Én Liệng Truông Mây - Hồi 03 - Phần 2
Ba người thấy Đoàn Phong nghi biểu khác phàm,
như rồng như phượng trong loài người thì trong lòng nảy sinh ngay thiện cảm. Đinh
Hồng Liệt cười ha hả nói:
- Khách sáo rồi. Thôi bỏ qua hết những lề
thói hủ nho ấy đi. Xin Võ huynh một hồ rượu để chúng ta uống mừng ngày gặp mặt có
được không?
Trần Kim Hùng vỗ tay tán thưởng:
- Đúng lắm! Một chung rượu bằng ba lời nói.
Ngàn chung thì càng hay hơn nữa vì không cần nói lời nào cả.
Võ Trụ cười lớn:
- Ngàn chung thì không có đủ bây giờ nhưng
vài vò thì có ngay. Quí vị hàn huyên đi, tôi trở lại ngay.
Đoàn Phong lên tiếng:
- Hôm qua tôi được nghe Võ huynh kể lại chuyện
các vị đánh bọn cướp Tàu bảo vệ cây Ô Long đao mà lòng tiếc nuối vô cùng, chỉ ước
sao có được sự may mắn tham gia trong trận chiến đó thì sảng khoái dường nào.
Đại Bằng nói:
- Nếu Phong huynh có lòng tương trợ thì vẫn
còn dịp đấy. Chắc chắn chúng sẽ trở lại nhưng chưa biết khi nào. Đáng tiếc chúng
tôi chưa dò ra được tung tích bọn chúng để nghĩ ra cách đối phó hữu hiệu hơn.
Đoàn Phong nói:
- Điều phải quan tâm và giải quyết trước
tiên là sự an nguy của Trần gia. Họ là dòng dõi anh kiệt của nước nhà, không thể
để xảy ra chuyện đáng tiếc.
Đại Bằng tán thành:
- Phong huynh nói đúng. Cho nên anh em tôi
tạm thời ở lại Trần gia để bảo vệ họ. Tôi cũng đang tìm cách nhắn tin cho tam đệ
của tôi vào, xem hắn có kế hoạch gì hay để đối phó với tình hình này không?
- Tam đệ của huynh có phải là Trại Ức Trai Trương Văn Hiến không?
Đại Bằng gật đầu:
- Chính là hắn!
- Tôi có nghe qua, Trương Văn Hiến huynh
bụng chứa kinh luân, tài kiêm văn võ, lại túc trí đa mưu. Khâm phục đã lâu.
Võ Trụ trở lại phòng khách cùng năm người
đệ tử. Họ bưng vào ba hũ rượu lớn, vài chiếc bát bằng sứ Gò Sành cùng mấy đĩa thức
ăn còn bốc khói. Võ Trụ nói:
- Mời tất cả, chúng ta nâng ly uống mừng
ngày hội ngộ.
Thanh khí tương đồng, cuộc rượu thật là tương
đắc. Trần Đại Bằng lên tiếng hỏi:
- Nghe giọng nói của Phong huynh dường như
là người Đàng Ngoài có đúng vậy chăng?
Đoàn Phong gật đầu:
- Vâng. Lúc trước tôi giúp hoàng thúc Lê
Duy Mật nổi loạn nhằm giết tên bạo chúa Trịnh Giang nhưng thất bại vì có kẻ bán
đứng. Nhạc phụ tôi vốn là chỗ tâm giao với Tôn Thất Dục thúc thúc nên vợ chồng tôi
trốn vào Nam nương nhờ người đã được năm năm rồi.
Đại Bằng thở dài:
- Cuộc nổi loạn của Lê Duy Mật lúc ấy đã
gây chấn động đến tận Đàng Trong này. Tiếc rằng nhà Lê dựng nghiệp đã hơn ba trăm
năm, nay đã đến lúc suy vong nên mới khiến cho chúa Trịnh lộng hành tác quái. Phong
huynh đệ vì dân trừ bạo thật đáng khâm phục. Có điều vạn vật đều có lúc thịnh lúc
suy, lúc sinh lúc diệt, cho nên việc phục hưng nhà Lê e nan giải vô cùng.
