Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 34

CHƯƠNG
34: YÊU THUẬT

Kết cấu của mộ cổ các triều đại đều không tròn thì
vuông, theo trời thì tròn, theo đất thì vuông, vì vậy vị trí mộ đạo hay mộ thất
đều phải hợp theo tứ phương bát môn. Thuật trộm mộ cổ có bốn phép “vọng, văn, vấn,
thiết,” trong đó phép chữ “vấn” là dùng thuật bói toán, thắp nến trong mộ chính
là một phép chiêm đoán đơn giản và nguyên thủy nhất.

Thắp nến ở góc Đông Nam, cũng ngầm hợp với lẽ suy diễn
Bát môn hung cát(24). Cây nến bị khí âm tà đè nén, ánh sáng yếu ớt ảm đạm, tuy
không tắt lụi, nhưng ngọn lửa xanh lét như ma trơi, báo hiệu “Kinh môn có biến,”
nguy hiểm to lớn sắp sửa ập đến.

(24)
Bát môn gồm có: Hưu môn, Sinh môn, Thương môn, Đỗ môn, Cảnh môn, Tử môn, Kinh
môn và Khai môn. Tám cửa này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra. Đây là một
trong những căn cứ dùng để suy đoán cát hung trong Kì Môn Độn Giáp.

Nhìn ngọn lửa kì dị ấy, tôi biết ngay có chuyện
không lành, dù là “ma thổi đèn” hay “ma áp đèn,” tốt nhất cứ mặc xác tất thảy,
chạy thẳng ra ngoài.

Nhưng tôi nghĩ đi nghĩ lại, cảm thấy từ lúc vào
trong mộ cổ Ô Dương Vương này, quả thực đã xảy ra quá nhiều sự việc li kì cổ
quái, tựa như có một âm mưu vô cùng hiểm ác đang rình rập quanh đây. Nghĩ đoạn,
tôi liền gạt bỏ ý định chạy trốn phù một tiếng thổi tắt luôn ngọn nến, rồi quay
đầu nhìn giáo sư Tôn chỉ thấy ông ta cách tôi chừng năm sáu mét, đang ngồi xổm
ngẩn ra nhìn những cỗ quan tài nhỏ kia, cả thân hình hầu như đều ẩn trong bóng
tối. Trong khoảnh khắc ấy, tôi chợt thấy lông tóc toàn thân dựng đứng cả lên, lờ
mờ có cảm giác dường như mình không hề quen biết vị “Tôn Cửu gia” này, lẽ nào
lão ta thật sự là một bóng ma mượn xác hoàn hồn hay sao?

Sự việc Đỗ tiên chỉ mê trong Nam Đẩu mộ thất lúc trước
thực quá đỗi li kì quái dị, tôi vẫn luôn ngờ vực trong những bức bích họa bóc
ra từ mộ cổ đời Đường kia có vật chướng nhãn, dưới tác dụng của những vật liệu
cháy như mê hương, sẽ khiến người ta nảy sinh ảo giác, nghe thấy âm thanh gì
đó. Giai đoạn từ thời Đường đến thời Ngũ Đại xuất hiện rất nhiều kì nhân dị thuật,
tương truyền trong những phép chướng nhãn, nhiếp hồn có một môn gọi là Thắp đèn
nhiếp hồn, người hiện đại khó lòng mà tưởng tượng nổi. Nghĩ tới đây, tôi chợt
thấy chi bằng cứ mạnh dạn bỏ hẳn dùng nến, còn hơn là đốt nến khai quan theo
cách truyền thống.

Lúc này, giáo sư Tôn thấy tôi vẫn trù trừ không hành
động, liền thúc giục: “Hồ Bát Nhất, cậu sao vậy? Thắp nến không được thì thôi,
đừng trách tôi lắm lời, nhưng hơn vạn cỗ quan tài ở đây chỉ có một cỗ là thật,
xác suất là một phần vạn, những cỗ khác chắc hẳn đều giấu cơ quan mai phục, hễ
mở sai sẽ dẫn tới kết cục ngọc đá đều nát, cậu chớ có nôn nóng làm bừa đấy nhé.”

