Én Liệng Truông Mây - Hồi 13 - Phần 1
HỒI THỨ MƯỜI BA
Việt nữ kiếm trở về cùng người Đại Việt
Hận Liên Trì, hào kiệt ứa lệ đề thơ.
*
Hồng Liệt đứng sau lưng Văn Hiến từ nãy giờ,
lên tiếng ngâm:
Mới
hay oan trái chữ tình
Đôi
khi mình tự buộc mình vào trong
Có
khi cũng bởi hóa công
Đẩy
cho trần thế vào vòng khổ đau.
Văn Hiến không quay lại nói:
- Ngươi nói hay lắm! Có khi mình tự buộc
mình, mà cũng có khi do con tạo trớ trêu buộc người vào đó.
- Coi bộ nàng đã nặng tình. Còn ngươi?
- Tình càng nặng chỉ càng thêm khổ đau mà
thôi. Ngươi có biết gia thế của nàng thế nào không?
Hồng Liệt đến ngồi trước mũi thuyền cạnh
Văn Hiến:
- Nói nghe thử.
- Bà ngoại của nàng là con gái của Ngô Tam
Quế và Trần Viên Viên. Cha nàng lại chính là giọt máu của Sấm Vương Lý Tự Thành
sót lại. Cuộc tao ngộ của họ thật là ly kỳ và đầy nước mắt.
- Thảo nào mọi người gọi nàng là công chúa.
Tiếng cười của Văn Hiến pha chút mỉa mai,
cay đắng:
- Còn ta thì
sao? Ha ha... Ngươi lại đi hỏi ta có nặng tình không?
- Tình yêu là
sự rung động của hai trái tim chứ đâu phải của hai dòng họ, cũng chẳng phải của
giàu nghèo, sang hèn.
- Đó chỉ là lý
tưởng, hay đúng hơn là hoang tưởng. Trong thực tế đời thường lại hoàn toàn khác.
Hoang tưởng dễ dẫn con người ta đi đến vực thẳm của khổ đau.
- Nàng có hỏi
ngươi bao giờ trở lại không?
- Có. Ta thật
hổ thẹn khi phải nối dối với nàng. Bao nhiêu đó thôi cũng đủ khiến ta thấy mình
hèn mọn, nhỏ nhoi trước nàng.
- Ngươi cũng
vì việc lớn mà thôi.
- Không thể dùng
nó để biện minh được. Đó cũng chính là đầu mối của sợi dây oan nghiệt. Tốt hơn hết
là phải tránh xa ra, ngay từ bây giờ.
- Lúc ngươi và
nàng đấu nhau ở Hội An ta có hơi ngờ ngợ rồi. Cho đến khi ngươi cứu nàng ở trong
động đá ở vịnh Vĩnh Hy thì ta cảm giác đây chính là chữ duyên mà người ta thường
nói.
- Chỉ e nó là
nghiệt duyên.
- Thì đành ôm
hận thôi. Mà có khi là lương duyên, nào ai biết trước được?
Văn Hiến bỗng
đứng lên.
- Gần đến Nhà
Bè rồi, chúng ta vào nói với chú Dụng đi.
Cả hai bèn vào
tách riêng Hữu Dụng ra nói chuyện. Văn Hiến nói rõ ý định của mình. Hữu Dụng hơi
ngạc nhiên nhưng ông nói:
- Làm như thế
hay đấy! Chúc
hai cậu may mắn. Nhưng sao phải xuống đến Nhà Bè mới lên bộ?
Hồng Liệt đáp:
- Sư huynh cháu có một cơ sở lớn ở xã Minh
Hương vùng Gia Định. Bọn cháu muốn dùng ngựa đi một vòng vùng đất Phiên Trấn cho
biết.