- Bằng huynh nói đúng, tuy vậy, nhìn cảnh
Trịnh Giang lộng hành, khắp nơi loạn lạc, bá tánh lầm than khiến kẻ có lòng ai ai
cũng nghiến răng căm giận. Phong tôi tuy vô dụng và biết việc khó thành nhưng cũng
không thể nhắm mắt làm ngơ.
Kim Hùng nâng bát rượu đang cầm trên tay
nói:
- Đó mới là phong độ của người hiệp sĩ chân
chính. Kim Hùng tôi xin kính Phong huynh một ly.
Nói xong hai tay đưa bát rượu cho Đoàn Phong.
Đoàn Phong nâng bát uống cạn rồi nói:
- Đa tạ Hùng huynh!
Võ Trụ chợt nhớ ra điều gì nên quay sang
hỏi Đại Bằng:
- Về việc lập bang Hành Khất và kế hoạch
giúp cho Trần gia các bạn tính thế nào?
Đại Bằng đáp:
- Bang Hành Khất là việc lâu dài, tôi sẽ
tiến hành từ từ. Còn việc bảo vệ Trần gia mới cấp bách và nan giải. Sau khi Võ huynh
rời đi, chúng tôi phát hiện một bức thư hăm dọa, rằng bất kỳ người nào trong Trần
gia đi quá khu vực Liên Trì thì sẽ bị giết, được nhét ở cổng.
Đoàn Phong nóng nảy hỏi:
- Chúng có thực hiện lời hăm dọa đó không?
Kim Hùng đỏ mặt giận dữ:
- Bọn chó má đó làm thật! Lúc đầu chúng tôi
không tin nên để cho một gia nhân xuống chợ Trà Câu mua sắm và anh ta đã bị chúng
chặt cánh tay trái cảnh cáo, bảo về nói với Trần gia rằng kể từ người thứ hai trái
lệnh, chúng sẽ giết không tha.
Võ Trụ nghe nói giật mình:
- Có chuyện đó ư? Thật là quá quắt lắm! Bọn
chúng dám ra mặt lộng hành đến thế sao?
Hồng Liệt trầm giọng:
- Đó là sự thật. Điều đáng lo là chúng ta
hoàn toàn không biết bọn chúng là ai và núp ở xó nào.
Đoàn Phong lại hỏi:
- Sao chúng ta không cho người theo hộ tống
bọn gia nhân đi chợ xem chúng có dám ra tay không?
Đại Bằng đáp:
- Có. Sau tôi đã đích thân đi theo hai gia
nhân khác xuống chợ Trà Câu và trở về bình an, không thấy có kẻ nào cản trở cả.
Nhưng...
- Nhưng thế nào?
Đại Bằng vẻ mặt buồn rầu:
- Có một tên gia nhân vì nhát gan, thấy tình
cảnh Trần gia như thế sợ rằng sẽ bị liên lụy nên đã lén bỏ trốn. Sau đó, chúng tôi
đã phát hiện xác hắn bên bờ hồ bị chặt đứt cánh tay trái và một kiếm xuyên tâm.
Võ Trụ nghe nói giận run:
- Chúng chặt cánh tay trái của người ở Trần
gia là có ý trả thù tôi đã chặt cánh tay trái của tên Tư Đồ Nhị trong Dương Tử Tam
Kiếm. Hà! Có lẽ không sớm thì muộn trang trại này cũng sẽ bị bọn chúng ghé thăm.
Đoàn Phong không dằn được tức giận, đập tay
xuống bàn nói:
- Bằng mọi giá chúng ta phải giết sạch bọn
khốn kiếp này! Tình hình như thế, dự tính của các bạn ra sao?