Tới đây, lão ta thoáng ngập ngừng, rồi lại tiếp lời:
“Lúc ở trước cửa mộ cậu có vẻ chắc chắn lắm, khi ấy tôi không truy hỏi cậu xem
phá giải ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ thế nào, vì tôi biết cậu vẫn luôn nghi ngờ tôi,
chưa đến lúc mở quan tài, cậu tuyệt đối không chịu tiết lộ bí mật, nhưng giờ
chúng ta đã đến tận đây rồi, nói như cậu thì cả bọn đều đứng chung một con thuyền,
nên cậu phải giải thích cho tôi đi, tôi muốn giúp cậu đánh giá tính khả thi của
kế hoạch trước đã.”

Tôi cân nhắc, thấy Tôn Cửu gia nói cũng có lí, nhưng
vẫn không giải thích suy nghĩ của mình ngay, mà hỏi: “Những cỗ quan tài đá nhỏ
cổ xưa này hình dáng thật quái dị, trông có vẻ hết sức thần bí, tôi chưa từng
thấy bao giờ, Cửu gia là chuyên gia ngành khảo cổ, có biết lai lịch của chúng
không?”

Giáo sư Tôn đáp: “Nói thực tôi cũng chưa bao giờ
nhìn tận mắt, nhưng hồi trước khi tôi ở Trùng Khánh sắp xếp thu thập tài liệu,
từng đọc được một văn bản trong kho chứa hồ sơ...”

“Trong đó có nhắc đến, những năm cuối thời Thanh, có
một đám người Tây ở mạn Ba Thục ra sức thu vét lừa gạt cổ vật của Trung Quốc
chúng ta, thậm chí còn có cả một số đồ ngọc và đồ đồng thời thượng cổ, kết quả
bị quan phủ phát hiện, nhưng nha môn đề đốc thời bấy giờ cũng không dám đắc tội
với người Tây, bèn tìm cớ thả người ra, chỉ giữ lại một số lượng lớn các văn vật.”

“Vị quan đương nhiệm bấy giờ lại là người bác cổ,
ông ta thấy những văn vật kia hình dạng cổ quái, không giống vật bình thường
trong dân gian, bèn truy tra cẩn thận, tìm đến những sơn dân đã dẫn đám người
Tây kia đi đào báu vật, bắt cả bọn đến nha môn giam lại, sau khi dùng nghiêm
hình tra khảo, mới biết những sơn dân ấy tìm được đống văn vật kia ở trong núi
sâu, nơi đó có lẽ là một ngôi mộ cổ. Sau khi chui vào một sơn động trên vách đá
dựng đứng, họ liền trông thấy bên trong có mấy vạn cỗ quan tài nhỏ, trong ruột
rỗng không, mở mấy cỗ ra chỉ thấy vết máu đen ngòm, những quan tài khác họ cũng
không đụng tới, chỉ lấy các món kì trân dị bảo bày trí trong hang động đó ra
ngoài.”

“Sau này vị quan kia lại đích thân đến hiện trường
khảo sát một phen, thấy số lượng quan tài nhỏ trong núi sâu nhiều không đếm xuể,
nắp quan tài đều khắc hình nhật nguyệt tinh tú và các quẻ phù, cũng không biết
là cổ vật từ triều đại nào. Ông ta lo trong quan tài có phong ấn yêu vật bất tường
nào đó, nếu hủy hoại sẽ chuốc lấy tai họa, bèn hạ lệnh bịt kín hang động ấy lại.”

“Nhiều năm sau, ông ta mới hỏi thăm được, vùng Ba Thục
thời xưa bị ngăn cách với thế giới bên ngoài, nơi này rất thịnh hành các phép
phù thủy, di sản văn hóa để lại hết sức thần bí. Văn hóa nơi này chịu ảnh hưởng
của các triều Hạ, Thương, Chu ở Trung Nguyên, hết sức xem trọng những việc xem
sao, coi tướng, phong thủy, bói toán, bao đời nay vẫn luôn tin ở trong mạch núi
Vu Sơn có chôn một vị thiên thần.”