Văn Hiến tiếp lời:
- Cháu có phong thư, chú nhờ ai đó mang ra
Trần gia ở Liên Trì, gần chợ Trà Câu, Quảng Ngãi trao cho anh Đại Bằng, hoặc giao
cho người nhà Trần gia nhờ họ chuyển cho anh ấy giúp. Lúc chú trở vô, cháu muốn
biết tin của bọn họ ở ngoài đó thế nào, chú lưu tâm hộ cháu nhé.
Hữu Dụng gật đầu:
- Được, tôi sẽ sai Đỗ Trọng mang đi.
- Cảm ơn chú! Khi nào chú trở vào, bọn cháu
sẽ ghé thăm.
Hữu Dụng ra dấu cho thuyền rẽ vào nhánh sông
nhỏ xuống xã Minh Hương. Hồng Liệt và Văn Hiến lên bờ tìm đến cơ sở Thần Quyền Môn
lấy hai con ngựa tốt, họ đi một vòng lên tận Bình Dương rồi trở ngược về bến Bửu
Long lúc trời đã tối. Cả hai đến Long Thiền tự, được nhà sư trẻ Từ Huệ tiếp đón
rồi đưa vào hậu đường. Hai người làm lễ chào sư Phật Chiếu và nho hiệp. Văn Hiến
lo lắng hỏi:
- Sư phụ bị thương hôm đó đến nay đã đỡ chưa?
Vết thương có độc phải không? Mấy hôm nay con lo quá.
Nho hiệp mỉm cười nói:
- Thầy đã không sao. Thiên Ưng trảo quả nhiên
lợi hại. Không ngờ hắn còn luyện những móng tay mình với chất kịch độc nữa. Thầy
đã uống linh đan ngừa trước, lại phải mất hai ngày đêm vận khí trục độc nếu không
thì cánh tay trái e đã tàn phế rồi.
Sư Phật Chiếu nói:
- A Di Đà Phật. Ngả Phật từ bi. Tên Thiên
Ưng lão quỉ đó bàn tay phải bị xoi thủng ngay huyệt lao cung, tay trái lại bị Như
Lai chỉ điểm trúng huyệt thái uyên, đời này coi như hắn không còn có thể giết ai
được nữa rồi. Đó cũng là quả báo cho ác nghiệp của hắn.
Nho hiệp nói với Văn Hiến và Hồng Liệt:
- Tên Lý Văn Quang này thế lực rất lớn. Cao
thủ dưới tay hắn nhiều vô kể, đa phần là bọn ác đạo ở Trung Quốc. Hiến nhi và hiền
điệt cùng Thần Quyền Môn muốn chống lại hắn không phải là chuyện dễ. Trước tiên
phải luyện tập thêm võ công, thứ đến phải tìm thêm người trợ thủ. Nếu đụng việc
lớn hơn nữa thì phải nhờ đến binh lực của Trấn Biên. Ta thấy Cẩn Thành hầu là người
nghĩa khí và đởm lược, các con nên bàn bạc với ông ta. Hiền điệt đã bàn thảo cùng
sư huynh chưa?
Hồng Liệt đáp:
- Dạ rồi!
Chàng quay sang chắp tay vái sư Phật Chiếu:
- Xin thứ cho đệ tử vì đã có sư môn nên không
thể bái thiền sư làm thầy. Đệ tử nhất tâm thụ nghệ, nguyện đem hết sức mình phục
vụ cho đồng bào và đất nước để khỏi phụ lòng kỳ vọng của thiền sư.
Phật Chiếu nở nụ cười từ hòa:
- Lành thay, lành thay! Ta cũng sắp đến ngày
về hầu dưới chân Phật tổ, muốn để lại cho đời một chút công quả. Vốn biết con có
tâm căn tốt nên việc truyền thụ công phu hoàn toàn do ta tự nguyện, con không phải
áy náy.
Hồng Liệt quì xuống lạy Phật Chiếu một lạy
nói:
- Xin nhận của con một lạy này để đáp tạ
thâm ân!
Phật Chiếu nhận một lạy xong đỡ Hồng Liệt
đứng lên:
- Được rồi, các con đi nghỉ đi. Ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu.
