1Q84 (Tập 3) - Chương 25 - Phần 1
Chương 25: Ushikawa
Lạnh hay không, Thượng đế đều ở đây
“Không
chết đơn giản vậy được đâu,” giọng người đàn ông vang lên sau lưng y. Hồ như
hắn đọc được ý nghĩ của Ushikawa, “anh chỉ vừa tạm thời mất đi ý thức. Tất
nhiên, anh đã đến sát rìa ranh giới đó rồi.”
Y
chưa từng nghe thấy giọng nói này. Một chất giọng trung lập, thiếu sắc thái
tình cảm. Không cao cũng không thấp, không quá cứng cũng không quá mềm. Là kiểu
giọng nói thông báo thời gian cất cánh hạ cánh của máy bay và tình hình thị
trường cổ phiếu.
Hôm nay
thứ mấy rồi? Ushikawa chợt nghĩ. Chắc là đêm ngày thứ Hai. Không,
nói chính xác thì có lẽ đã sang ngày thứ Ba rồi.
“Anh
Ushikawa,” người đàn ông kia nói, “gọi anh là anh Ushikawa có được không?”
Ushikawa
im lặng chừng hai mươi giây. Sau đó, không hề cảnh báo, người đàn ông bất ngờ
thúc một cú vào chỗ thận trái y. Không thành tiếng, nhưng là một đòn cực mạnh.
Cơn đau khủng khiếp lan tỏa khắp toàn thân Ushikawa. Tất cả cơ quan nội tạng
đều gấp rút co giật, mãi đến khi cơn đau dịu xuống y mới thở lại nổi. Cuối
cùng, Ushikawa thở hắt ra một hơi khô khốc.
“Tôi
đã rất lịch sự hỏi anh, hy vọng anh có thể trả lời. Nếu vẫn không thể nói chuyện
cho tử tế, thì chỉ cần gật đầu hoặc lắc đầu cũng được. Đây là phép lịch sự tối
thiểu,” người đàn ông nói, “Gọi anh là anh Ushikawa có được không?”
Ushikawa
gật đầu lia lịa.
“Anh
Ushikawa. Tên này rất dễ nhớ. Tôi đã kiểm tra ví trong túi quần anh. Trong đấy
có bằng lái xe và danh thiếp. ‘Quản lý chuyên trách của Hội Chấn hưng Văn học
Nghệ thuật Tân Nhật Bản’. Chức danh nghe oách quá, anh Ushikawa ạ. Nhưng ông
Quản lý chuyên trách của Hội Chấn hưng Văn học Nghệ thuật Tân Nhật Bản không
ngờ lại ôm máy ảnh bí mật rúc vào nơi như thế này, rốt cuộc là đang làm trò gì
vậy?”
Ushikawa
im lặng, nhất thời không nói được lời nào.
“Tốt
nhất anh nên trả lời thì hơn,” người đàn ông nói. “Đây là lời khuyên chân
thành. Thận mà vỡ, thì sẽ đau đớn cả đời đó.”
“Tôi
đang giám sát một người sống ở đây,” rốt cuộc Ushikawa cũng trả lời. Giọng y
trầm, không ổn định, lắp ba lắp bắp. Đang bị bịt mắt, y thậm chí không thể nhận
ra đó là giọng của mình.
“Kawana
Tengo phải không?”
Ushikawa
gật đầu.
“Kawana
Tengo, người chấp bút cho tiểu thuyết Nhộng không khí?”
Ushikawa
lại gật đầu, sau đó phát ra mấy tiếng ho khan. Đối phương đã biết chuyện này.
“Ai
phái anh đến?”
“Sakigake.”
“Chuyện
này tôi cũng đoán ra được, anh Ushikawa ạ,” người đàn ông nói, “nhưng tại sao
cớ sự đến nước này rồi mà giáo đoàn vẫn muốn giám sát Kawana Tengo? Đối với bọn
họ, Kawana Tengo có phải nhân vật quan trọng gì đâu.”
Thằng
cha này ở phe nào đây? Hắn đã biết được những gì rồi? Đầu óc Ushikawa nhanh chóng
xoay chuyển. Tuy y không biết thằng cha này lai lịch thế nào, nhưng ít nhất hắn
không phải là người của giáo đoàn phái đến. Nhưng Ushikawa không rõ đây là
chuyện đáng mừng hay ngược lại.