Đinh Hồng Liệt ủ rũ:
- Tạm thời ba chúng tôi đành phải ở lại Trần
gia để bảo vệ họ. Mọi người trong Trần gia cũng không ai được ra ngoài. Cá nhân
tôi hằng ngày sẽ đi dò la tin tức khắp nơi xem có tìm ra manh mối gì không. Sợ rằng
bọn chúng đã biết mặt tôi nên việc dò thám hơi trở ngại.
Đại Bằng tiếp:
- Chúng tôi ghé vào đây theo lời hứa đến
thăm Võ huynh nhân tiện báo tin này để Võ huynh đề phòng. Ngay chiều nay, chúng
tôi phải trở lại Trần gia trang đề phòng bọn chúng tấn công bất ngờ.
Võ Trụ nói:
- Đa tạ các bạn. Đáng tiếc tôi đang có chút
việc do Võ Vương chỉ định phải làm nếu không tôi nhất định đến đó giúp các bạn một
tay.
- Võ huynh có việc thì cứ lo, tôi tin tam
đệ sẽ có kế hoạch chu toàn cho việc này.
Đoàn Phong nói ngay:
- Chờ khi Trại Ức Trai vào, chúng tôi sẽ
phụ trách việc dò tìm tông tích của bọn chúng.
Rồi quay sang Võ Trụ hỏi:
- Về nhóm người ở địa phương này tiếp tay
cho giặc, các anh đã có cao kiến gì chưa?
Võ Trụ đáp:
- Về mặt tiền tài và thế lực ở cả hai phủ
Quy Nhơn và Quảng Ngãi thì phải kể đến họ Cao ở đầm Hải Hạc và họ Trần của Hoàng
Kim Môn ở Lại Khánh. Họ Cao tuy trong kinh doanh có nhiều mánh khóe nhưng chưa thấy
họ làm điều gì mờ ám, phạm pháp. Chỉ có Hoàng Kim Môn của Trần Đại Chí là đáng ngờ.
Đại Chí là người có nhiều tham vọng lại thừa ma mãnh để mua chuộc các quan chức
địa phương. Hắn một tay nắm trọn nguồn thu mua, cung cấp muối ở hai phủ Quy Nhơn
và Quảng Ngãi. Hắn thu mua của dân với giá bóp chẹt và bán ra với giá cắt cổ. Hắn
còn độc quyền cả việc khai thác và mua bán gỗ quí. Phần lớn các việc mua bán của
hắn đều lậu thuế vì có ăn chia với quan chức địa phương.
Đoàn Phong nghe xong trợn mắt ngạc nhiên:
- Lộng hành đến như thế sao?
- Hoàng Kim Môn ngoài chỗ dựa là thế lực
chính quyền, hắn còn có rất nhiều thủ hạ đệ tử, phần đông đều là những tên ác đạo
giang hồ. Ngoài ra, chúng còn hành sự rất tàn bạo nên chẳng ai dám ra mặt chống
đối. Ở Quy Nhơn và Quảng Ngãi, Trần Đại Chí chẳng khác gì ông trời con.
Đoàn Phong hỏi tiếp:
- Ngoài hai mặt hàng đó, hắn còn kinh doanh
gì khác nữa không?
- Những điều tôi biết là do khi còn ở trong
thủy đội Đạm Thủy nghe anh em lính thủy họ kháo nhau. Sau này giải ngũ rồi tôi không
để ý đến việc thiên hạ nữa nên không rõ lắm.
Đoàn Phong nói:
- Có lẽ chúng ta phải dò la từ đầu mối này.
Võ Trụ gật đầu tán thành:
- Tôi cũng nghĩ như thế.
Ba người nhóm Đại Bằng đứng lên:
- Chúng tôi phải trở về Liên Trì. Ta sẽ liên lạc với nhau sau.
Võ Trụ quay ra
sau gọi lớn:
- Chí Hiếu, con
ra chuồng ngựa dắt hai con Thiết Đởm và Hồng Câu ra trước sân đi.