Hôm sau, Phật
Chiếu đưa hai người vào hang động kín đáo và yên tịnh sâu trong núi. Trong động
thạch nhũ treo từng chùm lóng lánh, ánh dương quang bên ngoài hắt vào làm cho chúng
tỏa sáng như những chùm minh châu trông đẹp vô cùng. Phật Chiếu thiền sư nói:
- Hai con ở lại
đây mà luyện công, mọi nhu cầu ăn uống ta sẽ bảo Từ Huệ bảy ngày mang vào một lần.
Có gì trở ngại trong lúc tập luyện thì cho ta hay. Môn nội công mà ta sắp truyền
cho các con có tên Tiên thiên vô cực huyền công. Đây là sự kết hợp giữa huyền môn
công phu của nho hiệp và thiền công của Phật môn du nhập từ Ấn Độ sang. Giờ các
con chú ý nghe mà luyện tập.
Thiền sư bắt
đầu giảng giải:
- Trước hết phải
ngồi tọa công bằng tư thế kiết già, gạt bỏ mọi tạp niệm, tập trung ý chí. Khi tạp
niệm không còn, vừa hít vào vừa dùng ý để thu hút linh khí trời đất từ bên ngoài
xuyên qua huyệt thần đình, theo âm kinh của nhâm mạch qua huyệt đản trung rồi đưa
xuống đan điền. Tụ khí ở đan điền trong một thời gian ngắn rồi thở ra từ từ, đưa
chân khí tản mát khắp các huyệt đạo ở châu thân. Đó là bước đầu luyện khí khai thông
nhâm mạch. Luyện như thế liên tục cho đến khi các con cảm thấy lúc thở ra, chân
khí lưu thông khắp châu thân một cách thông suốt thì luyện sang giai đoạn hai. Giai
đoạn hai là giai đoạn luân chuyển vòng tiểu chu thiên, luyện nội công. Ở giai đoạn
này, khi khí tụ đan điền rồi thì ngưng hô hấp, dùng ý chuyển khí qua các huyệt trường
cường, hội âm, theo dương kinh của đốc mạch lên huyệt mệnh môn, đến huyệt đại chùy,
lên huyệt bách hội rồi trở lại thần đình. Đến đây là hết một vòng tiểu chu thiên.
Luyện vận hành khí theo vòng tiểu chu thiên càng nhiều, chân khí trong người càng
thông suốt, giúp đả thông mọi bế tắc trong hai hệ kinh mạch nhâm và đốc, đồng thời
giúp cho hai khí âm, dương trong cơ thể và kỳ kinh bát mạch giao thông, hòa hợp
với nhau. Khi khí đã lưu thông một vòng tiểu chu thiên được thuần thục các con sẽ
thấy mỗi lần đề khí, khí sẽ tụ ở đan điền rất sung mãn. Từ đó, nội lực sẽ tăng lên
rất nhanh. Đến đây các con đã qua được giai đoạn khai thông nhâm đốc nhị mạch. Sau
đó sẽ tập luyện chuyển chân khí khắp châu thân theo vòng đại chu thiên để bước vào
giai đoạn thứ ba là phát triển ngoại công. Nhờ khí lực sung mãn ở đan điền, dùng
ý đưa chân khí đi qua các đại tiểu huyệt khắp châu thân theo các hệ túc thái dương
kinh, túc thiếu dương kinh... Thực hiện vòng đại chu thiên này thông suốt sẽ đả
thông được sinh tử huyền quan, chân khí đầy thân thể, thu phát tự nhiên theo ý muốn.