“Theo phong tục miền Vu Sơn, người sau khi chết đều
phải lấy một món nội tạng ra, bao gồm tim, gan, thận, phổi, lá lách... thậm chí
cả nhãn cầu, và đầu lưỡi, tùy theo địa vị của người chết mà cơ quan cắt ra cũng
khác nhau. Thứ này sẽ được bỏ vào một quan tài đá nhỏ, chôn trong hang núi để
cung phụng thần linh.”

“Vùng Ba Thục cổ có rất nhiều nơi lấy Quan Tài làm
tên, truy nguồn gốc, đương nhiên đều xuất phát từ phong tục thần bí lưu truyền
từ thời cổ đại kia. Những hang núi chôn loại quan tài nhỏ này hẳn có rất nhiều,
tuy rằng từ sau Giải phóng vẫn chưa khai quật được người thực việc thực, nhưng
chúng xuất hiện gần mộ cổ Ô Dương Vương cũng không có gì là lạ, chắc chắn là
Quan Sơn thái bảo đào được, rồi lại dày công bố trí, giấu bản đồ thôn Địa Tiên vào
trong. Cửa ải khó khăn nhất ẩn tàng trong ‘Quan Sơn chỉ mê phú,’ hẳn chính là
đây.”

Tôi nghe xong, liền gật gật đầu, nếu lai lịch những
cỗ quan tài này đúng như những gì giáo sư Tôn vừa kể, thì chứng tỏ những gì tôi
suy đoán lúc trước tuyệt đối không thể sai, những câu Sinh môn tương liên, Một
đầu một đuôi; Hai vạn bốn nghìn, Bách đơn hữu thất, hẳn là ứng với nơi này.
Nhưng nếu trong quan tài có bản đồ thật, thì cũng không phải một trong số này,
dựa theo mấy câu trên mà suy đoán, ít nhất phải mở hai cỗ quan tài mới lấy được.

Những kí hiệu khắc trên hơn vạn cỗ quan tài nhỏ này
không cái nào giống cái nào, nhưng tôi dám quả quyết rằng, đầu mối được nhắc đến
trong “Quan Sơn chỉ mê phú,” hai trăm phần trăm là đến từ Chu Dịch. Vì trước thời
Thanh, sách Chu Dịch từ đầu chí cuối tổng cộng đúng hai vạn bốn nghìn một trăm
lẻ bảy chữ, không nhiều không ít hơn một chữ nào. Từ sau thời nhà Thanh đến
nay, số chữ trong phiên bản được lưu truyền rộng rãi lại nhiều hơn một chút,
không còn là con số hai vạn bốn nghìn một trăm lẻ bảy nữa.

Chuyện này ngay những chuyên gia quanh năm nghiên cứu
Chu Dịch cũng không biết, chuyên gia văn tự cổ như Tôn Cửu gia, cả đời chỉ cắm
mặt vào quẻ đồ long cốt, tất nhiên không lưu ý đến chi tiết này, duy chỉ có Mô
Kim hiệu úy chuyên dùng bí thuật phong thủy đổ đấu đào mồ, sở trường là hai môn
kì thuật có xưa, một là Tầm long quyết lấy Hà đồ Lạc thư làm căn bản, hai là
thuật Phân kim định huyệt dựa theo nguyên lí Chu Dịch, muốn hiểu được Phân kim
định huyệt là gì, phải qua được cửa ải Chu Dịch này.

Khẩu quyết của phép Phân kim định huyệt giống như một
loại mật mã hỗn hợp đủ mọi thông tin, tầng sâu nhất toàn là dịch lí, mỗi phương
vị, tọa độ trong phép Phân kim định huyệt đều được biểu đạt bằng văn tự trong
Chu Dịch.

