Ma thổi đèn (Tập 7) - Chương 03

CHƯƠNG
3

CÂU
CHUYỆN ĐÀO MỘ

Sau khi nhà Tần diệt vong, Hán Cao Tổ Lưu Bang xưng
đế, truyền được mấy đời, trước sau đều là thiên hạ nhà Hán, sử gọi là Tây Hán,
đến khi Vương Mam soán ngôi, lại có Quang Vũ phục hưng, Đông Hán ra đời theo
như số trời đã định, nhưng đó là chuyện sau này khoan hãy nói ở đây.

Giai đoạn giữa Tây Hán và Đông Hán, thiên hạ đại hạn
dân đói đầy đồng, bách tính không chịu nổi thống khổ lũ lượt vùng lên. Trong
các lộ nghĩa quân có Lục Lâm và Xích Mi là hai cánh quân mạnh nhất, chấn động
trong triều ngoài nội từ trên xuống dưới, anh hùng hào kiệt khắp nơi ùn ùn kéo
đến đầu quân.

Quân Xích Mi khởi nguồn từ đám dân đen đói khát, bàn
đầu chỉ đánh lộn cướp bóc để mưu sinh, sau bị quan quân truy quét gắt gao, đánh
liên tiếp mấy trận thắng lớn, từ đó uy danh lừng lẫy. Để quyết lâm trận chỉ tiến
chứ không lui, ai nấy cũng nhuộm lông mày thành đỏ. Tựa như quả cầu tuyết lăn,
nghĩa quân dần phát triển lên tới mấy trăm nghìn người, thế như chẻ tre đánh thẳng
vào Trường An, vơ vét của cải lương thực trong thành, đồng thời châm lửa đốt
cháy cung điện. Nhưng giống như đa số các cuộc khởi nghĩa nông dân thời cổ đại,
số quân càng nhiều thì sức chiến đấu càng yếu, về sau quân Xích Mi liên tiếp bại
trận, giằng co mấy trận ở Quang Trung, trong lúc lâm vào cảnh cùng đường tuyệt
lộ, đã đào hầm thông thiên xuống lăng mộ Hán Đế.

Thời Tần Hán rất tôn sùng ngọc liệm, thi thể các bậc
đế phi trong lăng đều được khoác tráp ngọc giao long và tráp ngọc huyền phụng,
hậu thế gọi là áo ngọc đai vàng, tất thảy đều bị lột sạch, báu vật tùy táng
trong lăng mộ Hán chất cao như núi cũng bị quân Xích Mi cướp hết.

Đội quân Xích Mi tung hoành khắp thiên hạ tan rã,
đám tàn quân trở thành bọn cướp đường tụ tập chốn sơn lâm, vẫn giữ vững truyền
thống đào trộm mồ mả, vơ vét của cải trong mộ làm vốn, hễ tìm được dấu vết của
mộ hoàng thất quý tộc, thủ lĩnh bèn dẫn quân đi đào. Phương pháp đào mộ dùng cuốc
to xẻng lớn, khi đông nhất tập hợp tới cả vạn người, xới trăm hang nghìn lỗ
trên núi, thực có sức mạnh “dời non lấp bể,” cho nên các phái trộm mộ coi
phương pháp đổ đấu này của họ là “Xả Lĩnh.”

Đến cuối thời Tống, Hoàng Hà và Bắc Đô bị quân Kim
xâm chiếm, tập đoàn quân sự do Đào Sa Quan ở Hà Nam thống lĩnh nhất loạt khai
quật Hoàng lăng, các lăng mộ của hoàng đế Bắc Tống đều bị hủy hoại, đào rỗng
vét sạch. Không được mấy năm, Kim lại bị Mông Cổ tiêu diệt, tàn quân của Đào Sa
Quan từ đó nhập vào đám trộm Xả Lĩnh. Lưu Tử Tiên cầm đầu đám trộm Xả Lĩnh lúc
bấy giờ là một kì nhân, ông ta tiếp thu một cách rộng rãi các phương pháp tiên
tiến khai quật Tống lăng, cải tiến dụng cụ trộm mộ, truyền lại thuật thiên can
và bí quyết Khoanh huyệt.

