Chương 09: Cảnh sắc thay đổi, quy tắc thay đổi - P2
Tại một
thời điểm nào đó, thế giới mà mình biết đã biến mất, hoặc giả đã lùi lại phía
sau, để một thế giới khác thay thế nó. Giống như đường ray được chuyển ghi. Có
nghĩa là, mình đang ở đây, lúc này, nhưng ý thức vẫn thuộc về thế giới ban đầu,
còn bản thân thế giới thì đã biến đổi thành một thứ khác. Những thay đổi xảy ra
ở nơi này, trước mắt vẫn rất hữu hạn. Hầu hết các bộ phận tạo thành thế giới mới
vẫn dựa trên thế giới ban đầu mà mình biết. Vì vậy cuộc sống (lúc này thì gần
như) chưa xuất hiện trở ngại nào thực sự. Nhưng lâu dần, những “phần bị thay đổi”
đó hẳn sẽ tạo ra xung quanh mình những khác biệt lớn hơn. Khác biệt sẽ lớn dần.
Và rồi những khác biệt, trong trường hợp nào đó, có thể gây tổn hại tới tính
logic trong hành động của mình, khiến mình phạm phải những sai lầm chí mạng. Và
nếu có chuyện đó thật, thì đúng là một đòn chí mạng.
Những
thế giới song song.
Aomame
nhăn mặt, như thể trong miệng ngậm thứ gì đó rất chua, tuy không đến mức dữ dội
như hồi nãy. Sau đó, nàng lại lấy cán bút bi gõ mạnh vào răng cửa lách cách,
trong cổ họng vẳng ra tiếng ư ử trầm đục. m thanh ấy lọt vào tai cậu học sinh cấp
ba sau lưng nàng, nhưng lần này cậu ta giả bộ không nghe thấy gì.
Cứ
như là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Aomame thầm nghĩ.
Hay
là để bảo vệ bản thân, mình đã tự bịa ra giả thiết này? Cũng có thể chỉ là do đầu
óc mình không khỏe. Mình vẫn cho rằng tinh thần mình hoàn hảo và bình thường, ý
thức của mình hoàn toàn không méo mó. Thế nhưng, những tuyên bố kiểu mình hoàn
toàn bình thường, còn thế giới xung quanh thì đã phát điên hết chẳng phải chính
là cái kiểu của đại đa số những kẻ mắc bệnh tâm thần đấy sao? Có khi nào mình
đưa ra giả thiết hoang đường về thế giới song song chẳng qua chỉ là một cách
khiên cưỡng nhằm hợp thức hóa sự điên rồ của mình?
Cần
phải có ý kiến bình tĩnh của người thứ ba mới được.
Nhưng
mình không thể đến gặp bác sĩ phân tâm học được. Sự việc này quá đỗi phức tạp,
có quá nhiều sự thực không thể nói ra. Ví dụ như công việc gần đây chẳng hạn,
rõ ràng là phạm pháp. Dù sao mình cũng đã dùng đục nước đá tự chế âm thầm giết
chết cả một lũ đàn ông! Chuyện này rõ ràng không thể để bác sĩ biết. Dù nạn
nhân đều là lũ khốn kiếp đã làm những việc có chết cũng không đền hết tội.
Mà kể
cả có thể khéo léo che đậy những việc phạm pháp, thì những phần hợp pháp còn lại
trong đời mình cũng chẳng bõ bèn gì. Giống như một cái vali da bên trong nhét đầy
các thứ quần áo bẩn thỉu. Trong đấy có đủ các loại nguyên liệu để dồn ép một
con người đến mức thần kinh trở nên bất bình thường. Không, thậm chí đủ cho ba
người ấy chứ. Chỉ riêng đời sống tình dục thôi củng đã quá đủ. Chắc chắn đây
không phải thứ có thể nói trước mặt người khác.
Không
thể đi gặp bác sĩ, Aomame nghĩ. Chỉ còn cách đơn độc giải quyết.
Trước
tiên, hãy tiếp tục theo đuổi giả thiết của mình.
Giả định
rằng tình huống ấy thực sự đã xảy ra, nói cách khác, thế giới mình đang sống
đây thực sự đã bị biến đổi, vậy thì cụ thể thời điểm bẻ ghi ấy là lúc nào, nơi
nào, và thực hiện ra sao?
Aomame
tập trung ý thức, lục tìm trong trí nhớ.