Nếu trình bày phép Phân kim định huyệt này trên một
bản vẽ, thì có thể chia thành bát quái bát phương, các hào các quẻ đều phân làm
tám cửa, mỗi chữ đều là một kí hiệu đặc biệt trên bản vẽ ấy; lại có thể sắp xếp
theo ngũ hành, vì từ thời Tống, thuật phong thủy bắt đầu chú trọng lí thuyết
Ngũ hành, vậy nên mới có thuyết Ngũ tính âm lợi, tức là đem âm đọc của họ, dựa
theo năm âm “cung, thương, chủy, giác, huyền” để quy vào ngũ hành “kim, mộc, thủy,
hỏa, thổ.”

Vì vậy, trong bí thuật phong thủy âm dương, dù suy
diễn huyệt vị phong thủy thế nào đi nữa, chẳng qua cũng chỉ là đem Chu Dịch đảo
qua đảo lại mà thôi, thậm chí số chữ của mỗi thiên trong sách cũng có ý nghĩa
tượng trưng đặc biệt trong thuật số, huyền cơ bên trong thần diệu vô cùng, huống
hồ đây mới chỉ là bát quái, nếu như thật sự có đủ mười sáu quẻ Chu Thiên, e rằng
có thể “xét hết sự biến trong trời đất.”

Mặc dù tôi không dám nói đã nghiên cứu Thập lục tự
âm dương Phong thủy bí thuật và Chu Dịch đến mức thấu triệt, nhưng nếu hỏi sắp
xếp theo bát môn thì quẻ nào hào nào ở cửa nào, mà suy diễn theo ngũ hành thì
quẻ nào, hào nào, mỗi quẻ mỗi hào lại có bao nhiêu chữ, giờ tôi có nằm mơ cũng
thuận miệng đáp ra được. Cộng hết số chữ của các thiên Bát quái trong Chu Dịch
lại, vừa khéo là “hai vạn bốn nghìn một trăm lẻ bảy” chữ, chỉ cần tìm ra hai chữ
đâu cuối trong Chu Dịch, mở ra hai cỗ quan tài tương ứng, chắc chắn sẽ lấy được
bản đồ mà không kích hoạt cơ quan Vũ Hầu Tàng Binh đồ.

Giáo sư Tôn nghe xong liền ngây ra tại chỗ, nét mặt
đờ đẫn hoang mang, hồi lâu vẫn không nói được lời nào. Tuyền béo đứng bên cạnh
sốt ruột hỏi tôi: “Nhất này, cậu tán cho Tôn Cửu gia đơ cả người rồi kìa, có lẽ
nhất thời cũng không định thần lại được đâu, hai chúng ta đừng do dự nữa, ra
tay trước đi thôi.”

Tôi gật đầu đồng ý, chỉ thấy quan tài đá xếp chồng
chất lên nhau tầng tầng lớp lớp, thoạt nhìn tưởng là loạn xà ngầu, khó mà tìm
được hai cỗ quan tài nhỏ trong đó, nhưng bố cục của đống quan tài này thực ra lại
ngầm hợp với quy luật ngũ hành, tôi đảo mắt một vòng đã có thể loại trừ được bốn
phần năm rồi. Sau khi xác định mục tiêu, tôi và Tuyền béo liền bắt tay vào việc.

Tôn Cửu gia thấy chúng tôi đã động tay, vội chạy đến
quan sát, đồng thời không ngừng càm ràm dặn dò chúng tôi phải cẩn thận. Tôi và
Tuyền béo nhổ đinh trên nắp quan tài đá, mở ra xem thử, thấy bên trong không hề
có giấy tờ gì, mà mỗi cỗ chỉ có một nửa mảnh sứ màu vuông vắn, được chế tạo rất
tinh xảo, ghép lại thành một tấm bình phong to cỡ cuốn sách.

Trên mảnh sứ vẽ một thôn trang trông như nơi thế ngoại
đào viên, nhà cửa phòng ốc hết sức rõ ràng, ẩn náu trong một khe suối thâm u tịch
mịch, núi sông bên dưới có rất nhiều chim thú kì lạ, ngoài ra còn đề một bài từ
“Thủy điệu ca đầu” cổ, hàm ý sâu xa, cơ hồ chỉ ra đường vào núi, chúng tôi đang
ở nơi hiểm cảnh, nhất thời cũng không kịp phân tích kĩ.

