Én Liệng Truông Mây - Hồi 12 - Phần 2
Văn Hiến với tay lấy bình nước treo trên
lưng con ngựa của Dung Dung đứng cạnh đó, mở nắp ra rồi đưa cho nàng. Dung Dung
uống một hớp rồi trao lại cho chàng. Văn Hiến hỏi:
- Sau đó bá mẫu gặp Lý vương gia và họ cưới
nhau phải không?
Dung Dung ngồi im lặng, nước mắt lại tuôn
trào chảy dài trên hai gò má mịn màng, long lanh như những viên ngọc lăn trên tấm
lụa ngà. Khuôn mặt đẫm lệ đó càng khiến nàng đẹp đến nao lòng. Văn Hiến sững người
nhìn nét kiều diễm ấy, lòng không khỏi thầm nghĩ: “Nhan sắc khuynh thành là đây,
thảo nào Lý Tự Thành và Ngô Tam Quế ngày xưa chỉ vì một Trần Viên Viên mà nghiêng
đổ giang san!”. Dung Dung chợt quay lại và bắt gặp Văn Hiến đang ngẩn người nhìn
mình, nàng e thẹn hỏi:
- Trương huynh đang nghĩ gì vậy?
Văn Hiến giật mình bối rối định chối quanh
nhưng tính chàng vốn thật thà nên ngượng ngùng đáp:
- Ơ... tôi... bây giờ tôi đã hiểu vì sao
ngày xưa ngoại tổ của công chúa dám đạp đổ mọi thứ để giữ cho được ngoại tổ mẫu.
Dung Dung hiểu ý tứ trong câu nói đó nên
mặt nàng đỏ bừng lên vì thẹn và vui sướng. Nàng hỏi nhỏ:
- Nếu là Trương huynh thì sao?
Mặt Văn Hiến cũng đỏ bừng lên, chàng quay
đi nơi khác đáp:
- Tôi đâu phải anh hùng nên không có duyên
thử thách vượt ải mỹ nhân.
Dung Dung buông nhẹ tiếng thở dài. Một lúc
lâu nàng hỏi:
- Lúc nãy Trương huynh hỏi tôi điều gì nhỉ?
- Sau đó vương gia và bá mẫu cưới nhau phải
không?
Dung Dung chặc nhẹ lưỡi than:
- Nếu dòng đời cứ êm xuôi như vậy thì thế
gian đâu còn mấy chữ hồng nhan bạc mệnh.
- Xin lỗi đã vô tình khơi lại những điều
không vui.
Dung Dung cầm chiếc khăn của Văn Hiến đưa
lên chặm nước mắt:
- Không sao. Trương huynh không gợi lại nó
vẫn sống mãi trong lòng tôi.
Nàng hít một hơi dài để dằn những cảm xúc
đang dâng lên trong lòng, kể tiếp:
- Mẹ tôi đẹp lắm. Ngoại nói thế, mà ngoại
cũng rất đẹp nữa. Đó là ghi nhận của tôi từ bé lúc còn sống với bà. Trong một đêm
hội đón trăng rằm Trung Thu trên sông Cửu Long ở Phúc Kiến, mẹ tình cờ cứu được
một kiếm khách của Thiên Địa Hội đang bị trọng thương vì triều đình truy sát. Sau
đó, họ yêu nhau. Thời gian ấy ở Phúc Kiến, hiệu buôn Diệp Sanh Ký đang hồi cực mạnh.
Họ bóp chết dần các thương hiệu nhỏ để thống trị thương trường và cả hải cảng Hạ
Môn. Ngoại tôi bị phá sản, ông chủ của Diệp Sanh Ký buộc ngoại phải gả mẹ cho ông
ta để trừ nợ. Ngoại cùng đường đành phải nhận lời, nhưng vì uất hận trong lòng nên
ông ngoại lâm bệnh rồi qua đời ngay sau khi mẹ xuất giá. Bà ngoại theo về ở chung
với mẹ vì chẳng còn ai.
