Những đứa con của nửa đêm - Phần I - Chương 03 - Phần 2
Hồi ức của một tấm hình mốc meo (có lẽ là tác phẩm của chính anh thợ ảnh tội nghiệp bị nện ung óc, vì mấy bức ảnh phóng to bằng người thật mà suýt nữa thì toi mạng): Aadam Aziz, rạng rỡ vì chứng sốt-lạc-quan, bắt tay một người đàn ông trạc sáu mươi, típ người nôn nóng, sôi nổi, một lọn tóc bạc rủ xuống lông mày như một vết sẹo dễ gần. Đó là Mian Abdullah, con Chim ngân nga. (“Ông xem, Bác sĩ Sahib, tôi tập tành kỹ lắm. Ông muốn đấm vào bụng tôi không? Thử đi, thử đi. Người tôi cực ngon đấy.”... Trong ảnh, nếp gấp của chiếc áo trắng rộng giấu đi cái bụng, còn nắm tay ông tôi không siết lại, mà bị nuốt gọn trong bàn tay nhà cựu ảo thuật.) Còn đằng sau, nhìn họ đầy độ lượng, là Quận chúa xứ Cooch Naheen, người đang trắng bợt ra từng mảng, một căn bệnh đã rỉ vào lịch sử và bùng phát trên diện rộng không lâu sau Độc lập... “Ta là nạn nhân,” Quận chúa thầm thì, qua đôi môi nhiếp ảnh vĩnh viễn không mấp máy, “nạn nhân bất hạnh của các mối quan tâm liên văn hóa của mình. Da ta là biểu hiện bên ngoài của chủ nghĩa quốc tế trong tâm hồn ta.” Phải, một cuộc đối thoại đang diễn ra trên bức ảnh này, khi, như những nghệ nhân nói tiếng bụng, những kẻ lạc quan gặp thủ lĩnh của họ. Đứng cạnh Quận chúa - nghe cho kỹ đây; sử học và phả hệ chuẩn bị gặp nhau! - là một gã lập dị, thịt nhão, bụng phệ, mắt như nước ao tù, tóc dài như thi sĩ. Nadir Khan, thư ký riêng của con Chim ngân nga. Chân gã, nếu không bị tấm ảnh đóng băng lại, sẽ nhấp nhổm vì bối rối. Gã lí nhí qua nụ cười ngớ ngẩn, gượng gạo, “Thật mà; tôi có làm thơ...” Tới đây Mian Abdullah ngắt lời, cái miệng với hàm răng nhọn sáng loáng oang oang: “Nhưng thơ gì! Ngần ấy trang chẳng có nổi một vần!” Và Quận chúa, nhỏ nhẹ: “Một nhà thơ cách tân chăng?” Và Nadir, bẽn lẽn: “Vâng.” Ghê gớm thay sự căng thẳng của cảnh tĩnh, bất động ấy. Sắc nhọn thay câu đùa ấy, khi con Chim ngân nga nói: “Thế thì đã sao; nghệ thuật là phải khơi dậy; nó phải nhắc nhở chúng ta về di sản văn chương huy hoàng của mình!”... Và đó có phải là một bóng đen, hay cái cau mày trên trán viên thư ký?... Giọng Nadir lí nhí trong bức ảnh đã mờ: “Tôi không tin vào nghệ thuật cao sang, Mian Sahib. Ngày nay, nghệ thuật là không phân đẳng cấp; thơ của tôi và ừm - trò chơi phụt-ống-nhổ đểu bình đẳng.”... Lúc này Quận chúa, vốn là người đôn hậu, đùa, “Chà, chắc ta phải để riêng một phòng; chuyên để ăn trầu và phụt-ống-nhổ. Ta có một cái ống nhổ bằng bạc cực đẹp, khảm thanh kim thạch, các vị nhất định phải đến tập nhé. Hãy để trên tường nhoe nhoét những cú phun không chính xác của bọn ta! Ít ra đó cũng sẽ là những vết nhơ trung thực.” Và lúc này bức ảnh đã cạn lời; giờ tôi mới nhận thấy, bằng tâm nhãn, rằng từ đâu đến cuối con Chim ngân nga luôn nhìn ra phía cửa, ở sau vai ông tôi, ngoài rìa tấm ảnh. Đằng sau cánh cửa, lịch sử đang vẫy gọi. Con chim ngân nga nôn nóng muốn đi... nhưng ông đã ở bên chúng ta, và sự hiện diện của ông đã đem lại cho chúng ta hai sợi chỉ sẽ đeo đuổi tôi suốt những ngày còn lại: sợi dẫn đến ghetto của giới ảo thuật; và sợi kể câu chuyện về Nadir gã thi sĩ không vần, không động từ, và cái ống nhổ bằng bạc vô giá.