Tuy dụng cụ và phương pháp trộm mộ đã qua mấy đời cải
tiến có những thay đổi long trời lở đất, nhưng thực lực của đám trộm Xả Lĩnh
ngày càng sa sút, ẩn trong giới lục lâm đã mấy trăm năm mà chưa có vụ nào ra hồn,
chỉ là ngẫu nhiên tụ tập, đào vài ngôi mộ kiếm ít vàng bạc của cải. Truyền mãi
đến thời Dân quốc, kẻ cầm đầu cuối cùng của phái Xả Lĩnh là lão Trần mù vốn tên
Trần Ngọc Lâu, tự Kim Đường, đám lục lâm quen dùng tên giả nên ít ai biết tên
thật của lão.

Sau này lão dẫn người đi Vân Nam tìm mộ Hiến Vương,
nào ngờ chưa tìm thấy quầng thủy long đã gặp phải bầy trùng độc trong trùng cốc,
hỏng cả đôi mắt rồi biệt tăm từ đó. Cây đổ thì khỉ tan đàn, đám trộm Xả Lĩnh kế
truyền cả ngàn năm từ đây biến mất trong lịch sử như mây tan khói tản.

Lai lịch xuất thân của lão Trần mù mang nặng màu sắc
truyền kì, Trần gia là gia tộc hiển hách một vùng Tương Âm Hồ Nam, tiền muôn bạc
vạn, ruộng tốt ngàn mẫu, kì thực đều nhờ vào trộm mộ mà phát tài. Trần gia đã
ba đời cầm đầu đám trộm, lão Trần ra đời đúng lúc chiến tranh loạn lạc, để trốn
tránh tai họa chiến tranh, người trong gia tộc đều trú xuống một địa cung mộ cổ
đã bị vét sạch, suốt hơn hai tháng không nhìn thấy mặt trời, đợi loạn binh đi
qua mới dám quay về gia viên. Lão được sinh ra trong chính địa cung ấy, ra đời
trong hoàn cảnh tối tăm không thấy mặt trời khiến thị lực lão không giống người
thường, có thể nhìn thấy mọi vật trong bóng tối. Lúc lên mười tuổi lão được một
đạo sĩ áo quần rách rưới trên phố dắt đi, thì ra đạo sĩ này thấy lão có cặp “dạ
nhãn” hiếm gặp, hơn nữa cốt cách tao nhã không giống người thường, biết rằng nếu
bỏ công dạy dỗ có thể phân biệt báu vật thế gian, bèn dắt lão lên núi truyền dạy
dị thuật.

Còn chưa học xong thì lão đạo sĩ chết già, lão Trần xuống
núi trở về nhà, thừa kế gia nghiệp, cầm đầu đám trộm Xả Lĩnh. Sở dĩ có thể ngồi
trên cái ghế kim giao, bàn thân lão có bản lĩnh gì chỉ là thứ yếu, chủ yếu phải
dựa vào vòi bạch tuộc của Trần gia, hai phái chính tà đều ăn được cả, mọi giao
dịch buôn bán thuốc phiện và vũ khí đạn dược qua lại giữa Hồ Nam – Quý Châu đều
do một tay lão lũng đoạn, nên các cánh quân thổ phỉ vùng Tam Tương Tứ Thủy, bất
luận thế lực lớn nhỏ thế nào đều phải dựa vào lão, lão nghiễm nhiên trở thành
vua một vùng.