Nên nhớ rằng, ý đâu thì thần và khí ở đó. Việc đả thông được sinh tử huyền quan
ở ngọc chẩm huyệt là mức thành tựu tối cần của võ học để trở thành cao thủ thượng
thừa. Đạt được cảnh giới Tam hoa tụ đính, Ngũ khí triều nguyên là bước tối hậu của
một cao thủ tuyệt đỉnh, nhưng điều này hoàn toàn tùy thuộc vào căn cốt bẩm sinh
của từng cao thủ, không thể miễn cưỡng được. Trăm năm chỉ có một, nếu miễn cưỡng
sẽ đưa đến hậu quả thảm khốc là tẩu hỏa nhập ma hay mất mạng. Vì nguyên lý cơ bản
của sự tu luyện là phải để nội khí vận hành theo luật tự nhiên của cấu tạo cơ thể,
hòa hợp với sự vận hành tự nhiên của hai khí âm dương trong trời đất nên không thể
cưỡng cầu. Hai con hiểu thông suốt cả ba giai đoạn này không?
Văn Hiến và Hồng
Liệt đồng thanh đáp:
- Dạ, chúng con
đã thông suốt!
- Tốt lắm! Hai
con đã có căn bản võ học nên việc thực hiện hai giai đoạn đầu sẽ không khó khăn
lắm. Từ hôm nay cứ bắt đầu tập luyện cho thật thông suốt rồi hãy sang giai đoạn
thứ ba. Giai đoạn thứ tư ta sẽ hướng dẫn sau.
Văn Hiến hỏi:
- Tư thế ngồi
kiết già có tác dụng thế nào trong việc đả thông hai mạch nhâm đốc và sinh tử huyền
quan, thưa sư bá?
- Luyện công
theo lối đả tọa mà các con đã theo từ trước là cách thức thông thường của người
học võ. Nhưng luyện công kết hợp với tư thế ngồi kiết già sẽ giúp người luyện công
cùng lúc đả thông kỳ kinh bát mạch và khai mở bảy Luân Xa dọc theo cột sống để phát
triển thêm năng lượng, bổ sung thêm khí lực cho cơ thể. Đây chính là giai đoạn thứ
tư.
Hồng Liệt hỏi:
- Luân Xa là
gì, thưa sư bá?
- Đó là tên gọi
của bảy vùng năng lượng nằm tại sáu đại huyệt có gốc từ cột sống và một đại huyệt
ở đỉnh đầu, chi phối những chức năng riêng của cơ thể. Tiếng Phạn cổ gọi là “Chakra”,
chúng ta gọi là Luân Xa. Nó là những điểm xoáy dùng làm nơi trao đổi năng lượng
của cơ thể với năng lượng của vũ trụ. Khai mở Luân Xa nào thì cơ thể sẽ có thể hấp
thu năng lượng của vũ trụ và giúp phát triển tốt chức năng của cơ thể thuộc hệ kinh
mạch ảnh hưởng bởi Luân Xa đó. Sự khai mở Luân Xa nếu sai lệch sẽ dẫn đến nguy hiểm,
dễ bị tẩu hỏa nhập ma, có khi đưa con người vào ma cảnh. Do đó, thế ngồi kiết già
vừa giúp tập luyện được tâm tịnh vừa giúp cho nội khí lưu chuyển dễ dàng từ Luân
Xa này đến Luân Xa khác.
Sau đó, Phật
Chiếu vừa giải thích vừa chỉ rõ cho hai người:
- Luân Xa thứ
nhất nằm tại huyệt hội âm, thứ hai tại huyệt trường cường, thứ ba tại huyệt khí
hải, thứ tư tại huyệt đản trung, thứ năm tại huyệt đại chùy, thứ sáu tại huyệt ấn
đường và thứ bảy là huyệt bách hội. Khai mở hoàn toàn được cả bảy Luân Xa này con
người sẽ trở thành bậc đại thánh. Tuy nhiên, điều này rất hiếm, vì bất kỳ người
nào cũng có những khiếm khuyết trên cơ thể, cho nên Luân Xa của bộ phận khiếm khuyết
đó không thể khai mở hoàn toàn được.