“Vớ vẩn thật,” Padma của chúng ta nói. “Ảnh làm sao mà nói đươc? Thôi nghỉ đi; anh mệt quá nghĩ không nỗi nữa rồi.” Nhưng khi tôi bảo cô rằng Mian Abdullah có cái đặc điểm kỳ lạ là ngân nga không dứt, ngân nga một cách kỳ quái, chẳng ra nhạc cũng chẳng ra không nhạc, lại như kiểu máy, tiếng ngân nga của động cơ hay máy phát điện, cô lại chấp nhận khá dễ dàng, nói vẻ hiểu biết, “Ừm, nếu ông ta đầy sinh lực như thế, cái đó tôi thấy chả có gì lạ.” Cô lại dỏng tai lên rồi; nên tôi cũng hào hứng trở lại câu chuyện và kể rằng tiếng ngân nga của Mian Abdullah lên bổng xuống trầm tương ứng với cường độ làm việc của ông. Đó là một tiếng ngân có thể xuống thấp tới mức gây nhức răng, còn khi lên đến ngưỡng cao nhất, điên cuồng nhất, nó có khả năng gây ra cơn cương dương cho bất kỳ ai ở gần. (“Arre baap,” Padma cười, “thảo nào đám đàn ông khoái ông ta thế!”) Làm thư ký cho ông, Nadir Khan liên tục bị cái quái tật gây rung của ông chủ hành hạ, và tai răng dương vật gã vĩnh viễn tuân theo mệnh lệnh của con Chim ngân nga. Thế thì, tại sao Nadir vẫn ở lại, bất chấp những cơn cương dương làm gã sượng sùng trước mặt người lạ, bất chấp những cái răng hàm đau nhức và một lịch làm việc thường kéo dài hai mươi hai tiếng trên hai tư? Không phải bởi vì gã coi đó là bổn phận của nhà thơ, phải tiếp cận trung tâm các sự kiện để truyền tải chúng vào văn chương - tôi tin thế. Cũng không phải vì gã mưu cầu danh vọng. Không: nhưng Nadir có một điểm chung với ông tôi, và thế đủ. Gã, cũng như ông, đã mắc bệnh lạc quan.
Như Aadam Aziz, như vị Quận chúa xứ Cooch Naheen, Nadir Khan căm ghét Liên đoàn Hồi giáo (“Cái lũ bợ đỡ ấy!” nữ Quận chúa thốt lên bằng giọng nói trong như bạc, lên xuống từng quãng tám như người trượt tuyết. “Địa chủ với đặc quyền cần bảo vệ! Cái đấy thì dính gì đến người theo đạo Hồi? Cả bọn kéo đến xun xoe người Anh rồi lập chính quyền cho họ, nên giờ đảng Quốc đại mới từ chối điều đó!”[14] Đó là năm nghị quyết “Ra khỏi Ấn Độ” ra đời. “Mà hơn nữa,” Quận chúa phán, “bọn chúng bị điên. Không điên mà lại đòi chia cắt Ấn Độ?”)