Sự
thay đổi đầu tiên của thế giới này mà nàng nghĩ đến, là hôm xử lí gã chuyên gia
dầu mỏ ở trong khách sạn ở Shibuya mấy ngày trước. Trên tuyến số ba đường cao tốc
Thủ đô, nàng đã xuống xe taxi, dùng thang thoát hiểm khẩn cấp để xuống đường quốc
lộ 246, thay quần tất khác, rồi đi bộ về phía ga Sangenjaya. Dọc đường Aomame
lướt qua một viên cảnh sát trẻ tuổi, và nhận ra vẻ bề ngoài ấy khác với bình
thường. Đó là điểm khởi đầu. Như vậy có lẽ thế giới đã thay đổi trước đó một
lúc. Buổi sáng sớm hôm ấy, mình vẫn thấy cảnh sát ở gần nhà mặc trang phục cũ,
đeo súng lục ổ quay kiểu cũ.
Aomame
nhớ lại cảm giác khó tin lúc ngồi trong chiếc taxi bị kẹt giữa dòng xe cộ đông
đúc, nghe bản Sinfonietta của Leoš Janáček. Đó là cảm giác các bộ phận trong cơ
thể bị vặn xoắn giống cái giẻ khô bị vắt kiệt. Bác tài ấy đã chỉ cho mình cầu
thang thoát hiểm trên đường cao tốc. Thủ đô, mình đã cởi giày cao gót, leo xuống
cái thang nguy hiểm ấy. Lúc chân trần leo xuống thang trong cơn gió mạnh, đoạn
mở đầu của bản Sinfonietta cứ văng vẳng mãi bên tai mình không ngớt. Có khi đó
chính là khởi đầu, Aomame thầm nhủ.
Ấn tượng
về bác tài cũng vô cùng kỳ lạ. Aomame vẫn còn nhớ rất rõ câu nói của bác ta lúc
chia tay. Nàng gắng sức tái hiện lại câu nói ấy một cách chuẩn xác nhất trong
óc.
“Sau
khi làm chuyện đó, có lẽ những quang cảnh thường ngày cô nhìn thấy sẽ hơi khác
lúc bình thường một chút. Nhưng mà, đừng để vẻ bề ngoài đánh lừa. Hiện thực lúc
nào cũng chỉ có một mà thôi.”
Khi ấy
Aomame đã nghĩ bác tài này ăn nói thật kỳ quặc. Nhưng rốt cuộc bác ta muốn nói
điều gì, nàng lại không hiểu, cũng không để ý lắm. Nàng đang vội, không có thời
gian nghĩ những thứ phiền phức. Giờ hồi tưởng lại, những lời này rõ ràng là rất
đường đột, kỳ lạ. Vừa như một lời khuyên chân thành, lại vừa như một thông điệp
ám chỉ. Rốt cuộc bác ấy muốn truyền đạt điều gì cho mình?
Còn cả
âm nhạc của Leoš Janáček nữa.
Tại
sao mình có thể lập tức nhận ra đó là bản Sinfonietta của Leoš Janáček? Sao
mình biết được bản nhạc ấy được viết vào năm 1926? Bản Sinfonietta của Leoš
Janáček đâu phải loại nhạc loại nhạc đại chúng chỉ cần nghe đoạn đầu là đoán
ngay được tên? Từ trước giờ mình đã bao giờ ham thích nhạc cổ điển đâu, thậm
chí sự khác biệt giữa nhạc của Beethoven và Haydn[6] mình còn chẳng rõ. Vậy tại
sao vừa nghe thấy bản nhạc ấy vang lên trong radio xe taxi, mình đã lập tức nhận
ra là Sinfonietta của Leoš Janáček? Tại sao bản nhạc ấy lại khiến thân thể mình
thấy rung động dữ dội đến thế?
[6]
Franz Joseph Haydn (1732-1890) là một trong những nhà soạn nhạc xuất chúng của
nền âm nhạc cổ điển, còn được gọi là “người cha của giao hưởng” và “cha đẻ của
tứ tấu dây”. Ông cũng có nhiều đóng góp cho thể loại tam tấu piano và hình thức
xô nát.
Đúng.
Đó là sự rung động hết sức cá nhân. Giống như tiềm thức ngủ sâu trong ký ức suốt
một thời gian dài, đột nhiên bị đánh thức trong một khoảnh khắc không lường trước
vì một lý do nào đó, chính là cảm giác ấy. Cảm giác như thể bị người nào đó nắm
chặt vai lắc mạnh. Nếu vậy, có lẽ ở một địa điểm nào đó trong cuộc đời, mình đã
từng có mối quan hệ sâu sắc với khúc nhạc ấy. Có lẽ khi dòng âm nhạc chảy tới,
cái van đã tự động mở ra, một ký ức nào đó trong cơ thể tự nhiên cũng theo đó thức
tỉnh. Sinfonietta của Leoš Janáček. Nhưng dù có gắng đào sâu vào ký ức, Aomame
cũng không tìm ra manh mối nào.