Tôi cười hắc hắc, thủ đoạn của Địa Tiên chẳng qua
cũng chỉ là vậy, gặp phải đám Mô Kim hiệu úy quả là vận rủi của tên địa chủ nhà
lão, nhưng vừa ngẩng đầu lên, liền thấy Tuyền béo và giáo sư Tôn đang trố mắt
nhìn tôi chằm chằm, sắc mặt cực kì quái dị.

Tôi ngạc nhiên hỏi: “Nhìn cái gì?” Bỗng thấy Tuyền
béo rút xẻng công binh ra đánh “soạt” một tiếng, hướng về phía tôi kêu lên: “Đằng
sau cậu kìa...”

Lúc này, chợt cảm thấy một luồng âm phong ập đến,
tôi biết sau lưng mình có biến, vội ôm chặt hai mảnh sứ, lăn tròn dưới đất một
vòng, đồng thời cầm chắc Nga Mi thích trong tay, bấy giờ mới ngước mắt lên
nhìn, nhưng chỗ tôi vừa đứng lúc nãy lại trống huếch, không có gì cả.

Cảm giác lạnh lẽo ấy lại từ phía sau truyền đến, giờ
tôi mới biết thứ đó ở ngay trên lưng mình, liền ngoảnh đầu nhìn lại, lập tức
trông thấy người đàn bà quyền quý thời Đường đóng vai Đỗ tiên kia đang bám chịt
vào lưng mình, bộ mặt núng nính trát phấn dày cộp trắng đến rợn người, ngũ quan
kì dị tựa như gắn lên một tấm ván thịt trắng phớ, mắt vừa nhỏ vừa dài, cái miệng
anh đào đỏ lòm máu hoàn toàn không cân đối với cả gương mặt to như cái thớt.

Tôi vừa mặt đối mặt với mụ kia, xém chút đã bị dọa
cho khiếp vía, kinh hãi tột cùng. Chủ yếu là vì không chuẩn bị tâm lí đầy đủ,
lúc trước ở trong mộ thất, tôi từng nghi ngờ giáo sư Tôn giở trò, nhưng lần này
cùng đi tìm bản đồ, tôi vẫn luôn theo sát lão ta như hình với bóng, lại cố ý
không thắp nến hòng không cho lão ta cơ hội giở mấy trò ảo thuật mê hồn, nào ngờ
con mụ Đỗ tiên như quỷ mị lại đột nhiên hiện thân trong mộ đạo này, xem chừng,
đây không phải ảo thuật rồi.

Tôi biết là không ổn, dù có di chuyển thế nào, quay
qua quay lại cũng không thể thoát khỏi mụ Đỗ tiên ở sau lưng, chỉ nghe tiếng Quỷ
âm trong bụng mụ ta vang lên thê thiết như nghìn vạn con quỷ đang gào khóc, từng
đợt từng đợt âm thanh khoan xoáy vào tai, khiến đầu tóc tôi dựng ngược hết cả
lên, cũng may, cái khó ló cái khôn, tôi liền nằm ngã ngửa ra đất, vậy là khỏi
phải gánh mối nguy sau lưng nữa.

Chẳng ngờ mụ Đỗ tiên lại chìm luôn vào trong đất, chỉ
lộ đầu ra ngoài, há miệng thè cái lưỡi dài hơn một mét ra, tôi vội gắng sức
nghiêng đầu né tránh, khó khăn lắm mới không bị cái lưỡi đỏ như máu ấy cuốn phải,
thầm nhủ: “Không ổn, người xưa có câu... ma không chạm đất, mụ này có phải thần
tiên gì đâu, không biết tay Quan Sơn thái bảo kia đào được con quỷ này trong
ngôi mộ thời Đường bỏ mẹ nào nữa.”