[14] Năm 1935 nước Anh đồng ý trao trả quyền tự trị ở cấp tỉnh cho Ấn Độ. Năm 1937, khi bầu cử, đảng Liên đoàn Hồi giáo (Muslim League) thắng và lập ra chính quyền ờ Bengal và Punjab, nhưng đảng Quốc đại thắng ở hầu hết các bang khác và từ chối chia sẻ quyền lực với đảng Hồi giáo ở các bang có đông người theo đạo Hồi.
Mian Abdullah, con Chim ngân nga, đã gần như một tay dựng nên Hội nghị Hồi giáo Tự do. Ông mời thủ lĩnh của hàng chục phe nhóm Hồi giáo lập ra một liên minh lỏng lẻo làm giải pháp thay thế cho sự độc đoán và đặc quyền của phe Liên đoàn. Đây là một ngón chiêu hồn xuất sắc, vì họ đều đến dự cả. Đây là Hội nghị đầu tiên, tại Lahore; Agra sẽ chứng kiến phiên thứ hai. Những căn lều sẽ đông nghịt thành viên của các phong trào nông dân, các nghiệp đoàn lao động thành thị, các chức sắc tôn giáo và phe nhóm địa phương. Nó sẽ chứng kiến sự khẳng định điều đã được nêu ra tại phiên họp thứ nhất: đó là Liên đoàn, với yêu sách chia cắt Ấn Độ, không hề đại diện cho ai ngoài chính họ. “Họ đã quay lưng lại chúng ta,” áp phích Hội nghị viết, “và giờ lại tuyên bố chúng ta đứng sau ủng hộ họ!” Mian Abdullah phản đối chia cắt.
Trong cuộc vật lộn với dịch bệnh lạc quan, người bảo trợ cho con Chim ngân nga, Quận chúa xứ Cooh Naheen, không hề đả động đến những đám mây nơi chân trời. Bà không hề chỉ ra Agra là một cơ sở vững chắc của Liên đoàn Hồi giáo, chỉ nói “Anh bạn Aadam, nếu con Chim ngân nga muốn tổ chức Hội nghị ở đây, ta sẽ không khuyên cậu ấy rời sang Allahabad.”Bà gánh toàn bộ phí tổn cho sự kiện mà không hề phàn nàn hay can thiệp; và không, phải nói thẳng là, né tránh việc gây thù chuốc oán trong thành phố. Quận chúa không sống như các tiểu vương Ấn Độ khác. Thay vì săn gà gô, bà cấp học bổng. Thay vì những xì căng đan ở khách sạn, bà có chính trị. Vậy là bắt đầu có lời đồn thổi. “Đám học giả của mụ ta, gớm, ai chả biết họ phải làm nhiệm vụ ngoại khóa. Họ đến phòng mụ trong bóng tối, và mụ tuyệt không để họ thấy bộ mặt loang lổ của mụ, nhưng mê hoặc họ lên giường bằng giọng hát phù thủy!” AadamAziz chưa bao giờ tin là có phù thủy. Ông hân thưởng nhóm bạn hữu xuất chúng của bà, những người nói tiếng Ba Tư tự nhiên không khác gì tiếng Đức. Nhưng Naseem Aziz, nửa tin nửa ngờ những lời đồn về Quận chúa, không bao giờ tháp tùng ông tới phủ đệ của bà. “Nếu Thượng đế muốn con người nói nhiều thứ tiếng, bà lý luận, “thì sao lại cho mỗi người một cái lưỡi?”[15]
[15] Trong tiếng anh chữ tongue (cái lưỡi) cũng có nghĩa là ngôn ngữ.
Vậy là không con bệnh lạc quan nào của con Chim ngân nga được chuẩn bị cho điều sắp xảy ra. Họ chơi phụt-ống-nhổ, và lờ đi những vết nứt trên mặt đất.