- Đó là Lý vương gia bây giờ phải không?
Dung Dung im lặng gật đầu. Nàng thở dài tiếp:
- Mẹ tôi bị lỡ mối tình, ôm nỗi buồn thầm
kín về sống với chồng được một năm thì sinh ra tôi. Dù được gia phụ hết mực yêu
thương nhưng mẹ lúc nào cũng u sầu, lặng lẽ. Cho đến khi nghe tin người yêu cũ bị
quan quân bắt đem bêu đầu giữa chợ, mẹ thổ huyết rất nhiều rồi lâm trọng bệnh và
qua đời lúc tôi chưa đầy hai tuổi. Năm năm sau đó, bà ngoại cũng từ trần. Gia phụ
thương mẹ lắm nên sau khi mẹ qua đời, người ở vậy chờ tôi lên mười tuổi mới cưới
vợ lần nữa. Tôi giống mẹ như đúc nên gia phụ hết mực nuông chiều, muốn gì được nấy
và cấm tuyệt mọi người làm phật lòng tôi. Vì vậy lâu ngày, dần dà đã làm cho bộ
mặt và tính cách của tôi trở nên đáng ghét như Trương huynh châm biếm hôm trước.
- Xin lỗi.
- Không sao. Đôi khi tôi cũng tự ghét cả
bản thân mình.
- Hình như Âu Dương huynh không thuộc Kim
Cương Môn?
- Gia đình họ Âu Dương có tuyệt nghệ riêng
của họ, đó là Dương gia thương nổi tiếng khắp thiên hạ. Sau này, vì sợ lộ chân tướng
nên họ đổi thương pháp thành đao pháp. Trước giờ họ vẫn theo phục vụ cho chúng tôi,
nhưng chúng tôi coi họ như người thân trong gia đình mình.
- Do đó họ vẫn còn giữ thói quen gọi ngoại,
mẹ và Dung Dung là công chúa phải không?
- Vâng, nhưng chỉ kín đáo trong vòng nội
bộ gia đình mà thôi, vì họ Ngô chúng tôi vẫn còn bị triều đình truy lùng, bị mọi
người căm ghét và khinh bỉ.
- Tôi thấy họ vẫn gọi Dung Dung là công chúa
một cách công khai mà?
- Mọi người dám gọi công khai là do ở phía
nội tổ chứ không phải bên ngoại tổ. Không ai biết chúng tôi thuộc dòng họ Ngô cả.
Văn Hiến hơi ngần ngừ:
- Lý vương gia là...
Dung Dung thấy chàng do dự bèn đáp thay:
- Là hậu duệ của Sấm Vương.
Văn Hiến cảm thán:
- Thật là một thiên tình sử oan khiên, hết
ly biệt rồi lại tương phùng...
Dung Dung ngắt lời:
- Nhưng dù ly biệt hay tương phùng, bao giờ
cũng đầy máu và lệ. Đó là những cái giá phải trả của danh tướng và mỹ nhân chăng?
Văn Hiến nhìn bức họa nói sang chuyện khác
để cho Dung Dung vui:
- Sư phụ bảo, nghe nói lúc sinh thời Thạch
Đào vẫn thường tự hào về tài thư họa của mình, nhưng sau khi vẽ xong bức họa này
ông đã than rằng tài nghệ của ông còn quá non kém nên không lột tả được hết vẻ đẹp
thật sự của mỹ nhân Viên Viên.
Dung Dung ánh mắt thoáng hiện niềm vui nhưng
giọng trở nên u buồn hơn:
- Cũng vì vậy mà cuộc đời ngoại tổ mẫu mới
phong ba chìm nổi, còn bị gán cho là “hồng nhan họa thủy”, ngàn đời mang tội danh
là người làm sụp đổ nhà Minh, khiến cho giang san của Hán tộc rơi vào tay người
Mãn.