Thời kì Dân quốc, Trung Quốc bước vào thời đại xung
đột kịch liệt giữa trào lưu tư tưởng mới và tư tưởng tàn dư cổ hủ, tình hình xã
hội vô cùng hỗn loạn, không chỉ chiến sự liên miên giữa các cánh quân phiệt, mà
còn xuất hiện tình trạng hạn hán phương bắc, lũ lụt phương nam trăm năm khó gặp,
khiến cho nhiều tỉnh thất thu mùa màng, hàng vạn dân đen gặp nạn, để có cơm ăn
càng nhiều người liều lĩnh dấn thân làm thổ phỉ, hoặc làm những việc thất đức
như buôn người, buôn lậu thuốc phiện, vận chuyển vũ khí, đó quả là “thập niên
can qua thiện địa lão, tứ hải thương sinh thống khổ thâm.”

Thường có câu: “đồ cổ thời tịnh, vàng ròng thời loạn.”
Trong những năm tháng chiến loạn, chỉ có đại hoàng ngư[6] nguyên chất mới là đồng
tiền mạnh. Nhưng trong mắt dân trộm mộ, với cục diện này, luật pháp nhà nước đã
trở thành thứ có cũng như không, đây chính là thời cơ cực tốt để đào mồ quật mả
vơ vét mật khí. Những tay trộm mộ lão luyện đương nhiên không thể bỏ qua cơ hội.
Đợi đến một ngày chính trị ổn định, giá trị cổ vật tất sẽ tăng cao, lúc đó đem
bán những thứ trộm được sẽ phất to.

[6]
Vàng thỏi

Lão Trần mù cầm đầu đám trộm Xả Lĩnh, việc đổ đấu
phát tài đương nhiên đã làm không ít, khi ấy mắt lão còn chưa hỏng, nhãn lực quả
thật hơn người, có thể xem xét vết bùn nhận màu cỏ, phân biệt bảo vật nên thường
dẫn thuộc hạ đi khắp nơi hành sự. Thế sự càng loạn thì việc làm ăn của lão càng
vượng, lão thích hành trang gọn nhẹ nên thường cải trang thành thầy phong thủy,
tới những bản làng hẻo lánh thu thập tin tức, thăm dò mồ mả xưa cũ.

Thuật trộm mộ không nằm ngoài tứ quyết “vọng, văn, vấn,
thiết,” có khi chỉ nghe qua địa danh là biết, ví dụ như phàm những “Lăng thôn,
Mộ trang, Song khâu trấn, Thổ Phần câu, Hoang Táng lĩnh…” đều ẩn chứa huyền cơ,
thế nào cũng có khu mộ táng lớn. Có nhiều thôn trang do những người giữ lăng
cho dòng dõi hoàng tộc năm xưa cư ngụ mà thành, hoặc được đặt theo tên cổ nhân
được chôn cất ở nơi đó, tuy bể dâu biến đổi, những gò đất mộ cổ đã bị san bằng,
không còn dấu vết trên mặt đất, nhưng vẫn có thể “vấn” được một chút manh mối từ
các bậc già cả địa phương. Muốn moi được thông tin cần có kinh nghiệm và bản
lĩnh cao minh, không phải ai cũng làm được.

Lão Trần mù giỏi ứng biến lại mồm mép tép nhảy, lời
từ mồm lão nói ra cứ như chín chín tám mốt đóa hoa sen, không chỉ tỏa ngát
hương sắc mà mỗi đóa còn muôn màu muôn vẻ, cho nên tự quyết “vấn” này được lão
phát huy triệt để. Nhưng trong môn bát đạo “vọng, văn, vấn, thiết,”moi tin từ mồm
dân bản chỉ là hạ pháp của “vấn.”

Thượng pháp của vấn không phải hỏi người mà là “gieo
quẻ hỏi trời,” thông qua gieo quẻ mà đoán ra vị trí mộ cổ, để đào hầm khoét lỗ
xuyên thẳng quách âm, hoặc bói xem việc trộm mộ hung cát thế nào. Lão Trần mù
không thạo mấy cổ thuật này, tuy cũng hiểu nguyên lí bên trong nhưng hễ triển
khai thường không ứng nghiệm, nghe nói chỉ có Mô Kim hiệu úy mới thông hiểu thượng
pháp của hai quyết “vọng, vấn.”