“Đang
hỏi anh đấy,” người đàn ông nói, đồng thời lấy ngón tay chọc chọc vào thận trái
y. Lực rất mạnh.
“Anh
ta có liên quan đến một phụ nữ,” Ushikawa rên rỉ trả lời.
“Người
phụ nữ đó tên là gì?”
“Aomame.”
“Tại
sao anh muốn truy lùng Aomame?”
“Vì
cô ta đã hại Lãnh Tụ của giáo đoàn.”
“Hại?”
người đàn ông như thể muốn kiểm nghiệm lại những gì vừa nghe được, “ý anh là cô
ta đã giết ông ta? Nói đơn giản là vậy.”
“Đúng
vậy,” Ushikawa trả lời. Y nghĩ, mình không thể giấu gì với tên này được, sớm muộn gì hắn
cũng sẽ ép mình nói ra sự thật.
“Nhưng
chuyện này vẫn chưa được công bố.”
“Đây
là bí mật nội bộ.”
“Bên
trong giáo đoàn có mấy người biết được bí mật này?”
“Chỉ
một nhóm nhỏ.”
“Trong
đó bao gồm cả anh.”
Ushikawa
gật đầu.
Người
đàn ông nói: “Vậy tức là, ở giáo đoàn, anh có địa vị tương đối quan trọng.”
“Không,”
nói đoạn, Ushikawa lắc đầu. Vừa lắc đầu, chỗ thận bị ăn đòn khi nãy lại nhói
lên. “Tôi chỉ là chân chạy vặt, tình cờ biết được thông tin này mà thôi.”
“Xuất
hiện không đúng lúc ở một nơi không nên xuất hiện. Đúng vậy không?”
“Tôi
nghĩ là thế.”
“Nhưng
anh Ushikawa này, lần này anh hành động một mình à?”
Ushikawa
gật đầu.
“Vậy
thì lạ thật. Những chuyện giám sát và theo dõi kiểu thế này theo lẽ thường đều
do một nhóm cùng làm. Tinh vi hơn một chút thì còn có cả người tiếp tế, ít nhất
cũng phải có ba người. Huống hồ xưa nay các anh đều hành động theo nhóm. Hành
động một mình quá là không tự nhiên. Vì vậy, câu trả lời của anh khiến tôi
không được hài lòng cho lắm.”
“Tôi
không phải là người của giáo đoàn,” Ushikawa nói. Hơi thở dần ổn định trở lại,
rốt cuộc y cũng có thể nói năng tử tế. “Tôi chỉ là một cá nhân được họ thuê
thôi. Khi nào họ cảm thấy lợi dụng người bên ngoài tiện hơn thì họ gọi tôi
đến.”
“Với
thân phận Quản lý chuyên trách Hội Chấn hưng Văn học Nghệ thuật Tân Nhật Bản?”
“Đó
chỉ là một công ty ma, hữu danh vô thực. Tôi lập ra chủ yếu để xử lý vấn đề
thuế má cho giáo đoàn. Tôi là một nhân viên hợp đồng không có liên quan gì đến
giáo đoàn. Tôi chỉ làm việc cho họ thôi.”
“Kiểu
như lính đánh thuê?”
“Không,
không giống như lính đánh thuê. Tôi làm một số công việc thu thập thông tin
theo yêu cầu của họ. Nếu cần thiết phải động tay động chân, giáo đoàn có người
khác đảm trách rồi.”
“Giáo
đoàn chỉ thị cho anh ở đây giám sát Kawana Tengo, thăm dò quan hệ giữa anh và
Aomame phải không, anh Ushikawa?”
“Đúng
vậy.”
“Không
đúng,” người đàn ông nói, “câu trả lời này anh không nói thật rồi. Nếu giáo
đoàn đã biết được chuyện này, tức là đã biết mối quan hệ giữa Aomame và Kawana
Tengo, thì không thể nào để anh giám sát một mình được. Chắc chắn họ sẽ dùng
người của mình, lập thành một nhóm. Như vậy sẽ giảm thiểu sai lầm, ngoài ra còn
có thể sử dụng vũ lực khi cần thiết.”