Từ đó, Văn Hiến
và Hồng Liệt mỗi người một gian động chu trì tập luyện. Trong khi Hồng Liệt an nhiên
tu tập thì Văn Hiến lại bị bao nhiêu tạp niệm quấy rối. Hình bóng của Dung Dung,
những giọt nước mắt, chiếc khăn tay và bài thơ cứ lảng vảng trong đầu. Phải mất
gần bảy ngày với sự cố gắng ghê gớm chàng mới dẹp bỏ được những tạp niệm mà chuyên
tâm tịnh trí tĩnh tọa. Khi đói thì đã có thức ăn do Từ Huệ mang vào, khi khát đã
có dòng suối chảy qua lòng động đá cho nên hai người cứ như vậy mà chuyên tâm tập
luyện đến quên cả thời gian. Thỉnh thoảng, sư Phật Chiếu ghé lên hỏi thăm thành
quả đạt được, chỉ dẫn thêm cách đưa chân khí theo vòng đại chu thiên đến từng kinh
mạch nhỏ khắp cơ thể. Trong suốt thời gian đó, mọi liên lạc với bên ngoài đều bị
thiền sư cắt đứt để tránh phiền nhiễu đến tâm của hai người.
***
Nhắc lại Hữu
Dụng, khi về đến Quy Nhơn ông liền đưa bức thư của Văn Hiến cho Đỗ Trọng đem ra
Liên Trì trao lại cho Đại Bằng. Đại Bằng và Kim Hùng đọc thư xong, thấy tình hình
tạm ổn nên từ giã Nguyên Hào để trở về Phú Xuân bắt đầu triển khai việc thành lập
bang Hành Khất. Về đến Phú Xuân, Đại Bằng tìm gặp Đoàn Phong tại tư gia để báo cho
chàng biết mọi việc. Nghe xong, Đoàn Phong mừng rỡ nói:
- Như vậy cũng
hay. Tuyết Hoa vừa sanh nở xong, tiểu đệ cũng cần có chút thời gian ở nhà để chăm
sóc cho hai mẹ con nàng.
Đại Bằng hân
hoan:
- Vậy sao? Mẹ
tròn con vuông chứ? Chị nhà sinh cháu trai hay gái?
- Cảm ơn anh,
cả hai đều tốt. Nàng sinh cháu trai.
- Chúc mừng anh!
Vậy là anh thoát được cái tội “vô hậu vi đại” rồi. Chả bù với tôi, tôi mong
hoài một mụn con mà không được. Có thể cho tôi nhìn mặt cháu được không?
- Được chứ! Tôi
còn đang muốn nhờ anh xem thử mai này tương lai của cháu sẽ ra sao.
Tuyết Hoa vừa
sanh xong chưa tròn tháng, nàng theo chân Đoàn Phong ra phòng khách để chào Đại
Bằng. Đoàn Phong bế đứa bé trên tay nói:
- Đây là Tuyết
Hoa, mẹ của cháu. Anh Trần Đại Bằng, người bạn mới quen của anh. Còn đây là công
tử nhà họ Đoàn và họ Lê của chúng tôi.
Tuyết Hoa dịu
dàng nói:
- Muội xin ra
mắt Bằng huynh.
Đại Bằng vội
cúi chào đáp lễ:
- Xin chào chị!
Chị chưa khỏe hẳn không cần phải đa lễ, là bạn bè cả mà. Đâu, để tôi xem công tử
nào.
Đoàn Phong trao
thằng bé cho Đại Bằng. Quan sát một lúc, Đại Bằng trao con lại cho Đoàn Phong rồi
nghiêm giọng nói:
- Đứa bé này
ngũ quan đoan chính, tú khí khắp người, là long là phượng trong đời. Nếu gặp thời
loạn tất nổi danh hào kiệt nhất phương, vẫy vùng một cõi. Duy với cái nét mỹ nam
tử quá đặc biệt này, chỉ e về sau sẽ khốn đốn trong tình trường nhi nữ. Cháu tên
gì?