Rồi quay lại
nói:
- Xin tặng hai
bạn hai con ngựa tốt để đi lại cho tiện. Chúng ta giữ liên lạc. Rảnh tay tôi sẽ
ghé thăm các bạn.
Ba người họ vừa
bước ra sân đã thấy Chí Hiếu và một tên sư đệ dắt hai con ngựa đứng chờ. Hai con
ngựa khỏe mạnh hùng dũng, mới nhìn đã biết ngay là những con thiên lý mã. Kim Hùng
cười:
- Anh cả, em
chọn con Thiết Đởm. Bộ lông đen xám của nó rất hợp ý em. Cảm ơn Võ huynh thật nhiều.
Võ Trụ khẽ cười:
- Không có gì
đâu. Bảo kiếm tặng tráng sĩ, chiến mã tặng anh hùng. Chúc các bạn thượng lộ bình
an.
Đinh Hồng Liệt
nói to:
- Giờ thử xem
anh em họ Trần các anh có rượt kịp tôi không nhé? Thôi xin chào! Hẹn gặp lại!
Nói xong chàng
tung mình lên con Bạch mã ra roi phóng đi như bay. Kim Hùng cũng phóng lên lưng
con Thiết Đởm hét lớn “đi!”. Con ngựa chồm hai vó trước lên hí vang một tiếng rồi
phóng đi như tên bắn đuổi theo con Bạch mã. Trần Đại Bằng lên ngựa, cúi đầu chào
Võ Trụ và Đoàn Phong lần nữa rồi thúc chân vào bụng con Hồng Câu. Nó cất bốn vó
chồm tới trước, đuổi theo hai con ngựa kia. Đoàn Phong nhìn theo bóng họ khuất sau
đám bụi mờ, quay sang nói với Võ Trụ:
- Những con người
đó quả ung dung tự tại, nghĩa khí ngất trời. Tôi thật hâm mộ.
Võ Trụ chợt thở
dài:
- Họ là những
anh hùng hiệp sĩ chân chính. Nhưng có điều nghịch lý là, một khi anh hùng xuất hiện
cũng là dấu hiệu báo trước của một xã hội loạn lạc. Tôi e rằng sẽ còn nhiều điều
phiền phức sắp xảy ra cho đất nước này.
Đoàn Phong đổi
cách xưng hô cho thân mật hơn.
- Lời cao luận
của Võ huynh thật chí lý. À, lúc sáng mới đến, tôi có gặp Trọng Hào bế một đứa bé
trai, là con anh phải không? Anh cho tôi ra mắt chị nhà cho phải phép chứ?
- Thằng cu nhà
tôi đó. Đoàn huynh vào trong ngồi chờ tôi một lát.
Nói rồi Võ Trụ
trở vào trong, một lúc sau ông quay ra cùng với vợ. Trọng Hào bồng đứa bé trên tay
theo sau.
- Đây là vợ tôi.
Rồi ông giới
thiệu với vợ:
- Còn đây là
Đoàn Phong, người bạn ta mới quen.
Đoàn Phong cúi
chào:
- Xin ra mắt
chị. Nhìn cháu trai của anh chị tôi thật ước sao mình cũng có được một thằng con
như thế. Trông cháu nó kháu khỉnh quá!
Nguyễn thị cúi
đầu đáp lễ:
- Xin chào Phong
huynh. Nghe nhà tôi khen chị nhà đẹp như hoa và thánh thiện như tiên, tôi thật hâm
mộ và mong có ngày được gặp mặt. Anh chị nếu sanh con sẽ là rồng là phượng, sao
lại đi ao ước giống chú mọi đen nhà tôi?
Đoàn Phong mỉm
cười:
- Anh Võ Trụ
thật đã khéo tô vẽ thêm rồi.
Chú nhỏ Võ Văn
Doan đang được Trọng Hào bế trên tay bỗng lên tiếng:
- Chào chú Phong.
Chú có cây kiếm đẹp quá. Chú cho Doan đi.