Văn Hiến an ủi:
- Đó là những lời vu khống bất công của những
kẻ thất phu. Họ muốn chối bỏ trách nhiệm và sự bất lực của mình nên đem đổ hết tội
vào người của một thiếu nữ tay yếu chân mềm như ngoại tổ mẫu. Ngô Vĩ Nghiệp thật
đáng để chúng ta ngả nón cúi đầu.
Dung Dung nhìn chàng với ánh mắt biết ơn:
- Cảm ơn Trương huynh.
Mây đen bỗng dưng ùn ùn kéo đến giăng kín
bầu trời. Gió từ sông Đồng Nai thổi lên mang theo hơi nước lành lạnh. Văn Hiến nói:
- Chúng ta mau lên chùa Bửu Long. Trời sắp
mưa lớn.
Dung Dung cẩn thận cuộn bức họa đút vào ống
trúc rồi trả lại cho Văn Hiến. Văn Hiến nhìn nàng mỉm cười nói:
- Tặng cho Dung Dung.
Nàng mừng rỡ reo lên:
- Thật ư? Sư phụ của Trương huynh có đồng
ý không?
- Đây là phiên bản người mới họa lại mấy
hôm trước, khi nghe tôi hỏi mượn bức họa để đưa Dung Dung xem. Người nói tặng lại
cho Dung Dung, chỉ là đừng bao giờ cho ai biết xuất xứ của bức họa.
- Vâng, tôi sẽ giữ kín việc này. Cho tôi
gởi lời cảm tạ đến sư phụ của Trương huynh nhé. Đây là món quà quí giá nhất đời
tôi. À, có phải sư phụ là người đã đánh bại Thiên Ưng lão quỉ hôm đó không?
- Đúng vậy!
- Minh sư xuất cao đồ, lời nói ấy quả không
sai.
Văn Hiến cười nhăn nhó:
- Thấp đồ thì có. Dung Dung không thấy tôi
bị thua thảm hại như thế nào sao?
- Hôm đó tôi thật không tin Trương huynh
bị bại như thế.
Văn Hiến muốn tránh nói về chuyện này nên
giục:
- Chúng ta đi nhanh kẻo bị mắc mưa!
Hai người lên ngựa chạy thẳng đến chùa. Cách
chùa không xa có một cây bồ đề lớn, tàng lá sum sê, bên dưới có một mái nhà lá,
khi hai người sắp đến nơi thì mưa đã rơi nặng hạt. Văn Hiến sợ Dung Dung bị ướt
nên la lớn:
- Chúng ta vào núp tạm dưới gian nhà lá kia
đi!
Họ dừng ngựa dưới tàng cây, nhảy xuống và
chạy vào. Nước mưa đổ xuống như trút, gian nhà lá trống bốn bề, gió thổi mạnh hắt
vào khiến Văn Hiến phải đứng che cho Dung Dung khỏi bị ướt. Chàng nói lớn trong
tiếng mưa:
- Cẩn thận kẻo ướt bức họa. Miền đất Trấn
Biên này thường hay có những cơn mưa rào bất ngờ như thế. Mưa đột ngột như trút
nước nhưng rồi tạnh cũng rất nhanh, sau đó trời lại quang đãng như chưa hề có mưa
vậy. Khác với miền Phú Xuân quê tôi, mùa mưa trời thường u ám cả tháng, những cơn
mưa có khi kéo dài lê thê mấy ngày đêm không dứt. Buồn chết đi được.
Dung Dung mỉm cười nói:
- Trương huynh lại thử xuất khẩu thành thơ
về cảnh mưa rơi đi.
Nàng núp sát vào người Văn Hiến để tránh
những hạt mưa. Mùi hương từ cơ thể và mái tóc tỏa ra dìu dịu khiến Văn Hiến có cảm
giác thật êm đềm ngây ngất. Chàng chầm chậm ứng khẩu ngâm nga:
Triêu dương mộ vũ dục tri nan
Ly biệt tương phùng nhân thế oan
Di điểu đông tàn qui Bắc tái
Ngô đồng tịch mịch hướng Nam Quan.