Đôi khi truyền kỳ làm nên hiện thực, và trở nên hữu ích hơn sự thật. Vậy thì, theo truyền kỳ - nghĩa là theo câu chuyện ngồi lê đã được trau chuốt của mấy ông cụ hàng trầu - Mian Abdullah sa cơ vì đã trót mua, ở ga Agra, một cái quạt lông công, mặc cho Nadir Khan cảnh cáo đó là điềm gở. Thêm nữa là, vào cái đêm của những mảnh trăng lưỡi liềm ấy, Abdullahđang làm việc với Nadir, nên khi vầng trăng non mọc lên cả hai đều thấy nó qua cửa kính[16]. “Mấy chuyện đó can hệ lắm,” mấy ông cụ nhai trầu bảo. “Bọn ta sống lâu lắm rồi, bọn ta biết.” (Padma gục gặc tán thành.)
[16] Theo quan điểm mê tín, nhìn thấy trăng non đầu tháng qua kính là điểm gở.
Văn phòng của Hội nghị đặt tại tầng trệt tòa nhà của khoa sử trong khuôn viên trường Đại học. Abdullah và Nadir sắp hoàn thành công việc buổi tối; tiếng ngân của con Chim ngân nga đang ở tông trầm và răng Nadir đang run cầm cập. Trên tường có một tấm áp phích, thể hiện tinh thần chống Chia cắt ưa thích của Abdullah, một câu thơ của nhà thơ Iqbal: “Có mảnh đất nào không phải là nước Chúa Trời?” Lúc này toán sát thủ vừa vào đến khuôn viên trường.
Sự thật: Abdullah có vô số kẻ thù. Thái độ của người Anh đối với ông luôn mập mờ. Chuẩn tướng Dodson không muốn ông có mặt ở đây. Có tiếng gõ cửa và Nadir ra mở. Sáu mảnh trăng non tiến vào phòng, sáu lưỡi dao cong trên tay sáu kẻ vận đồ đen, đeo khăn che mặt. Hai tên giữ chặt Nadir trong khi những tên còn lại xông vào con Chim ngân nga.
“Đúng lúc này,” mấy cụ già nhai trầu kể, “tiếng ngân của con Chim ngân nga bắt đầu lên cao. Cao nữa, cao mãi, yara, và mắt bọn sát thủ lồi ra khi thấy cái ấy dựng lều dưới áo choàng. Rồi - Allah, rồi! - những lưỡi dao bắt đầu hát vàAbdullah hát to hơn, ngân cao lên cao mãi như chưa ngân nga bao giờ. Người ông chắc nịch và những thanh loan đao cong dài không dế giết nổi ông; một bị gãy khi bổ vào một dẻ sườn, nhưng những lưỡi còn lại mau chóng nhuộm máu. Nhưng lúc này - nghe này! - tiếng ngân nga củaAbdullah vượt ra khỏi ngưỡng nghe của tai người, đến tai lũ chó trong thành phố. Ở Agra có khoảng tám ngàn bốn trăm hai mươi con chó hoang. Đêm hôm đó, chắc chắn có con còn mải ăn, có con sắp chết; có con đang tằng tịu và có con không nghe thấy lời kêu gọi. Cứ cho là hai nghìn con đi; tức là còn sáu ngàn bốn trăm hai mươi con dã cẩu, tất cả đều quay đầu phóng về trường Đại học, nhiều con từ tận đầu kia thành phố băng qua đường tàu. Ai cũng biết chuyện này có thật. Ở thành phố tất cả đều trông thấy, trừ những ai lúc đó đang ngủ. Đàn chó phóng rầm rập, như một đạo quân, bỏ lại sau lưng vung vãi nào xương nào phân nào lông rụng... và Abdullahji vẫn ngân nga không dứt, ngân nga ngân nga, và những lưỡi dao vẫn hát. Còn điều này nữa: đột nhiên con mắt của một tên sát thủ phát nổ và rớt ra khỏi tròng. Sau đó người ta tìm thấy những mẩu thủy tinh vụn, bị giẫm nát trong lớp thảm!”