Đoàn Phong nghe
thằng bé liến thoắng bật cười ha hả:
- Cháu tên Doan
hả? Doan còn nhỏ lắm chưa cầm được đâu. Đợi lớn lên chút nữa chú sẽ tặng Doan một
thanh kiếm đẹp hơn thế nhé?
Thằng bé reo
lên:
- A, chú Phong
nhớ đó nhé! Mai mốt Doan lớn lên chú phải cho cháu cây kiếm thật đẹp đó.
Võ Trụ cười:
- Thằng bé này
nói tía lia luôn miệng cả ngày. Có lúc Trọng Hào bực quá gọi nó là Lía đấy.
Sau đó, Võ Trụ
kéo Đoàn Phong ra phía sau trại ngựa nói:
- Tôi còn mấy
con thiên lý mã, tặng anh một con để làm quà. Anh thích con nào cứ chọn mà dùng.
Đoàn Phong mừng rỡ nói:
- Hay quá! Tôi thích con ngựa hồng có đốm
trắng trên trán kia.
***
Trong khi ở trại ngựa dưới núi bọn trẻ tuổi
bàn tán việc chém giết nhau thì tại phòng chế thuốc của Vô Danh thiền sư cuộc nói
chuyện lại đượm mùi thoát tục. Lúc Võ Trụ và Đoàn Phong đi rồi, Tôn Thất Dục nói:
- Hôm trước ở kinh sư có duyên gặp được thiền
sư nhưng không đủ thời gian để xin thụ giáo. Tôi có xem qua hai bức họa tuyệt tác
của thiền sư ở chùa Thiên Mụ, nét họa như rồng bay phượng múa, sinh động như có
linh hồn. Thật là tuyệt tác mà suốt đời tôi chưa được thấy bao giờ. Ngoài thiên
phú về hội hoạ và thư họa, thiền sư còn có bí quyết nào giúp đạt đến tuyệt đỉnh
nghệ thuật không, thưa thiền sư?
Vô Danh thiền sư mỉm cười:
- Thí chủ đã quá đề cao bần tăng rồi. Thí
chủ cũng là bậc nổi danh chốn kinh sư về cầm kỳ thi họa và cả y bốc nữa, sao còn
hỏi đố bần tăng làm gì?
- Tôi vốn có sở thích nghiên cứu về các môn
đó nhưng chỉ đủ để cầu vui cho bản thân, chứ về nghệ thuật quả thật không đáng để
nói đến hai chữ nổi danh. Việc tôi cầu học là thật lòng vì tình yêu nghệ thuật chứ
không có ý hỏi đố thiền sư, xin ngài đừng hiểu lầm.
- Đã thế thì tôi xin hỏi, về thuật viết chữ
có nhiều sách của nhiều trường phái khác nhau, thí chủ đã nghiên cứu qua những sách
vở của trường phái nào?
- Tôi có nghiên cứu qua “Bút Trận Đồ” của
Tiêu Hân và Vương Hữu Quân. “Bút Tủy Luận” của Ngu Thế Nam cũng như “Hoàng Đình
Kinh” của Nhạc Nghị Luận...
- Thí chủ thu thập được gì qua những kinh
điển ấy?
- Cũng chỉ tìm ra được cách thức cầm bút,
phóng bút và lối viết riêng.
Thiền sư đứng lên, bước lại mở một ngăn tủ
kê sát vách lấy ra một cuộn giấy, bút và nghiên mực đem bày trên bàn. Ông đích thân
mài nghiên pha mực xong rồi nói:
- Thí chủ viết vài chữ cho bần tăng xem.