Tạm dịch:
Việc sáng nắng chiều mưa muốn hiểu được thật
khó
Chia ly và đoàn tụ là nỗi oan khiên của thế
nhân
Hết mùa đông đàn chim thiên di trở về ải
Bắc
Cây ngô đồng lặng lẽ hướng về ải Nam Quan.
Dung Dung nghe Văn Hiến ngâm mấy câu thơ,
bỗng dưng cảm thấy nao nao trong lòng. Nàng hơi ngước lên đưa ánh mắt dịu dàng nhìn
chàng, mấp máy đôi môi định đáp lại, nhưng nghĩ đến mình là phận nữ nhi, không thể
tỏ rõ nỗi lòng nên nàng đành nuốt mấy câu thơ vào lòng. Một lúc sau nàng hỏi nhỏ:
- Có con chim phương Bắc nào ở lại miền Nam
khi mùa đông đã hết không?
Văn Hiến nhìn ra ngoài trời mưa đáp:
- Không!
- Vì sao?
- Trời ban cho mọi sinh vật một thiên tính
và môi trường sống tự nhiên thích hợp. Bắc điểu không thể sống còn với khí hậu nóng
bức ở miền Nam khi xuân sang hạ đến.
- Tuyệt không có trường hợp ngoại lệ ư?
- Có, nhưng sẽ trăm cay ngàn đắng. Chỉ e
cuối cùng rồi phải hối hận vì cưỡng lại lòng trời.
Gió đã giảm nhẹ nhưng mưa càng lớn hơn, tiếng
mưa rơi rào rào trên mái lá thật vui tai. Nước đọng ngập cả khoảnh đất trước sân
chùa. Dung Dung nhìn những giọt mưa rơi tạo thành những bong bóng trên mặt nước
rồi trong tích tắc vỡ tan, giọng nàng buồn buồn:
- Buồn nhỉ? Còn con người thì sao?
Văn Hiến hơi nhích người ra vì mưa đã thôi
hắt vào người Dung Dung, chàng đáp:
- Con người cũng chỉ là một sinh vật trong
vũ trụ này nên tất nhiên sẽ chịu chung một qui luật tự nhiên đó rồi.
- Nhưng con người có lý trí và tình cảm phát
triển cao hơn những sinh vật khác.
- Cũng chính vì sự phát triển cao hơn đó
mà con người có khả năng đi ngược lại với tự nhiên và do đó chịu nhiều đau khổ hơn
những sinh vật khác.
Dung Dung nhìn sâu vào mắt Văn Hiến:
- Biên giới giữa hạnh phúc và đau khổ thật
mong manh. Con người nhiều khi chỉ tìm thấy hạnh phúc trong sự đau khổ, như sự đau
khổ trong tình yêu chẳng hạn.
Văn Hiến thở dài:
- Cho nên đời là bể khổ. Bể ái tình còn trầm
luân hơn nữa.
Cơn mưa sắp tạnh được báo hiệu bằng những
tia chớp giăng trời và những tiếng sấm vang động không gian, dội khắp núi rừng làm
gián đoạn dòng tư tưởng của hai người. Một lát sau, mưa dần nhẹ hạt. Dung Dung hỏi:
- Trương huynh chừng nào trở lại Hội An?
Văn Hiến hơi do dự khi phải nói dối nhưng
không còn cách nào khác, chàng đành đáp:
- Ngày mai!
Nàng tròn xoe mắt nhìn chàng:
- Mai đã đi rồi
ư? Thương thế của Trương huynh đã khỏi hẳn chưa?
- Đã! Cảm ơn
sự quan tâm của Dung Dung.
- Trương huynh
có trở lại đây nữa không?
- Chưa biết được.
Nếu có trở lại cũng phải dăm bảy tháng sau.