“Nhưng
đúng là vậy mà. Tôi chỉ hành động theo lệnh mà thôi, còn tại sao họ để tôi làm
một mình, tôi cũng không hiểu nữa.” Giọng nói của Ushikawa lại bắt đầu không ổn
định, lắp ba lắp bắp.
Giả dụ
hắn biết được Sakigake vẫn chưa biết gì về mối quan hệ giữa Aomame và Kawana
Tengo, không khéo mình sẽ bị thủ tiêu ở đây mất, Ushikawa nghĩ. Chỉ cần mình biến mất, sẽ chẳng
còn ai biết chuyện này nữa.
“Tôi
không thích những câu trả lời dối trá,” người đàn ông lạnh lùng nói. “Anh
Ushikawa này, chắc anh cũng tự biết rồi. Cho quả thận của anh thêm cú nữa với
tôi chẳng hề gì. Nhưng nếu phải dồn sức để đánh thì tay tôi cũng đau, với lại
làm thận anh bị thương nặng không phải là mục đích của tôi. Tôi với anh không
có thù hận gì cả. Tôi chỉ có một mục đích thôi, là nghe anh nói thật. Vì vậy
lần này ta đổi phương pháp mới nhé. Để tôi mời anh tham quan đáy biển một
chuyến.”
Đáy
biển? Ushikawa nghĩ. Thằng cha này muốn nói gì vậy?
Người
đàn ông hình như lấy trong túi áo ra một món đồ. Tiếng nylon sột soạt lọt vào
tai Ushikawa. Sau đó, đầu Ushikawa bị thứ gì đó chụp lên. Một cái túi nylon. Có
vẻ là loại túi dày để đựng đồ đông lạnh. Sau đó, một sợi dây cao su to tướng
quấn quanh cổ y. Ushikawa đã hiểu, đối phương muốn y chết ngạt. Y vừa toan hít
thở vào thì trong miệng đã đầy nylon, lỗ mũi cũng bị bít lại. Hai lá phổi ra
sức tìm kiếm không khí mới, nhưng chẳng thấy thứ đó đâu. Nylon dính chặt lên
mặt y, trở thành một chiếc mặt nạ chết chóc. Chỉ thoáng sau, cơ bắp toàn thân
Ushikawa bắt đầu co giật dữ dội. Y cố giật cái túi ra, nhưng cánh tay không thể
động cựa vẫn đang bị trói quặt ra sau lưng. Não tương trong đầu y phình to lên
như quả bóng, cơ hồ bùng nổ đến nơi. Ushikawa muốn hét lên. Y phải có thêm
dưỡng khí. Y không phát ra được tiếng nào. Lưỡi y đầy cả khoang miệng, trong
khi ý thức trượt ra khỏi bộ não y.
Cuối
cùng, sợi dây cao su trên cổ cũng được tháo ta, túi nylon được nhấc khỏi đầu.
Ushikawa ra sức hớp không khí mới đưa vào buồng phổi. Trong vòng mấy phút y
vươn người ra trước, há miệng hít vào thở ra hồng hộc, như một con vật đang cố
đớp con mồi ngoài tầm với vậy.
“Đáy
biển thế nào?” người đàn ông đợi nhịp thở của Ushikawa bình thường trở lại mới
hỏi. Giọng nói vẫn không bộc lộ chút xúc cảm nào. “Anh đã xuống rất sâu rồi.
Chắc là đã thấy khá nhiều thứ chưa từng thấy. Một trải nghiệm quý báu lắm đó.”
Ushikawa
không nói một lời. Y không cất tiếng được.
“Anh
Ushikawa, tôi đã nói với anh mấy lần rồi, tôi cần anh trả lời thật. Vì vậy, tôi
hỏi anh lần cuối cùng. Có phải giáo đoàn chỉ thị cho anh ở đây giám sát động
tĩnh của Kawana Tengo, tìm hiểu quan hệ giữa anh ta và Aomame hay không? Chuyện
này rất quan trọng. Liên quan đến mạng người đấy. Anh nghĩ cho kỹ đi, thành
thực trả lời tôi. Anh mà nói dối thì không qua mắt được tôi đâu.”
“Giáo
đoàn không biết chuyện này,” khó khăn lắm Ushikawa mới thốt được một câu.
“Đúng
rồi, đây mới là nói thật chứ. Giáo đoàn vẫn chưa biết về quan hệ giữa Kawana
Tengo và Aomame. Anh vẫn chưa báo cáo chuyện này với bọn họ. Phải không?”