Tuyền béo định vung xẻng công binh lên đập, nhưng có
tôi chắn phía trước làm cậu ta không thể hạ thủ, cuống cuồng kêu toáng lên: “Nhất
ơi là Nhất, cái đầu của cậu vướng víu quá!” Lúc này, Tôn Cửu gia cũng hốt hoảng
lên tiếng: “Đừng đập vỡ bản đồ bằng sứ, cậu Tuyền... mau, mau lấy gương cổ Quy
Khư ra chiếu vào con quỷ kia đi!”

Trong lúc kinh hoảng, nghe thấy giáo sư Tôn nói vậy,
tôi lập tức giật nảy: “Gương cổ Quy Khư tuy không phải Tần Vương Chiếu Cốt
kính, nhưng dẫu sao cũng là gương cổ bằng đồng xanh, mà gương lại là vật trấn
tà cầu chính của Pháp gia, chuyên môn khắc chế những thứ tà ma ngoại đạo, gặp
phải ma quỷ trong mộ, đương nhiên phải lấy gương cổ Quy Khư ra đối phó, bằng
không làm sao chống đỡ được tình thế trước mắt?” Nghĩ đoạn, tôi cũng vội hét bảo
Tuyền béo mau mau lấy tấm gương cổ ra.

Gương cổ Quy Khư vốn đang giấu trong người tôi, ba người
nhất thời hoảng loạn lại ngỡ là để trong ba lô của Tuyền béo, Tuyền béo nhanh
chóng soát khắp người một lượt, rồi cuống quýt hỏi: “Để đâu rồi?”

Cùng lúc đó, tôi cũng nhớ ra chiếc gương đang ở
trong người mình, chỉ thấy cái lưỡi lạnh băng dinh dính của mụ Đỗ tiên đã cuốn
lấy có tôi rồi từ từ siết lại, tôi thầm than khổ, nhân lúc cánh tay vẫn cử động
được, vội vàng thọc vào trong ngực áo, kéo ra bọc gói tấm gương cổ Quy Khư và
quẻ phù, đẩy tới dưới chân Tuyền béo.

Tuyền béo luống cuống giở cái bọc ra, lấy tấm gương
đồng xanh chiếu vào mụ Đỗ tiên trên lưng tôi. Mặt gương của gương cổ Quy Khư đã
bị hư tổn từ lâu, soi cái gì vào cũng chỉ thấy một chiếc bóng mơ hồ, vừa giơ
gương lên, chỉ thấy một luồng hàn quang bắn ra, phóng thẳng vào mụ Đỗ tiên.

Chỉ nghe trong bụng mụ Đỗ tiên phát ra một tiếng kêu
lanh lảnh, tôi cảm thấy cổ mình bỗng nhiên nhẹ bẫng, cái lưỡi đỏ lòm dài hơn ba
thước của mụ ta đã buông ra, phóng vọt tới chỗ Tuyền béo tựa như rắn độc vồ mồi.

Tuyền béo vội giơ gương lên đỡ, chỉ thấy miệng mụ Đỗ
tiên rách toác, từ bên trong bò ra một lão già tướng mạo như quỷ đói, cơ thể
không to hơn con chuột là bao, người khoác y phục thời thượng cổ, miệng đầy
răng nanh, mặt mũi muôn phần gớm ghiếc, vạn phần đáng sợ. Gương cổ Quy Khư vừa
chiếu vào mặt lão già trông như ác ma ấy, hai mắt lão liền sáng rực lên, lão ta
nằm phục trên cái lưỡi của mụ đàn bà béo, hướng về phía mặt gương gào lên thảm
thiết. Tấm gương đồng dường như không chịu nổi tiếng rít ấy, loáng thoáng đã
nghe có tiếng rạn nứt vang lên.

Giáo sư Tôn kinh hoảng cực độ, tái mét mặt mũi, đứng
bên cạnh kêu lên: “Tuyền béo, cậu cầm ngược gương rồi, mau mau xoay lại, bằng
không cả đám chúng ta đi đời bây giờ!”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3