Nàng
đảo mắt bốn phía, rồi chăm chú nhìn vào lòng bàn tay mình, kiểm tra ngón tay,
sau đó, để chắc chắn, nàng dùng hai tay nắn đôi bầu vú qua lần áo để kiểm tra
hình dạng. Không có thay đổi gì đặc biệt, kích cỡ và hình dáng đều bình thường.
Mình vẫn là mình trước đây, thế giới vẫn là thế giới rộng lớn ấy. Nhưng có thứ
gì đó đã bắt đầu thay đổi. Aomame có thể cảm nhận được. Giống như trò tìm điểm
khác nhau trên tấm ảnh. Ở đây có hai tấm ảnh, treo cạnh nhau trên bức tường, tưởng
chừng như hoàn toàn giống nhau. Nhưng khi kiểm tra tỉ mỉ từng chi tiết sẽ phát
hiện những điểm khác biệt rất tinh tế.
Nàng
sắp xếp lại tư duy, tiếp tục lật các trang báo, chép lại chi tiết trận đấu súng
bên hồ Motosu. Năm khẩu tiểu liên AK47 Kalashnikov do Trung Quốc chế tạo, theo
suy đoán có lẽ được buôn lậu từ Triều Tiên. Có khả năng là hàng đã qua sử dụng
của quân đội, chất lượng tốt, đạn dược đầy đủ. Đường bờ biển Nhật Bản rất dài,
thuyền buôn lậu ngụy trang thành thuyền cá, lợi dụng ban đêm để chuyển lậu vũ
khí qua biên giới không phải chuyện quá khó. Bọn họ thường dùng cách này để
chuyển ma túy và vũ khí vào Nhật Bản, rồi mang đi một lượng lớn tiền Yên.
Cảnh
sát Yamanashi không biết tổ chức quá khích kia đã được vũ trang mạnh như vậy. Bọn
họ được lệnh khám xét để điều tra tội cố ý gây thương tích, thực chất chỉ là
hình thức, và chia nhau ngồi hai xe tuần tra và xe buýt nhỏ, được trang bị bình
thường, rồi đến một “nông trường” là đại bản doanh của tổ chức tên là
“Akebono”[7]. Bề ngoài, các thành viên của tổ chức này đều làm việc ở nông trường
sử dụng phương thức canh tác hữu cơ ấy. Bọn họ không cho cảnh sát vào khám xét,
vậy là thành xung đột đánh nhau, rồi bùng phát thành cuộc đấu súng.
[7]
Bình minh.
Dù thực
tế chưa sử dụng đến, nhưng tổ chức này thậm chí còn tích trữ cả lựu đạn cầm tay
sát thương lớn do Trung Quốc sản xuất. Không dùng đến, là vì chúng mới nhận được
chưa lâu, nên chưa được huấn luyện để sử dụng thành thạo. Đây thực là một điều
may mắn. Nếu chúng dùng đến lựu đạn, tổn thất của cảnh sát và lực lượng phòng vệ
chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều. Lúc đầu, các cảnh sát thậm chí còn không chuẩn bị cả
áo chống đạn. Lãnh đạo cảnh sát bị chỉ trích vì đã lơ là trong phân tích thông
tin và trang bị cũ kỹ lạc hậu. Nhưng điều khiến mọi người kinh ngạc nhất vẫn là
các phái quá khích vẫn còn tồn tại dưới các lực lượng chiến đấu như vậy và còn
hoạt động sôi nổi trong bóng tối. Người ta cứ ngỡ cuộc “cách mạng” sau những
năm sáu mươi ầm ĩ một thời đã hoàn toàn trở thành quá vãng, tàn dư của các phái
quá khích cũng đã bị tiêu diệt triệt để trong “sự kiện sơn trang Asama”[8] rồi.
[8] Sự
kiện sơn trang Asama là vụ bắt cóc con tin ở một ngôi nhà trên núi gần
Karuizawa, Nagano của năm thành viên tổ chức URA (Liên hợp Quân đoàn Đỏ). Đây
là lần đầu tiên hành động giải cứu của cảnh sát được truyền hình trực tiếp ở Nhật
Bản.