Ushikawa
gật đầu.
“Nếu
anh nói thật ngay từ đầu thì đã không phải đi thăm thú đáy biển gì đó rồi. Khó
chịu lắm đúng không?”
Ushikawa
gật đầu.
“Chuyện
này tôi biết chứ. Hồi trước tôi cũng bị thế rồi.” Người đàn ông như thể đang
chuyện phiếm với Ushikawa. “Khổ sở thế nào, ai chưa từng trải qua thì không biết
được đâu. Nỗi đau là thứ không thể nói chung chung một cách đơn giản được. Mỗi
loại đau đớn đều có cá tính riêng. Cần sửa lại câu nói nổi tiếng của Tolstoy
một chút: mọi niềm vui đều giống nhau, nhưng nỗi đau thì không đau nào giống
đau nào. Anh nghĩ thế không?”
Ushikawa
gật đầu. Y vẫn đang thở dốc.
Người
đàn ông lại tiếp tục: “Vì vậy chúng ta đừng giấu giếm nhau làm gì nữa, sao
không giãi bày tâm sự, trải lòng ra với nhau? Anh thấy thế có được không, anh
Ushikawa?”
Ushikawa
gật đầu.
“Nếu
anh vẫn không chịu nói thật thì đành phải mời anh đi thăm thú đáy biển thêm
chuyến nữa. Lần này tôi để anh đi chậm hơn một chút, thời gian dài hơn một
chút, đến gần giới hạn thêm một chút. Ngộ nhỡ lỡ tay, có khi không trở về được
nữa. Chắc anh cũng không muốn thế đâu nhỉ? Anh thấy thế nào, hả anh Ushikawa?”
Ushikawa
lắc đầu.
“Xem
ra chúng ta có nhiều điểm chung ra phết,” người đàn ông nói, “vừa nhìn đã biết
nhau đều là một loại sói cô độc, hay là chó hoang bị lạc đàn nhỉ? Nói chung đều
là loại không được xã hội chấp nhận, bản tính không hợp với các loại tổ chức,
mà cũng không bao giờ được tổ chức tiếp nạp. Việc gì cũng chỉ tự mình làm. Đơn
độc quyết định, đơn độc hành động, đơn độc chịu trách nhiệm. Tuy nhận lệnh từ
cấp trên, nhưng không có đồng bọn, cũng chẳng có thuộc hạ. Thứ duy nhất chúng
ta có thể dựa vào chỉ có cái đầu và cánh tay trời cho mà thôi. Phải không?”
Ushikawa
gật đầu.
Người
đàn ông nói: “Đây là điểm mạnh của tôi với anh, nhưng có lúc cũng lại là điểm
yếu. Chẳng hạn như lần này, anh hơi nôn nóng và tham công quá. Không báo cáo
lại với giáo đoàn mà định tự mình giải quyết vấn đề, muốn làm vụ này cho thật
đẹp, một mình giành hết công lao. Kết quả là lơ là đề phòng. Tôi nói đúng không
nhỉ?”
Ushikawa
lại gật đầu.
“Tại
sao anh phải dốc sức như vậy, có lý do gì chăng?”
“Tôi
đã mắc sai lầm, dẫn đến cái chết của Lãnh Tụ.”
“Sai
lầm như thế nào?”
“Tôi
là người điều tra thân thế Aomame. Trước khi cô ta đến gặp Lãnh Tụ, tôi đã thẩm
tra nghiêm ngặt, nhưng không phát hiện ra điểm nào bất ổn.”
“Nhưng
cô ta lại âm mưu giết Lãnh Tụ, không chỉ vậy mà còn thực sự lấy mạng ông ta.
Anh không hoàn thành nhiệm vụ được giao, và anh biết rồi sẽ có ngày phải gánh
chịu trách nhiệm. Xét cho cùng anh chẳng qua chỉ là người ngoài, họ dùng xong
là bỏ, huống hồ giờ anh lại còn biết quá nhiều nội tình của bọn họ. Muốn sống,
anh chỉ còn cách nộp đầu Aomame cho họ thôi. Tôi nói đúng không?”
Ushikawa
gật đầu.
“Xin
lỗi nhé.”