Nhưng lão có vài ngón nghề chân thực, phương pháp và
khí giới truyền lại bao đời của phái Xả Lĩnh không gì là lão không tinh thông,
những thuật còn lại của “vọng, văn, vấn, thiết” lão cũng nắm rõ trong lòng bàn
tay, nên mấy năm trời đặt chân khắp thiên sơn vạn thủy quả thật đào được không
ít mộ cổ.

Có một tên đầu đảng phiến quân xuất thân từ đám cướp
Tương tây tên là La Lão Oai, là anh em kết bái của lão Trần. Khi ấy thời cuộc hỗn
loạn, kẻ nào nắm trong tay nhiều người nhiều súng thì là kẻ mạnh, với sự hỗ trợ
của lão Trần, La Lão Oai đã thành lập được một tiểu đoàn công binh chuyên đi quật
mồ trộm mộ, vét sạch tất cả các mộ cổ có thể vét trên địa bàn, đem bảo vật đổi
lấy tiền, mua súng ống đạn dược ồ ạt nên nhất thời thực lực càng lớn mạnh, lại
từng bước mở rộng địa bàn, thôn tính các phiến quân nhỏ, rồi tiếp tục tìm mộ cổ
quật trộm.

Hôm ấy La Lão Oai đích thân tới Trần gia trang ở
Tương Âm tìm gặp lão Trần, bảo gần đây gặp phải áp lực lớn về mặt quân sự, muốn
mua một lô súng trường hiện đại của Anh quốc, nay tham vọng ngày càng lớn,
không gáy thì thôi chứ đã gáy là phải kinh người, định trang bị một lượt cho cả
sư đoàn. Thói đời bây giờ là phải đông súng lắm nắm đấm to thì mới có trọng lượng,
nếu có thể nhanh chóng thành lập sư đoàn vũ khí tinh nhuệ này, chỗ dựa của y mới
càng thêm vững chắc, cho nên muốn mời lão Trần ra tay, dẫn theo mấy trăm cao thủ
Xả Lĩnh cùng một tiểu đoàn công binh, vác thuốc nổ vào núi, quan phỉ cùng hợp
tác tìm lấy một ngôi mộ lớn để đào, minh khí cưa đôi mỗi bên một nửa.

Lão Trần cười nói: “La soái này, trang bị cả một sư
đoàn ít nhất cũng cần mấy nghìn khẩu súng trường, lại thêm mấy triệu đầu đạn và
mười mấy khẩu đại bác. Chú phải biết hàng Anh quốc không hơn gì hàng Hán Dương
Tạo[7], lại không rẻ hơn chút nào, chú lấy bàn tính ra gảy thử, tính xem phải
đào bao nhiêu minh khí mới đủ cho chú mua số vũ khí đạn dược ấy? Cứ theo tham vọng
của chú, chí ít cũng phải tìm được mộ của Chư Hầu Vương. Nay mộ cổ quanh đây sớm
đã bị chúng ta đào sạch rồi, muốn tìm mộ như thế đâu có dễ.”

[7]
Hán Dương Tạo là loại súng nổi tiếng được chính phủ Thanh đặt chế tạo ở xưởng
công binh Hán Dương theo mẫu súng trường M1888 của Đức. Súng sử dụng đạn súng
mô de đường kính 7,92mm, sơ tốc đầu đạn 650m/s, cự li thước ngắm 200m, dài
1.293 mm, năm băng đạn cố định

La Lão Oai thấy lão Trần khó khăn thì không dám nhắc
chuyện mở rộng tân binh nữa mà chai mặt cầu xin: “Ông chủ Trần ơi, ông anh của
tôi ơi, nếu là việc nhỏ thì phiền ông anh làm gì? Độ này lính tráng tăng thêm
nhanh quá, quân phí lại căng, nếu còn không phát cho anh em ít thuốc phiện hoặc
bạc trắng thì con bà nó, tôi nắm chắc thế nào bọn ấy cũng nổi loạn. Ông chủ Trần,
nếu ông anh thấy chết mà không cứu thì anh em chúng tôi đành vứt cái sạp rách
này tiếp tục lên núi làm cướp thôi.”