Aomame
ghi chép xong, đem đống báo trả lại quầy phục vụ, cô lại chọn một quyển dày cộp
tên là Các nhà soạn nhạc thế giới trên giá sách âm nhạc, rồi trở lại bàn đọc
sách. Sau đó lật đến trang viết về Janáček.
Leoš
Janáček sinh ra ở làng quê vùng Movaria năm 1854, mất năm 1928. Trong sách có
in hình chân dung ông những năm cuối đời. Không hói, đỉnh đầu được mái tóc bạc
trắng như đám cỏ dại bù xù phủ kín, không thể hình dung hình dạng hộp sọ của
ông trông thế nào. Bản Sinfonietta được viết năm 1926. Janáček có một cuộc hôn
nhân bất hạnh không tình yêu, mãi đến năm 1917, khi đã sáu ba, ông mới tình cờ
gặp được người đàn bà đã có chồng tên là Kamila Stösslová, và hai người yêu
nhau. Đó là tình yêu ở tuổi xế chiều của hai kẻ đã từng kết hôn. Janáček một độ
đã âu sầu vì sáng tác sa sút, nhưng nhờ gặp Kamila, ông lấy lại được cảm hứng.
Vậy là các kiệt tác liên tiếp xuất hiện vào những năm cuối đời.
Một
hôm, khi tản bộ cùng Kamila trong công viên, ông bắt gặp buổi hòa nhạc đang diễn
ra tại một nhà hát ngoài trời nên dừng bước lắng nghe. Janáček bỗng thấy cảm
giác hạnh phúc ngập tràn khắp cơ thể, cấu tứ của bản Sinfonietta bỗng dưng xuất
hiện. Về sau, ông kể lại rằng, khi đó ông thấy như trong óc mình có thứ gì đột
nhiên nổ tung, toàn thân đắm chìm trong trạng thái xuất thần. Vừa khéo dạo ấy
Janáček đang được mời sáng tác bản nhạc mở đầu cho lễ khai mạc một đại hội thể
thao lớn, mô típ của bản nhạc mở đầu ấy và “cấu tứ” có được trong không gian
hòa nhập làm một, và Sinfonietta ra đời. Tuy tên gọi là “Khúc giao hưởng nhỏ,
nhưng kết cấu của nó hoàn toàn phi truyền thống, khúc mở màn đầy tươi sáng của
nhạc cụ hơi kết hợp với hòa tấu đàn dây trầm lắng kiểu Trung u, tạo ra một
phong cách hết sức độc đáo. Trong sách giải thích như vậy.
Để
cho chắc chắn, Aomame chép tóm tắt nội dung tiểu sử và giới thiệu bản nhạc vào
sổ tay. Nhưng cuốn sách không gợi mở điều gì về chuyện rốt cuộc giữa Aomame và
bản Sinfonietta ấy có quan hệ gì, hoặc có thể quan hệ như thế nào. Rời thư viện,
nàng thả bước dọc theo con phố trước lúc hoàng hôn, chốc chốc lại lẩm bẩm một
mình, rồi lại lắc đầu.
Aomame
vừa đi vừa ngẫm nghĩ, tất nhiên, mọi điều chỉ là giả thuyết. Nhưng trước mắt,
đây là giả thuyết có sức thuyết phục nhất đối với mình. Ít ra, trước khi có giả
thuyết nào thuyết phục hơn xuất hiện, hẳn là phải hành động dựa trên giả thuyết
này. Bằng không có thể mình sẽ bị đào thải. Vì vậy, có lẽ nên đặt cho hoàn cảnh
mới này của mình một cái tên phù hợp. Để phân biệt với thế giới trước đây khi cảnh
sát đeo súng lục ổ quay kiểu cũ đi lại trên đường, thì cũng nên có một xưng hô
riêng. Chó mèo còn cần có tên nữa là. Thế giới mới bị biến đổi lại càng cần.
Năm
1Q84. Mình sẽ gọi cái thế giới mới này như thế. Aomame quyết định.
Q là
chữ Q trong từ question mark. Thứ gánh trên lưng mình một câu hỏi.
Nàng
vừa bước đi vừa gật gù một mình.
“Dù
thích hay không, hiện nay mình đã ở trong “Năm 1Q84” này rồi. Năm 1984 mà mình
quen thuộc kia đã biến mất không còn dấu tích, năm nay là năm 1Q84. Bầu không
khí đã thay đổi, phong cách đã thay đổi. Mình phải nhanh chóng thích ứng với thế
giới mang dấu chấm hỏi này. Như lũ động vật bị bỏ vào khu rừng xa lạ, muốn sinh
tồn thì chúng phải nhanh chóng tìm hiểu và thích ứng với quy tắc ở nơi mới.