Tôn Thất Dục đưa tay cầm bút, ngưng thần
một lúc rồi viết xuống bốn chữ “Ngũ Tuyệt thư sinh”. Chữ Ngũ được viết theo lối
chữ Tiểu Triện đời Hán, chữ Tuyệt với lối viết chân phương của chữ Khải trong “Lan
Đình Thiếp” của Vương Hy Chi, chữ Thư theo lối Hành thư của Lưu Bá Thăng và chữ
Sinh theo lối phóng túng của Thảo hành. Nét bút có khi rất khuôn phép nhưng có khi
lại tinh xảo và linh hoạt. Vô Danh thiền sư nhìn cách cầm bút, phóng bút và nét
bút của Tôn Thất Dục gật đầu nói:
- Rất đẹp! Tôn thí chủ đã kết hợp rất khéo
léo các thủ thuật của nhiều danh gia Trung Quốc để tạo ra nét bút riêng cho mình.
Xét về kỹ thuật, sự tinh vi cũng như mỹ thuật, thí chủ đã đạt đến trình độ của bậc
danh gia.Tuy nhiên trong nét bút còn thiếu cái thần. Tâm hồn của người viết chưa
hiển lộ trong nét họa.
- Thiền sư nhận xét thật chính xác. Tôi tự
biết mình chưa thể hiện được tinh thần của nét họa. Xin được nghe lời chỉ giáo.
- Về cái thần của nghệ thuật tự và họa, chúng
ta có thể gom lại trong một câu “Ý tại bút tiên”. Trước khi cầm bút, phóng bút,
ý và thần phải được chuẩn bị kỹ. Tâm và ý chưa chuẩn bị kỹ thì chưa thể phóng bút.
Bởi vì tinh thần của nét bút nằm ở trong lòng người, cho nên tinh thần của người
viết chưa an trú thì không thể truyền xuống tay để toát ra nét bút được. Kỹ thuật
là điều cần thiết nhưng khi đã thành thạo rồi xin hãy quên nó đi. Làm được như thế
nét bút sẽ không còn kiên cưỡng, gò bó nữa và cái thần trong tâm người viết mới
được chảy tự do truyền vào nét họa.
Tôn Thất Dục nghe lời cao luận liền giật
mình, ông vội cúi đầu nói:
- Nghe được một lời thâm cao còn hơn tìm
học mấy chục năm trời. Thật là một bài học quí giá biết bao. Tôi như vừa nhìn thấy
một chân trời mới trong nghệ thuật.
- Tâm của thí chủ thật sáng, vừa nghe đã
thấu triệt. Bây giờ thí chủ viết lại bốn chữ này xem sao. Tôi đi pha lại bình trà.
Nói xong, thiền sư quay người ra phía sau
đun nước pha trà. Tôn Thất Dục thong thả trải ra bàn tờ giấy mới, phóng bút viết
thật nhanh bốn chữ “Ngũ Tuyệt thư sinh” lần nữa. Cũng theo các lối chữ cũ nhưng
lần này bàn tay của ông có cảm giác thật nhẹ nhàng linh hoạt, không chút gò bó nắn
nót. Bốn chữ mới viết ra, về hình thức chẳng khác gì so với bốn chữ trước nhưng
nét chữ sống động như thật. Cái thần của ông đã hiện rõ trong nét chữ. Ông đứng
ngắm bức tự họa của mình đến ngẩn ngơ.
Vô Danh thiền sư bưng bình trà trở lại nhìn
bức tự họa, buột miệng khen:
- Diệu thủ! Thật là toàn mỹ, không thể hơn
thế được nữa.
Tôn Thất Dục giật mình như vừa tỉnh lại sau
cơn mê. Bỗng nhiên, ông sụp xuống trước mặt Vô Danh thiền sư lạy một lạy:
- Nửa chữ cũng là thầy, xin nhận một lạy
này với tất cả lòng thành kính của tôi.
Vô Danh thiền sư mỉm cười đỡ Tôn Thất Dục
đứng lên:
- Đừng hình thức quá. Người nghệ sĩ càng
chú trọng đến hình thức chừng nào thì tinh thần nghệ thuật của họ càng bị giảm sút
chừng đó. Phải để cho tâm hồn mình thật ung dung thoải mái dù ở bất cứ hoàn cảnh
nào.