Xin
lỗi? Cái đầu hình dạng kỳ quái của Ushikawa ngẫm nghĩ về câu nói
này. Rồi sao đó sực hiểu ra.
“Kế
hoạch sát hại Lãnh Tụ ấy là do anh vạch ra?” Ushikawa hỏi.
Người
đàn ông không trả lời. Nhưng Ushikawa hiểu, câu trả lời bằng im lặng tuyệt đối
không phải là sự phủ định.
“Anh
định làm gì tôi?” Ushikawa lại hỏi.
“Làm
gì bây giờ nhỉ? Nói thật, tôi vẫn còn chưa nghĩ xong. Tiếp sau đây sẽ từ từ
nghĩ tiếp. Tất cả còn phải xem thái độ của anh thế nào,” Tamaru nói. “Tôi còn
có vài chuyện muốn hỏi anh.”
Ushikawa
gật đầu.
“Cho
tôi biết số điện thoại của người liên lạc với anh ở Sakigake. Chắc chắn là anh
có một liên lạc trực tiếp.”
Ushikawa
thoáng trù trừ, nhưng rồi vẫn đọc số điện thoại ấy. Đã đến nước này rồi, đây
chẳng phải chuyện đáng để ý phải liều mạng che giấu nữa.
“Tên.”
“Tôi
không biết,” Ushikawa nói dối. Nhưng người kia không để tâm lắm.
“Bọn
chúng giỏi không?”
“Tương
đối.”
“Nhưng
chưa thể coi là chuyên gia.”
“Rất
có năng lực. Tuyệt đối không do dự khi chấp hành mệnh lệnh. Nhưng không phải là
chuyên gia.”
“Về
cô Aomame, anh đã điều tra đến đâu rồi?” Tamaru hỏi. “Tìm được chỗ cô ta đang
ẩn trốn chưa?”
Ushikawa
lắc đầu. “Vẫn chưa tìm được, vì vậy mới ở đây tiếp tục giám sát Kawana Tengo.
Nếu biết Aomame ở đâu, tôi đã sớm chuyển hướng sang phía cô ta rồi.”
“Có
lý,” Tamaru nói, “nhưng, làm sao anh phát hiện ra cô Aomame và Kawana Tengo có
liên quan?”
“Đến
tận nơi hỏi dò.”
“Đến
tận nơi hỏi dò như thế nào?”
“Tôi
lần lượt điều tra hồ sơ lý lịch của Aomame, tra đến tận hồi cô ta còn nhỏ. Cô
ta từng học tiểu học ở một trường công lập tại Ichikawa. Kawana Tengo cũng xuất thân từ thành phố Ichikawa. Tôi nghĩ,
không khéo hai người này đã quen biết từ lúc ấy, bèn chạy đến trường tiểu học
đó điều tra, quả nhiên, họ đã học cùng lớp trong hai năm.”
Tamaru
phát ra từ sâu trong cổ họng một tiếng gầm gừ trầm đục như tiếng mèo. “Thì ra
là thế. Anh điều tra bền bỉ thật đấy, anh Ushikawa. Hẳn là phải tốn nhiều thời
gian và phải tinh lắm. Tôi rất khâm phục.”
Ushikawa
im lặng. Giờ không phải lúc hỏi chuyện đối phương.
“Tôi
hỏi anh lại một lần nữa,” Tamaru nói, “hiện nay chỉ có mình anh biết về mối
quan hệ giữa Aomame và Kawana Tengo thôi, đúng không?”
“Còn
anh nữa.”
“Tôi
không tính. Ý tôi là ở phía anh ấy.”
Ushikawa
gật đầu. “Ở phía tôi, chỉ có mình tôi biết chuyện này thôi.”
“Không
nói dối chứ?”
“Không.”
“Vậy
thì tốt, anh có biết chuyện Aomame mang thai không?”
“Mang
thai?” Ushikawa nói. Có thể nhận thấy sự ngạc nhiên rõ rệt trong giọng y. “Con
của ai?”
Tamaru
không trả lời. “Anh thật sự không biết chuyện này?”
“Tôi
không biết. Thật đấy.”
Tamaru
thoáng im lặng, quan sát phản ứng của Ushikawa xem là thật hay giả, sau đó nói:
“Được
rồi. Xem ra anh không biết thật. Tôi tin anh. Có điều, anh từng có một khoảng
thời gian lượn lờ xung quanh biệt thự Cây Liễu ở Azabu. Tôi nói không sai chứ?”
