập Saudi. Cả nhóm bạn này đều đã có một
thời gian sinh sống và học tập tại đây. Trong thế giới Ả rập, Ả rập Saudi có vị
trí như Singapore với Đông Nam Á vậy. Trong thời gian tôi ở Cairo, nhóm bạn này
đi đâu cũng rủ tôi đi, duy nhất một lần cả nhóm đi hút shisha, Amr không rủ tôi
đi.
“Chip ở nhà với bà nhé. Có giận tớ không?”.
“Có”.
“Chỗ hút shisha này không cho con gái vào. Ai
Cập mà. Ấy ở nhà đi, ngày mai bọn tớ hứa sẽ dẫn ấy đi thăm kim tự tháp”.
Nghe đến kim tự tháp là tôi nín luôn.
Nhưng khác hẳnvới hình dung của tôi về kim tự
tháp với sa mạc hoang vu bí ẩn, kim tự tháp thực ra nằm ngay mép thành phố với
mũi nhọn hoành tráng vươn lên ngay trên mái vòm vàng chói lọi của McDonald. Tôi
băn khoăn hỏi:
“Kim tự tháp thật đấy à?”
“Ừ”. Đám bạn Amr phá lên cười. “Ai đến đây
cũng hỏi câu y hệt”.
Vé vào khu bảo tồn là 60LE (khoảng $10), vé
vào bên trong The Great Pyramid of Giza – kim tự tháp lớn nhất là 100LE, nhưng
sinh viên được giảm giá 50%. Tôi không có thẻ sinh viên nhưng vẫn muốn được
giảm giá.
Đến chỗ quầy soát vé, tôi bắn một tràng mấy
câu tiếng Ả rập nhóm bạn Amr vừa dạy: tôi là sinh viên đang ở Ai Cập học tiếng
Ả rập. Tôi học cùng trường với các bạn của Amr nhưng hôm nay quên thẻ. Mấy
người đi cùng cũng hùa vào nói cho tôi. Tôi không biết bác bán vé tin vào câu
chuyện đấy hay chỉ thấy quý vì tôi nói được mấy câu tiếng Ả rập mà bác đồng ý
cho tôi vào với giá sinh viên.
Ai cũng biết kim tự tháp là một kỳ quan của
thế giới, nhưng phải tự mình ngẩng lên mỏi cổ cũng không thấy đỉnh, phải tự
mình đứng cạnh những khối đá khổng lồ và thấy mình thật bé nhỏ, phải tự mình
đứng tại điểm mà cách đây mấy ngàn năm, tổ tiên của người Ai Cập đã sử dụng
những công cụ thô sơ để xây dựng lên kim tự tháp, mới thấy được sự vĩ đại của
công trình này. Ở lưng chừng mỗi kim tự tháp có một cái lỗ nhỏ mà mỗi năm, ánh
sáng mặt trời sẽ chiếu qua cái lỗ đấy vào thẳng căn phòng Pharaoh nằm. Tôi lúc
đấy lại bị mất máy ảnh nên phải chụp ảnh bằng điện thoại, chụp được bức ảnh với
kim tự tháp với một tia sáng chói lọi từ trên đỉnh xuống tận đáy. Mọi người
trầm trồ bảo là số tôi phải may lắm.
Chúng tôi đi qua lăng mộ của vị kiến trúc sư
xây dựng lên công trình này. Chúng tôi đi qua những dòng chữ tượng hình chim,
thú, người trên tường. Chúng tôi đi qua những tảng đá được đục ở giữa để làm vỏ
đựng xác ướp. Chúng tôi đi qua những lỗ sâu hun hút với đá nằm ngổn ngang hai
bên.
“Hố chôn người xấu đấy”. Một anh chàng dắt lạc
đà ở đó kể. “Ngày xưa, mỗi khi ai đó chết, người ta sẽ có một buổi phán xét xem
người đó đã là người tốt hay người xấu. Nếu người đó là người tốt, họ sẽ được
ướp xác để ngày sau sống lại. Nếu người đó là người xấu, họ sẽ bị móc tim ra,
vứt xác xuống cái hố này để không bao giờ sống lại được”.
Ở khu này có chín kim tự tháp, lớn nhất là kim
tự tháp của Pharaoh Khufu, lớn nhì là kim tự tháp Khafre, kim tự tháp bậc trung
Menkaure. Sáu kim tự tháp nhỏ hơn được biết đến như kim tự tháp nữ hoàng. Đường
lên kim tự tháp Khufu là một bậc thang nhỏ xíu chiều ngang chỉ vừa một người,
chiều cao chỉ khoảng một mét, muốn đi phải cúi rạp người. Bên trong có mấy bóng
đèn le lói chỉ đủ nhìn đường đi chứ không nhìn được những họa tiết trên tường.
Trong đầu tôi văng vẳng lời nguyền kim tự tháp mà tôi đã đọc đâu đó. Lời nguyền
nói rằng những ai dám xâm phạm nơi yên nghỉ của Pharaoh sẽ phải chịu hậu quả
tàn khốc. Tôi sởn da gà khi nghĩ rằng đôi mắt của vị thần nào bảo vệ nào đó
đang dõi theo từng bước chân của mình. Tôi cẩn thận hết sức để không động chạm
vào đâu, không để lại dấu vết gì.
Điểm cuối hành lang là một căn phòng rộng
nhưng trống trơn, trống đến mức đến nơi rồi mọi người phải ngơ ngác hỏi: “Đây
á?”. Amr bảo: “Thì đây cũng chỉ là phòng chứa quan tài thôi mà. Bây giờ quan
tài với vật trang trí bị đưa hết vào trong viện bảo tàng để bảo quản rồi, ai
còn để đây nữa”. Thế là chúng tôi lại lóc cóc đi ra.
“Đây là lần đầu tiên tớ đến kim tự tháp đấy”.
Cous-cous bảo.
“Không muốn đến à?”.
“Núi cao phải đứng xa mới thấy. Ngày nào mình
cũng thấy kim tự tháp nên thấy nó cũng bình thường, chưa bao giờ nghĩ đến
chuyện phải vào đây xem”.
“Bây giờ vào xem rồi thấy sao?”.
“Thấy cũng vậy”.
Ha ha, con người là một loài kỳ lạ, không bao
giờ biết trân trọng những gì chúng ta có.