Đoàn Phong trao
con lại cho vợ, cả hai không giấu được nét vui mừng:
- Tên cháu là
Đoàn Phi. Cảm ơn anh đã thương cháu mà nói như vậy. Vợ chồng tôi sẽ cố gắng dạy
dỗ nó nên người hữu dụng.
Tuyết Hoa chào
Đại Bằng rồi bế con vào trong. Đại Bằng hỏi:
- Công việc ở
chỗ Võ Trụ huynh thế nào rồi?
- Rất tốt! Võ
Trụ huynh là người trung thực và liêm chính. Mỏ vàng hứa hẹn một trữ lượng lớn,
tình hình đang phát triển theo chiều hướng tốt đẹp.
- Chúa Võ vừa
đăng vương đã gặp được chuyện may mắn như thế, đó là điềm lành cho đất nước.
- Mong mọi sự
đều tốt lành. Việc
ở Trần gia thì sao?
- Trần huynh cho rằng một khi đã lộ diện
thì có lánh mặt cũng không được, tránh được một lúc nhưng không tránh được cả đời.
Việc gì phải đến sẽ đến.
- Cũng đành vậy thôi. Giờ chỉ còn lưu tâm
đến động tịnh của bọn Diệp Sanh Ký.
- Tôi sẽ bắt đầu việc thành lập bang Hành
Khất để có thêm người giúp cho những bà con đói rách lang thang bỏ Đàng Ngoài chạy
vào đây lánh nạn. Có việc gì cần thiết chúng ta liên lạc với nhau nhé.
- Vâng!
Đại Bằng kiếu từ ra về. Đoàn Phong tiễn bạn
về xong vào trong nói với Tuyết Hoa:
- Nàng thấy nhận xét của Đại Bằng giống ta
không? Con chúng ta mai sau chắc chắn sẽ là tay hào kiệt trong đời, không như cha
nó chạy ngược chạy xuôi mà chẳng nên cơm cháo gì. Có một người vợ tuyệt vời như
nàng mà cũng không lo nổi một cuộc sống sung túc, thật chẳng ra gì!
Tuyết Hoa âu yếm nhìn con rồi quay sang chồng
nói:
- Chàng là một anh hùng, chỉ vì sinh không
đúng thời nên lận đận mà thôi. Giờ đã có Phi nhi, chúng ta coi như không kể đến
đời chúng ta, hãy gom hết sức mà đào tạo cho tương lai của nó. Họ Đoàn và họ Lê
mai sau nhờ nó mà lưu danh thì chúng ta mãn nguyện rồi.
Đoàn Phong nắm tay vợ mỉm cười nói đùa:
- Hay nàng sinh thêm một thằng cu nữa đi,
rồi cho nó mang họ Lê của nàng thì ta mới an tâm.
- Ham quá! Lo cho thằng nhóc này trước đã.
Hai vợ chồng từ khi lưu lạc xứ người, nhờ
chút bổng lộc của triều đình cấp cho nên cuộc sống tương đối cũng dễ chịu. Nay họ
có thêm đứa con như ý, hạnh phúc càng tràn trề. Tuyết Hoa vốn là con gái của Thượng
thư Lê Anh Tuấn, người đã bị Trịnh Giang biếm chức, đày lên Lạng Sơn đến phải uống
thuốc độc tự vận.
***
Rằm tháng bảy, năm Bính Dần 1746, đời Lê
Hiển Tông Cảnh Hưng năm thứ 7.