Ushikawa
gật đầu.
“Tại
sao?”
Bà
chủ của biệt thự ấy là hội viên của một câu lạc bộ thể thao cao cấp gần đó,
huấn luyện viên riêng của bà ta chính là Aomame. Quan hệ cá nhân giữa hai người
hình như rất thân mật. Người phụ nữ ấy mở một trung tâm bảo trợ chuyên thu nhận
và bảo vệ các phụ nữ bị bạo hành gia đình ở ngay cạnh nhà mình, cảnh giới hết
sức thâm nghiêm. Theo quan điểm của tôi thì hình như hơi quá mức cần thiết, vì
vậy tôi mới suy luận xa hơn, rất có thể Aomame đang trốn trong trung tâm đó.”
“Vậy
thì sao?”
“Nhưng
nghĩ kỹ lại, tôi cảm thấy không đúng lắm. Người phụ nữ ấy có đủ tiền bạc và sức
ảnh hưởng. Người như bà ta mà muốn che giấu Aomame thì chắc chắn sẽ không để cô
ta ở cạnh mình mà giấu ở nơi nào đó thật xa. Vì vậy, tôi không tiếp tục điều
tra sâu ở khu Azabu nữa, mà chuyển hướng sang điều tra Kawana Tengo này.”
Tamaru
lại phát ra tiếng gầm gừ khe khẽ. “Anh rất thông minh, tư duy logic cũng rất
tốt, lại chịu khó và kiên nhẫn nữa. Chỉ làm một chân chạy thì thật đáng tiếc.
Trước giờ anh vẫn làm công việc này sao?”
“Hồi
trước tôi từng làm luật sư,” Ushikawa nói.
“Chẳng
trách. Chắc hồi đó anh cũng là kẻ nhiều mánh lới. Nhưng hơi vênh váo, đi quá
giới hạn, giữa đường vấp chân ngã lộn nhào một cú. Giờ thì tuột dốc không
phanh, phải làm chân chạy cho một tôn giáo mới để kiếm một hai đồng tiền. Đại
khái là vậy đúng không?”
Ushikawa
gật đầu. “Đúng thế.”
“Đúng
là hết cách mà,” Tamaru nói. “Loài sói cô độc như chúng ta chỉ biết dựa vào hai
bàn tay mình, muốn lăn lộn trong xã hội không phải dễ dàng. Nhìn bề ngoài tưởng
chuyện gì cũng như ý, nhưng bất cẩn một chút thôi là ngã lộn cổ ngay. Đời là
thế đấy.” Anh ta nắm chặt tay lại, đốt ngón tay kêu răng rắc. Một thứ âm thanh
sắc nhọn, chẳng lành. “Vậy thì, anh đã báo cáo chuyện về biệt thự Cây Liễu với
giáo đoàn chưa?”
“Tôi
chưa nói với ai cả,” Ushikawa thành thực trả lời. “Nghi ngờ của tôi đối với
biệt thự Cây Liễu, xét cho cùng cũng chỉ là suy đoán cá nhân. Vì ở đó đề phòng
quá nghiêm ngặt, nên cũng chưa tìm được chứng cứ xác thực nào cả.”
“Tốt
lắm,” Tamaru nói.
“Chỗ
đó hẳn do anh phụ trách?”
Tamaru
không trả lời. Anh ta là người đặt ra câu hỏi, không cần thiết phải trả lời câu
hỏi của đối phương.
“Cho
đến giờ anh chưa nói dối khi trả lời câu hỏi,” Tamaru nói. “Ít nhất là về đại
thể. Chỉ cần xuống đáy biển thăm thú một lần là sẽ chẳng còn hơi sức mà nói dối
nữa. Nếu cố gượng, sẽ lập tức biểu hiện ra giọng nói ngay. Nỗi sợ hãi gây ra
điều đó.”
“Tôi
không nói dối,” Ushikawa nói.
“Vậy
thì tốt,” Tamaru tiếp tục, “chẳng ai muốn nếm nhiều đau khổ hơn cả. Tiện thể
hỏi một câu, anh có biết Carl Jung không?”