Dung Dung im
lặng đứng nhìn mưa rơi, nàng đưa bàn tay trắng như ngọc với những ngón tay thon
nhỏ hứng những giọt nước mưa chảy xuống từ mái lá. Hồi lâu nàng lên tiếng, giọng
u buồn:
- Lâu nhỉ?
- Dung Dung khi
nào trở về Phúc Kiến?
- Không phải
Trương huynh vừa nhắc là tàn đông sao?
Văn Hiến bối
rối đáp:
- Tôi chỉ nói
về loài chim thiên di để cho tròn ý của bài thơ về chuyện mưa nắng mà thôi. Dung
Dung đâu phải loài chim ải Bắc.
Giọng Dung Dung
như có chút hờn dỗi:
- Nhưng tôi là
người phương Bắc. Trương huynh chẳng vừa nói người cũng có thiên tính và môi trường
sống riêng giống như loài chim sao?
Văn Hiến quay
mặt nhìn ra phía xa xa để tránh ánh mắt của Dung Dung.
- Vâng, tôi có
nói. Và như thế có lẽ mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Mưa đã tạnh, chiều xuống rồi, chúng
ta vào thăm chùa hay trở về?
Dung Dung đáp,
giọng nặng trĩu:
- Về!
Họ lên ngựa theo
con đường cũ trở lại Trấn Biên. Cơn mưa lớn làm đường ngập nước, cả hai cho ngựa
đi thong thả từng bước một vì sợ nước bắn lên bộ quần áo trắng tinh của Dung Dung.
Họ đi trong im lặng, không nói gì cho đến khi dừng chân ở ngôi tửu quán đã hẹn nhau
với bọn Thu Hồng ban sáng. Hai người cột ngựa vào bên trong, người chủ quán nhắn
lại là Thu Hồng và Âu Dương Long đã về trước. Văn Hiến nói:
- Thu Hồng cô
nương thật khéo léo. Có lẽ cô ấy muốn tôi đưa Dung Dung về đến nhà cho trọn tình
chủ khách và cho đủ lễ của người hướng dẫn viên đây mà. Chúng ta nên ăn chút gì
đã chứ?
- Vâng. Và một
chút rượu.
Văn Hiến gọi
thức ăn và một bình rượu Nữ Nhi Hồng. Chàng rót rượu ra chung.
- Mời Dung Dung!
Dung Dung tay
bưng ly rượu, nhìn vào mắt Văn Hiến hỏi:
- Ly này uống
cho điều gì đây?
Văn Hiến cúi
xuống nhìn ly rượu trên tay đáp nhỏ:
- Cho tình bạn
của chúng ta.
Hai người lặng
lẽ uống cạn. Dung Dung với lấy bình rượu rót ra chung.
- Mời Trương
huynh!
- Ly này uống
cho điều gì?
- Cho tương phùng!
Hai người lại
uống cạn. Đến lượt Văn Hiến rót rượu.
- Mời Dung Dung!
- Ly này cho
điều gì?
- Cho tạm biệt!
Nàng nâng ly
lên nhưng không uống, cả chàng cũng vậy. Trong thâm tâm cả hai đều không muốn uống
ly rượu này. Họ cúi đầu nhìn chung rượu trên tay mình rất lâu rồi bỗng cả hai cùng
lúc ngước lên. Bốn mắt chạm nhau và họ đều đã nhận thấy được nỗi buồn đang chìm
sâu trong đáy mắt của nhau. Văn Hiến vội đưa ly rượu lên uống cạn. Dung Dung cũng
uống theo. Họ rời quán, lên ngựa lặng lẽ trở về. Màn đêm buông xuống đã lâu, bầu
trời đầy sao, mảnh trăng lưỡi liềm non như chiếc lá lúa gác trên hàng cây bên bờ
sông Sa Hà. Khi hai con ngựa qua gần hết chiếc cầu ván, Dung Dung thở dài nói nhỏ:
- Trăng khuyết
rồi lại tròn, người hợp rồi lại tan.