- Tôi xin ghi khắc lời của thiền sư vào tâm
khảm. Xin cho nghe tiếp về cái vi diệu của âm thanh.
Nói xong, Tôn Thất Dục bưng bình trà rót
ra chén mời thiền sư. Thiền sư nhận chén trà hớp chậm rãi vài ngụm:
- Về đại thể, âm thanh có hai loại: thanh
hạ và thanh cao. Thanh hạ là do lòng người yên tĩnh, không cạnh tranh mà có được.
Đó âm thanh của thiên nhiên, trời đất và của người thời thượng cổ, người ta gọi
đó là tĩnh, là hòa. Đời sau, lòng người cấp bách háo sự, thích cạnh tranh cho nên
tạo ra thanh cao, đó gọi là động, là bất hòa. Âm thanh quí ở hòa. Thanh có hòa thì
mới có thể nhập vào tâm hồn con người và hòa với cái tiểu ngã của bản thân để trở
về với đại ngã của vũ trụ. Do đó, thanh hạ là an, là hòa. Thanh cao là nguy, là
loạn. Người xưa lấy âm nhạc để suy đoán ra vận nước, bởi vì âm thanh là tiếng lòng
của nhân loại, là biểu tượng văn hóa và tâm hồn của một dân tộc. Lòng người động
tức nước loạn, lòng người tĩnh nước sẽ an. Đó cũng chính là cái vi diệu của âm thanh.
Khi người nghệ sĩ đưa được trạng thái tâm linh của mình vào tiếng đàn, họ sẽ tạo
nên tuyệt khúc. Đó là điều vi diệu của âm nhạc. Cho nên nhạc và họa, tuy hình thức
thể hiện khác nhau nhưng có cùng một cội nguồn là tiểu ngã và chung một tuyệt đích
là đại ngã.
Nghe chỉ điểm, Tôn Thất Dục như người vừa
bước ra khỏi làn sương mù, nét mặt ông trở nên rạng rỡ, miệng lẩm bẩm:
- Âm thanh là tiếng lòng của nhân loại, là
biểu tượng văn hóa và tâm hồn của một dân tộc. Vậy văn hóa thuần Việt, tâm hồn thuần
Việt được biểu hiện dưới dạng âm thanh nào, của nhạc khí nào?
- Tính chất của âm thanh vốn mơ hồ nên sự
cảm nhận tùy thuộc vào tâm hồn của từng người. Riêng về nhạc khí thì có thể nói
hầu hết các nhạc khí thông dụng trong nước ta không ít thì nhiều đều mang chung
những sắc thái, mẫu mã của nhiều dân tộc khác. Thí chủ tâm sáng, trí sáng, lại có
lòng với dân tộc sao không tìm ra một nhạc khí tạo nên một âm thanh đặc trưng cho
tâm hồn của người Việt ta?
Tâm thần Tôn Thất Dục như vẫn còn trong trạng
thái mơ màng nên miệng tiếp tục lẩm bẩm:
- Nhạc khí và âm thanh đặc trưng cho tâm
hồn người Việt...
Bỗng ông hỏi nhanh:
- Xin cho một lời nhận định về tâm hồn người
Việt ta?
Thiền sư đưa mắt nhìn ra dòng suối thong
thả nói:
- Mềm dịu như nước, bao dung như đất, đơn
giản, tròn trịa như giếng nước đầu làng nhưng chứa cả trời cao.
- Đó chẳng phải là Đạo sao?
- Phải! Đạo từ Không mà thành Một, từ Một
mà thành vũ trụ vạn vật. Tâm hồn Việt như cái Một ấy, vô cùng đơn giản nhưng lại
rất bao la[1].
[1] Về sau Tôn Thất
Dục từ quan vui thú tiêu dao. Ông theo lời Vô Danh thiền sư sáng chế ra cây đàn
Độc Huyền độc nhất vô nhị của người Việt
Nhìn thấy vẻ rạng rỡ trên nét mặt Tôn Thất Dục, thiền
sư mỉm miệng cười.