Họ tiếp, “Khi đàn chó đến nơi Abdullah đã thoi thóp và những lưỡi dao đã cùn... chúng đến như một bầy dã thú, chồm qua cửa sổ, không còn kính vì tiếng ngân nga của Abdullah đã chấn nát tất cả... chúng húc vào cửa chính đến khi gỗ vỡ ra... rồi tràn vào khắp nhà, baba!... con cụt chân, con rụng lông, nhưng đa số đều còn ít nhất mấy cái răng, trong đó lại có mấy cái sắc... Và phải thấy là: toán sát thủ hẳn không ngờ đến việc có kẻ can thiệp, bởi vì chúng không hề cắt người gác; nên đàn chó tấn công hoàn toàn bất ngờ... hai tên giữ Nadir Khan, gã èo uột ấy, gục xuống dưới sức nặng của bầy thú, với khoảng sáu mươi tám con chó trên cổ.., sau đó bọn giết người bị cắn xé tơi bời đến nỗi không ai có thể nhận diện được chúng.”
“Một lúc nào đó,” họ kể, “Nadir nhào qua cửa sổ bỏ chạy. Bầy chó và đám sát thủ quá bận rộn nên chẳng đuổi theo gã.”
Chó? Sát thủ?... Nếu quý vị không tin, cứ kiểm tra đi. Khám phá về Mian Abdullah và những Hội nghị của ông. Phát hiện ra chúng ta đã quét câu chuyện về ông xuống dưới thảm ra sao... rồi tôi sẽ kể quý vị nghe Nadir Khan, phụ tá của ông, đã sống ba năm dưới thảm nhà tôi thế nào.
Hồi trẻ, gã ở chung phòng với một tay họa sĩ có những bức họa cứ lớn dần lớn dần lên khi anh cố gắng đưa cái toàn vẹn của cuộc sống vào tác phẩm. “Nhìn tôi xem,” anh nói trước khi tự sát, “tôi muốn thành một nhà tiểu họa, nhưng rốt cuộc cái tôi nhận được lại là bệnh chân voi!”Những sự kiện phì đại trong đêm của những lưỡi dao cong ấy khiến Nadir Khan nhớ đến anh bạn cùng phòng, vì một lần nữa cuộc đời, tai quái thay, không chịu ở yên kích cỡ đời thực. Nó trở nên quá kịch tính: điều đó làm gã bấn loạn.
Làm thế nào Nadir Khan chạy ngang thành phố giữa đêm mà không ai để ý? Tôi cho rằng điều này là bởi gã là một thi sĩ tồi, và do đó, là kẻ sống sót bẩm sinh. Khi gã chạy, trong gã phát sinh một nỗi hổ thẹn, cơ thể gã như muốn xin lỗi vì đã xử sự như trong một bộ phim giật gân rẻ tiền, thứ phim các hàng rong vẫn bán ngoài ga, hoặc cho không kèm theo mấy lọ thuốc màu xanh chữa bệnh cảm, thương hàn, liệt dương, nhớ nhà, và nghèo khổ... Đó là một đêm ấm trời trên đường Cornwallis. Một chậu than đã hết nằm cạnh dãy xe kéo không người. Hàng trầu đã đóng cửa và mấy ông lão đang ngủ trên sân thượng, mơ về cuộc đấu ngày mai. Một con bò mất ngủ, nhẩn nha nhai một bao thuốc Red &White, thơ thẩn đi qua một gã vô gia cư nằm thù lù một đống, có nghĩa là đến sáng gã sẽ thức dậy, vì cái giống bò không để ý đến người đang ngủ, trừ phi gã sắp chết. Rồi nó ngửi ngửi gã, vẻ ngẫm nghĩ. Bò thiêng cái gì cũng ăn.