- Đó là cuộc
bi hoan của trần thế. Chúc
Dung Dung ngủ ngon. Mong có ngày gặp lại.
Dung Dung nói thật nhanh:
- Mong có ngày gặp lại.
Rồi nàng không ngoảnh lại, giục ngựa phóng
nhanh vào khuôn viên trang viện Diệp Sanh Ký. Thu Hồng và Âu Dương Long có lẽ đã
đứng chờ nơi cổng từ lâu nên khi vừa thấy nàng, cả hai vội chạy ra đón. Văn Hiến
ngẩn ngơ nhìn theo cho đến khi nàng khuất bóng mới buông tiếng thở dài, thúc ngựa
trở về.
Sáng hôm sau, khi đoàn thuyền của Hữu Dụng
chuẩn bị rời bến thì Âu Dương Long và Thu Hồng đến. Âu Dương Long nói với Hữu Dụng:
- Bọn cháu chào tạm biệt chú. Khi nào chú
trở vào?
Hữu Dụng đáp:
- Hai ba tháng nữa. Cậu ở lại vui vẻ nhé.
Cho tôi gởi lời thỉnh an công chúa. Chừng nào công chúa trở về Phúc Kiến?
- Dạ cũng chưa biết. Khi nào công chúa bảo
đi thì đi thôi.
Trong khi đó, Thu Hồng tìm Văn Hiến và trao
cho chàng một chiếc hộp nhỏ bằng vàng.
- Công chúa gởi vật này tặng công tử để đáp
tạ lại vật công tử đã tặng cho người. Chúc công tử đi bình an.
- Cảm ơn Thu Hồng cô nương. Cho tôi gởi lời
cảm tạ công chúa. Chúc mọi người vui vẻ trong thời gian ở lại Giản Phố. Mong còn
gặp lại.
Thu Hồng nhìn Văn Hiến bằng ánh mắt như van
lơn:
- Nhất định phải gặp lại chứ không phải là
mong gặp lại. Xin công tử nhớ cho. Công tử bảo trọng.
- Thu Hồng cô nương bảo trọng. Gởi lời từ
biệt đến công chúa nhé.
Đại Kỳ, Bạch Mai cũng nói lời tạm biệt lần
nữa với mọi người trên thuyền. Ba chiếc thuyền từ từ tách bến, chỉ một lát sau đã
xuôi theo dòng nước khuất bóng sau hàng cây. Văn Hiến ngồi một mình trước mũi thuyền
mở chiếc hộp Thu Hồng vừa đưa lúc nãy ra xem. Trong hộp có một chiếc khăn trắng
gói một cây trâm mà Dung Dung vẫn thường cài trên tóc. Trên chiếc khăn có thêu một
con chim nhạn đang bay và mấy câu thơ:
Bắc phương hữu cô nhạn
Nhật nhật vọng đông lai
Thiên Nam bất kiến bạn
Não thanh thiên thượng ai.
Dịch nghĩa:
Phương Bắc có một con nhạn cô đơn
Ngày ngày trông cho mùa đông tới
Bay về phương Nam không gặp được bạn
Tiếng kêu buồn não ruột vọng thấu trời.
Văn Hiến đọc bài thơ mà lòng chợt buốt nhói.
Chắc là Dung Dung đã phải thức suốt đêm qua để thêu cho xong chiếc khăn tay này.
Ở một góc chiếc khăn trắng tinh có một vết ố, có lẽ là do nước mắt nàng nhỏ xuống.
Chàng hít mạnh một hơi đầy buồng phổi làn không khí mát rượi trên sông để nén xuống
những cảm xúc đang cuồn cuộn trào dâng trong lòng. Chợt nhớ đến câu nói của Dung
Dung về những cuộc ly biệt, tương phùng: “Dù ly biệt hay tương phùng bao giờ
cũng đầy máu và lệ”, chàng không khỏi buông tiếng than:
- Lại thêm một sợi dây oan nghiệt trói người nữa
hay sao?