Aomame
vào cửa hàng đĩa hát gần ga Jiyugaoka, tìm đĩa Sinfonietta của Janáček. Janáček
không phải là nhà soạn nhạc được ưa chuộng. Góc dành cho các đĩa nhạc của ông rất
nhỏ, chỉ tìm được một đĩa duy nhất có bản Sinfonietta ấy. Dàn nhạc dao hưởng
Cleveland diễn tấu dưới sự chỉ huy của George Szell[9], mặt A là “Bản concerto
cho dàn nhạc giao hưởng” của Bartók Béla Viktor János[10]. Không hiểu diễn tấu
ra sao, nhưng cũng chẳng còn lựa chọn khác, vậy là nàng mua cái đĩa than ấy. Về
tới nhà, lấy chai rượu Chablis trong tủ lạnh ra, mở nắp chai, đặt đĩa nhạc vào
bàn quay, hạ đầu kim xuống. Sau đó nàng vừa uống rượu vang để lạnh vừa phải vừa
nghe nhạc. Đoạn mở đầu bằng kèn vang lên rạng rỡ. Đúng là thứ âm nhạc đã nghe
trong taxi. Không sai chút nào. Nàng nhắm mắt lại, tập trung ý thức vào âm nhạc.
Dàn nhạc chơi khá hay. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra ngoài tiếng nhạc vang vọng.
Thân thể nàng không bị vặn xoắn, cảm giác cũng không có gì thay đổi.
[9]
George Szell (1897-1970): Nhạc trưởng người Mỹ gốc Hungary.
[10]
Bartók Béla Viktor János (1881-1945): Nhà soạn nhạc và nghê sĩ piano nổi tiếng
người Hungary.
Nghe
nhạc xong, nàng cất đĩa vào bao đựng, ngồi trên sàn nhà, dựa lưng vào tường uống
rượu vang tiếp. Nhâm nhi vang một mình trong lúc nghĩ ngợi thì hầu như không cảm
nhận được mùi vị gì. Rồi nàng vào nhà vệ sinh, lấy xà phòng rửa mặt, cầm kéo nhỏ
lên sửa lông mi, sau đó lấy tăm bông làm sạch trong tai.
Mình
điên, hoặc thế giới này điên, chỉ có thể là một trong hai. Mình không biết rốt
cuộc là bên nào điên. Miệng chai và nắp chai không vừa nhau. Cũng có thể trách
cái chai, mà cũng có thể trách cái nắp. Nhưng dù thế nào cũng không thay đổi được
sự thực miệng chai và nắp chai không vừa.
Aomame
mở tủ lạnh kiểm tra. Mấy hôm nay nàng không mua thức ăn, đồ bên trong không nhiều
lắm. Nàng lấy ra một quả đu đủ đã chín nục, cầm dao cắt đôi, dùng thìa xúc ăn.
Sau đó nàng lại lấy ba quả dưa chuột, rửa sạch, chấm xốt mayonnaise ăn. Nàng chậm
rãi nhai. Kế đó, nàng đổ sữa đậu nành ra cốc thủy tinh, uống cạn. Đây là toàn bộ
bữa tối. Tuy đơn giản, nhưng lại là thực đơn lý tưởng phòng táo bón. Táo bón là
một trong những điều mà Aomame căm ghét nhất trên đời. Ghét ngang với bọn đàn
ông bỉ ổi bạo hành gia đình và những phần tử tôn giáo cực đoan đầu óc hẹp hòi.
Sau bữa
tối, Aomame cởi quần áo, tắm nước nóng. Ra khỏi phòng tắm, nàng lấy khăn bông
chà xát khắp người, rồi quan sát cơ thể mình trong tấm gương gắn trên cửa. Phần
bụng thon thả, các bắp thịt săn chắc. Hai bầu vú không cân đối và không nổi bật,
đám lông mu làm người ta liên tưởng đến một sân bóng đá không được chăm sóc.
Đang ngắm nghía thân thể trần truồng của mình, Aomame chợt nhớ ra tuần tới mình
đã ba mươi tuổi. Sinh nhật buồn chán lại đến. Thật đúng là! Phải đón lần sinh
nhật ba mươi ở cái thế giới lạ kỳ khó hiểu này! Aomame thầm nghĩ, rồi nhíu mày
lại.
Năm
1Q84.
Đó
chính là nơi nàng đang trú ngụ.