Nhân việc mỏ vàng Kim Sơn năm ngoái mang
về cho quốc khố một lượng rất lớn nên quan ngoại tả Trương Phúc Loan và một số đại
thần dâng biểu tâu rằng mùa lễ Vu Lan năm nay nên lập đàn cúng tế để tạ ơn trời
đất, mở kho chẩn bần cũng như khuyến khích dân chúng trong nước nhớ đến mùa đại
lễ báo hiếu. Võ vương đẹp ý bèn chuẩn tấu. Các triều thần đề nghị việc cúng tế nên
làm ở chùa Thiên Mụ, giao cho thiền sư Minh Giác và sư đệ là Vô Danh thiền sư phụ
trách. Võ vương cũng muốn gặp mặt Vô Danh thiền sư để tỏ lời ngợi khen thầy trò
ông nhưng biết Vô Danh thiền sư rất ít khi chịu xuất hiện trước nơi đông người nên
đã đích thân hạ chiếu, cho người mang vào tận Bích Khê để triệu thỉnh. Vô Danh thiền
sư không thể từ chối đành phải theo thuyền của phủ Chúa ra Phú Xuân để cùng sư huynh
lo việc đăng đàn chẩn tế.
Đại lễ Vu Lan năm đó được triều đình tổ chức
trọng thể, Võ vương cho mở kho cấp phát cho những kẻ nghèo khó, bọn ăn mày khắp
đất nước. Thật là một ngày hội lớn của quốc gia. Sau khi đại lễ hoàn tất, Vô Danh
thiền sư định rời Phú Xuân trở về Bích Khê thì quan ngoại tả Phúc Loan đã đích thân
đến gặp. Quan ngoại tả khẩn khoảng:
- Không dễ mấy khi được gặp thiền sư, nay
nhân cơ hội hiếm có này dám mong thiền sư ghé đến tư gia phóng bút đề cho mấy chữ
để lưu truyền lại cho con cháu đời sau. Đó là phúc ba đời của họ Trương chúng tôi
vậy.
Vô Danh thiền sư thấy quan ngoại tả đích
thân tìm đến năn nỉ nên không tiện từ chối. Ông nói:
- Quan ngoại tả đã nhờ, bần tăng đâu dám
chối từ.
Phúc Loan mừng rỡ bèn mời thiền sư lên xe
ngựa về tư dinh của mình ở mé sông Hương, cách chùa Thiên Mụ không xa. Dinh thự
họ Trương mấy đời công hầu nên rất rộng lớn và tráng lệ. Trương Phúc Loan mời Vô
Danh thiền sư vào nhà thờ tổ của dòng họ, bày giấy, nghiên, nhiều loại bút lên bàn
xong nói:
- Cũng không dám phiền đến thiền sư nhiều,
chỉ mong ngài phóng bút viết cho một chữ “Trương” thật lớn để treo vào bức vách
bên trên các linh vị tổ tiên nhà chúng tôi là đủ.
Vô Danh thiền sư niệm một câu Phật hiệu rồi
bước đến chọn cây bút lớn nhất, chấm mực, khoa tay phóng bút. Nét bút sinh động,
vừa có thần vừa có uy. Trương Phúc Loan tuy không sành về nghệ thuật tự họa nhưng
cũng biết đây là một tuyệt bút trên đời hiếm thấy nên cảm ơn rối rít:
- Đa tạ thiền sư! Họ Trương nhà tôi thật
có duyên phước lớn mới được thiền sư ban cho bức tự họa này. Chúng tôi sẽ treo lên
đây để cho con cháu đời đời chiêm ngưỡng.
Vô Danh thiền sư chắp tay niệm Phật hiệu
nói:
- Ngài ngoại tả không nên nói quá. Giờ bần
tăng xin cáo từ.
Phúc Loan vội nói:
- Cũng đúng ngọ rồi, chúng tôi đã chuẩn bị
sẵn một bữa cơm chay gọi là tỏ chút lòng thành kính. Mời thiền sư thọ trai, xong
tôi cho người đưa xuống thuyền sang sông cũng chưa muộn.
- Đã vậy bần đạo cũng không khách sáo.
Phúc Loan lịch sự ngồi cùng để tiếp đãi,
ông nói:
- Đáng tiếc người con rể của tôi là Tôn Thất
Dục hôm nay lại không có mặt ở đây, nếu không để nó tiếp thiền sư thì hay biết mấy.