Ushikawa
không khỏi chau mày lại dưới tấm vải bịt mắt. Carl Jung? Thằng cha này muốn
nói gì vậy? “Có phải ông nhà tâm lý học không?”
“Đúng
vậy.”
“Coi
như là biết,” Ushikawa dè dặt trả lời. “Ông ta sinh ra ở Thụy Sĩ hồi cuối thế
kỷ thứ mười chín. Từng là học trò của Freud, nhưng về sau thì mỗi người một
ngả. Ông ấy đưa ra thuật ngữ ‘vô thức tập thể’. Tôi chỉ biết từng đó thôi.”
“Tốt
lắm.”
Ushikawa
đợi anh ta nói tiếp.
Tamaru
nói: “Carl Jung có một căn nhà trang nhã trong khu dân cư cao cấp bên bờ
Zurich, Thụy Sĩ, sống sung túc bên gia đình. Nhưng ông ấy cần một nơi có thể ở
một mình, để trầm tư về những vấn đề sâu sắc. Ông đã tìm được một mảnh đất
hướng ra mặt hồ ở khu vực tên là Bollingen và xây ở đó một căn nhà nhỏ. Không
thể gọi là biệt thự, chưa đến mức ấy. Tự tay Jung chất từng khối đá, xây một
căn nhà mái cao hình trong. Đã được mua ở khu khai thác đá ngay gần đó. Ở Thụy
Sĩ thời bấy giờ, muốn xây cái gì bằng đá cũng phải có giấy phép hành nghề thợ
đá. Vì chuyện này, Jung phải đi thi lấy giấy phép, ông còn gia nhập cả công hội
nghề nghiệp nữa. Xây dựng căn nhà này, và tự tay mình làm, đối với ông có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng. Bà mẹ qua đời cũng trở thành một nguyên nhân quan
trọng khiến ông bắt tay vào xây dựng căn nhà.”
Tamaru
ngưng một thoáng.
“Kiến
trúc ấy được gọi là “Tháp”. Ông tự thiết kế nó dựa theo những căn nhà nhỏ của
dân bộ lạc mà ông gặp hồi đi du lịch châu Phi. Không gian không một cách ngăn
ấy có thể dung nạp mọi thứ của cuộc sống. Một nơi ở hết sức giản dị. Ông cho
rằng như vậy là đủ để sống rồi. Không có điện, khí ga và nước máy. Nước được
dẫn từ trên núi ở gần đó xuống. Nhưng sau này ông mới hiểu, đây chẳng qua chỉ
là một nguyên mẫu mà thôi. Không lâu sau, để phù hợp với nhu cầu, ông dựng
những vách trong, chia “Tháp” ra thành nhiều ngăn, xây tầng hai, sau đó lại xây
thêm mấy gian nữa. Trên tường, ông tự mình vẽ tranh. Những bức tranh ám chỉ sự
phân tách và triển khai của ý thức cá nhân. Toàn bộ toàn kiến trúc có thể nói
có công dụng như một mạn-đà-la[1] lập thể. Kiến trúc này ông
mất mười hai năm mới hoàn thành. Đối với giới nghiên cứu Jung, nó là một kiến
trúc gây rất nhiều hứng thú. Anh đã từng nghe chuyện này chưa?”
[1] Mạn-đà-la (gốc tiếng Phạn madala): một hình vẽ
biểu thị vũ trụ trong cái nhìn một bậc giác ngộ. Trong tiếng Phạn, mandala có
nghĩa là một trung tâm (la) đã được tách riêng ra hay được trang điểm (mand).
Có thể coi Mạn-đà-la là một đồ hình vũ trụ thu nhỏ. “Mandala” dịch nghĩa theo
chữ Hán là “luân viên cự túc” (輪圓具足), nghĩa là vòng tròn đầy đủ. Theo ý nghĩa thực
tiễn, Mạn-đà-la là đàn tràng để hành giả bày các lễ vật hay pháp khí cho nghi
thức hành lễ, cầu nguyện, tu luyện,… Các tín đồ Ấn giáo, Phật giáo sử dụng
Mạn-đà-la như một pháp khí tạo linh ảnh, còn đối với các tín đồ Đại thừa, Kim
cương thừa thì Mạn-đà-la là một mô hình về vũ trụ hoàn hảo, trong đó có một hay
nhiều vị thần ngự trị. (Theo wikipedia tiếng Việt)