Ngôi nhà lớn, cũ kỹ bằng đá của ông tôi, mua bằng tiền bán cửa hàng đá quý và món hồi môn của lão Ghani mù, đứng trong bóng đêm, giữ một khoảng cách tôn nghiêm với con đường. Sau nhà là một khu vườn có tường bao và cạnh cửa vườn là gian nhà phụ thấp tè cho ông lão Hamdard và đứa con trai Rashid chạy xe kéo thuê với giá rẻ. Trước gian nhà phụ là cái giếng có bánh xe nước do bò kéo, từ đó các kênh dẫn nước chảy ra ruộng ngô nhỏ nằm dọc ngôi nhà ra đến cổng của bức tường vành đai chạy dọc đường Cornwallis. Nằm giữa ngôi nhà và mảnh ruộng là một con đường nhỏ cho khách bộ hành và xe kéo. Ở Agra xích lô đã bắt đầu thay thế xe kéo tay. Xe ngựa kéo vẫn làm ăn được, nhưng cũng thưa dần... Nadir Khan rụt đầu chuồn qua cống, ngồi xổm dựa vào bức tường vành đai giây lát, mặt đỏ bừng lên trong khi đái. Rồi, dường như hổ thẹn vì sự thô bỉ trong hành vi của mình, gã chạy ra ruộng ngô rồi chui tọt vào. Được những gốc ngô xác xơ vì nắng che khuất phần nào, gã nằm xuống trong tư thế của một bào thai.
Cậu trai Rashid kéo xe đã mười bảy và đang trên đường từ rạp chiếu bóng về nhà. Sáng hôm ấy cậu thấy hai người đàn ông đẩy một cỗ xe thấp gắn hai tấm áp phích vẽ tay khổng lổ, áp lưng vào nhau, quảng cáo cho bộ phim mới Gai-Wallah, có Dev, diễn viên thần tượng của Rashid, thủ vai chính. NÓNG HỔI SAU NĂM MƯƠI TUẦN VŨ BÃO Ở DELHI! VỪA KẾT THÚC SÁU MƯƠI BA TUẦN THIỆN XẠ Ở BOMBAY! Cả hai tấm áp phích gào lên. HAI NĂM LIỀN CUỒNG NHIỆT! Bộ phim thuộc loại Viễn Tây phương Đông. Nhân vật chính, Dev, người không mảnh khảnh, một mình rong ruổi trên đồng cỏ. Trông khá giống bình nguyên Ấn-Hằng. Gai- Wallah nghĩa là bạn-của-bò và Dev vào vai một kẻ thế thiên hành đạo đơn thương độc mã bảo vệ loài bò. MỘT MÌNH MỘT NGỰA! và HAI TAY HAI SÚNG!, anh âm thầm bám theo những đàn gia súc được lùa qua đồng cỏ đến lò mổ, đánh bại đám chăn bò và giải cứu những con vật thiêng. (Bộ phim nhắm đến khán giả người Hindu; tại Delhi nó đã gây ra bạo loạn. Người theo Liên đoàn Hồi giáo lùa bò qua rạp chiếu phim đến lò mổ, và đã bị vây đánh.) Ca khúc và vũ điệu trong phim rất hay và có một vũ công rất xinh đẹp, cô sẽ còn duyên dáng hơn nếu không bị bắt múa với cái mũ cao bồi bốn mươi lít trên đầu. Rashid ngồi dãy đầu ở tầng trệt[17] và cũng nhập bọn huýt sáo reo hò. Cậu chén hai cái samosa, tiêu mất khá tiền; mẹ cậu sẽ bực nhưng cậu đã có một bữa vui. Trên đường đạp xe về, cậu dượt vài tuyệt chiêu cưỡi ngựa vừa xem trên phim, ngả thấp người sang một