- Quí hiền tế tinh thông cả cầm kỳ thi họa,
là một nhân tài của đất nước. Tôi rất ái mộ ông ta.
- Cũng là nhờ phước đức tổ tiên để lại nên
mới chọn được người con rể giỏi giang như thiền sư đã ngợi khen.
Buổi cơm chay xong, Phúc Loan cho người mang
trà lên mời thiền sư. Phúc Loan vì có bệnh nên dùng một chén thuốc riêng, ông nói:
- Tôi không uống trà được vì đang thời kỳ
dùng thuốc. Mời thiền sư dùng thử loại trà Thiết Quan Âm của Tàu này xem có thích
hơn trà Thái Nguyên của mình không?
Vô Danh thiền sư bưng tách trà uống từng
hớp nhỏ xong gật gù khen:
- Ngon, rất ngon. Hương thơm thanh nhã, vị
đậm đà. Đúng với cái tên Thiết Quan Âm.
- Nếu thiền sư không chê, tôi xin kính một
ít để thiền sư hàng ngày dâng Phật.
Nói xong Phúc Loan rót thêm trà vào tách,
quay qua dặn gia nhân vào gói mấy hộp Thiết Quan Âm mang ra. Phúc Loan cung kính:
- Chút lòng hiếu kính dâng Phật, mong thiền
sư nhận cho.
Vô Danh thiền sư mỉm cười:
- Đa tạ! Giờ xin cáo từ.
Phúc Loan lại nói:
- Tôi có con thiên lý mã ngày đi ngàn dặm
muốn tặng thiền sư để làm phương tiện trở về cho chóng, việc gì phải đi bộ cho nhọc
sức?
- A Di Đà Phật. Mọi chúng sinh đều bình đẳng.
Đã là kẻ tu hành sao còn bắt ngựa phục vụ cho thân ta? Ý đẹp của ngài ngoại tả tôi
xin tâm lãnh.
Phúc Loan chắp tay nói:
- Nhưng cũng phải để cho gia nhân dùng xe
đưa ngài xuống bến thuyền cho trọn tình chủ khách mới được.
Phúc Loan tiễn thiền sư ra trước sân, sai
người dùng xe ngựa đưa thiền sư xuống bến thuyền. Chờ cho xe đi khuất ông mới trở
vào trong nhà.
Một người đàn ông từ phía sau bước lên cúi
đầu cung kính nói:
- Mọi việc coi như thu xếp đã ổn rồi. Giờ
hạ nhân phải trở về Bồng Sơn gấp để chuẩn bị khởi sự.
Người đàn ông đó không ai khác ngoài Trần
Đại Chí. Hắn ở tù ra, lấy cớ phải tạ ơn quan Ngoại tả đã giúp đỡ nên khẩn cầu Hoàng
Công Đức tiến cử cho hắn gặp mặt Trương Phúc Loan. Được Phúc Loan nhận lời, hắn
bèn mang theo một ngàn lượng vàng dâng lên để tạ ơn. Phúc Loan thấy hắn có tiền,
lại khéo léo bợ đỡ nên tin dùng. Từ đó, hắn thường xuyên ghé thăm ngài ngoại tả,
thỉnh thoảng lại đề cập tới chuyện mỏ vàng Kim Sơn để kích động lòng tham của Phúc
Loan. Phúc Loan từ lâu cũng thèm cái mỏ vàng đó lắm, ngặt nỗi Võ Trụ là người của
Võ vương đặc trách bổ nhiệm nên không tiện thay thế tay chân của mình vào. Đang
suy tính để tìm cách gạt tên Võ Trụ cứng đầu ra khỏi miếng mồi béo bở đó thì Trần
Đại Chí lại hiến kế lên. Hắn nói mọi chuyện cứ để hắn lo, chắc chắn Võ Trụ sẽ nhanh
chóng không còn là chướng ngại vật ngăn cản vàng chảy vào túi của quan ngoại tả
nữa. Phúc Loan nghe nói mùi tai bèn y kế.