bên, thả cho xe tự do đổ dốc, dùng cỗ xe theo cách Gai-Wallah dùng con ngựa để ẩn mình trước kẻ thù. Cuối cùng cậu nhổm dậy, bẻ tay lái và trong sự hào hứng của cậu cỗ xe êm ái lướt qua cổng phóng xuống con đường dọc ruộng ngô. Gai-Wallah đã dùng chiêu này để qua mặt một bọn chăn bò khi chúng ngồi giữa rừng cây bụi, uống rượu và đánh bạc. Rashid phanh xe lại và phi thân vào ruộng ngô, chạy HẾT-TỐC-LỰC! về phía mấy gã chăn bò không hề nghi ngờ, súng lên cò sẵn sàng. Khi đến gần đống lửa của chúng cậu thét lên “tiếng hét căm thù” để làm chúng sợ hãi. YAAAAAAA! Dĩ nhiên cậu không hét to thực sự ngay gần nhà Bác sĩ Sahib như thế, nhưng cậu vừa chạy vừa ngoác miệng ra, hét trong im lặng. THỊCH! THỊCH! Nadir Khan nãy giờ vẫn đang khó ngủ và lúc này gã mở mắt ra. Gã thấy - EEEYAAAH! - một bóng người gầy gò hùng hổ lao về phía mình như một đoàn tàu chở thư, hét đến lạc giọng - nhưng chắc gã điếc rồi, vì chẳng nghe thấy tiếng gì! - và gã vừa đứng lên, tiếng la vừa buột khỏi đôi môi quá dày của gã, thì Rashid cũng thấy gã và hét lên thành tiếng. Đồng thanh rú lên kinh hãi, cả hai cong đuôi bỏ chạy. Rồi thấy đối phương cũng chạy, họ đứng lại, săm soi nhau qua những gốc ngô khô quắt. Rashid nhận ra Nadir Khan, thấy quần áo gã tả tơi và thấy cực kỳ khó hiểu.
[17] Tầng trệt rẻ hơn tầng hai. Hàng đầu lại rẻ hơn cả vì quá gần màn hình. Chi tiết kín đáo nói về cái nghèo của cậu trai.
“Tôi là bạn,” Nadir ngớ ngẩn nói. “Tôi cần gặp Bác sĩ Aziz"
“Nhưng Bác sĩ đang ngủ, và không ở ruộng ngô.” Bình tĩnh nào, Rashid tự nhủ, không nói dớ dẩn nữa! Đây là bạn của Mian Abdullah!... Nhưng Nadir có vẻ không nhận thấy; mặt gã nhăn nhó đầy khổ sở, cố gắng nặn ra mấy chữ mắc kẹt như xơ thịt gà ở kẽ răng... “Tính mạng tôi,” rốt cuộc gã cũng thốt lên được, “đang bị đe dọa.”
Lúc này Rashid, vẫn tràn đầy khí phách của Gai-Wallah, trở thành cứu tinh. Cậu dẫn Nadir đến cánh cửa ở hông nhà. Cửa vừa chốt vừa khóa; nhưng Rashid giật một cái, ổ khóa đã bung ra trên tay cậu. “Đồ Ấn ấy mà,” cậu thì thầm, như thể điều đó giải thích tất cả. Và, khi Nadir đã bước vào, Rashid suỵt khẽ, “Cứ tin tưởng tuyệt đối ở tôi, Sahib. Sẽ câm như hến! Thề có mái tóc muối tiêu của mẹ tôi.”
Cậu lắp lại cái khóa từ phía ngoài. Để thực sự cứu thoát cánh tay phải của con Chim ngân nga!... Nhưng khỏi cái gì? Khỏi ai?... À, có đôi khi, đời thực đẹp hơn là trên phim.
“Đấy á?” Padma hỏi, đôi chút ngỡ ngàng. “Cái gã béo bệu chết nhát đấy á? Rồi hắn sẽ là cha anh á?”