Trong bụng lão Trần sớm đã có chủ trương, lão gần
đây cũng túng, đang tính làm một vụ lớn, chỉ hiềm chưa chắc ăn nên chưa muốn
nói với La Lão Oai mà thôi. Nhưng đã đến nước này thì cũng đành lật bài ngửa, vội
vàng nói: “Nghe nói ở lưu vực sông Mãnh Động rừng núi thâm u, là nơi người Di
Hán sinh sống hỗn tạp không ai quản lí năm xưa quân Nguyên kéo xuống phía nam
đã ác chiến với thổ dân suốt một năm ròng, chết mất kha khá phiên tử[8] quý tộc,
trong đó có một phiên tăng[9] và một đại tướng thống binh là tùy táng hậu hĩnh
nhất. Nay trong núi Bình Sơn vẫn còn giấu không ít mộ phần của thổ ti, thổ dân
và binh tướng nhà Nguyên. Có điều mộ cổ đời Nguyên bên trên thường không có lối
vào cũng không trồng cây, trước nay vốn chôn sâu táng rộng, hơn nữa người Miêu
Động biết phóng mê hạ độc, lại có tà thuật yêu dị như lạc động[10], đuổi
thây[11], thế lực của chúng ta không với được tới đó, tùy tiện xông vào e xảy
ra sơ xuất, thế nên tôi chần chừ khó quyết vụ này mãi…”

[8]
Người dân tộc thiểu số

[9]
Thầy tu đạo Lạt ma.

[10]
Tương Tây Hồ Nam có rất nhiều địa danh lấy Động làm tên, theo tín ngưỡng của
dân tộc Miêu, vạn vật có linh hồn, hang động thần bí u tối nhất định có thần động,
“lạc động” có nghĩa để rơi hồn vào trong hang động, chỉ trạng thái tâm hồn ngơ
ngẩn, mất hồn.

[11]
Đuổi thây là pháp thuật có thể sai khiến xác chết đi đứng trong truyền thuyết
thuộc một loại trùng thuật của dân tộc Miêu

La Lão Oai là tên quân phiệt đào mộ thành nghiện, vừa
nghe trong Bình Sơn có nhiều mộ thì không khỏi vui sướng ngất ngây. Trước đây hắn
bị người ta chém một nhát vào mặt, để lại vết sẹo to tướng làm khóe miệng lệch
sang một bên vì thế mới có tên là La Lão Oai[12], lúc này hắn mới sướng điên đến
nỗi khóe miệng vốn đã méo càng như sắp ngoác đến tận sau gáy.

[12]
Oai trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là lệch
.

Hắn đứng dậy khỏi ghế, quen thói tác phong thổ phỉ,
bình thường nói chuyện cũng thích rút súng, bèn móc khẩu súng lục bàng bằng ngà
voi, lệnh cho phó quan lập tức trở về tập hợp đại đội súng ngắn và tiểu đoàn
công binh, lính công binh mang theo xà beng, mai, xẻng, cuốc chim, đồng thời
chuẩn bị lượng thuốc nổ lớn, ngày hôm sau phải dẫn quân vào núi.

Lão Trần vội vàng ngăn lại, việc này cần bàn bạc kĩ
càng, mộ cổ trong núi Bình Sơn không thể nói đào là đào, nếu không tìm được địa
cung và mộ đạo thì bao nhiêu thuốc nổ cũng không xong việc, vả lại đại quân di
chuyển khó tránh khỏi kinh động đến thổ dân bản địa, ở nơi địa hình phức tạp
không chừng còn xảy ra nhiều việc khó lường. Trước mắt chỉ nên dẫn theo vài người
nhanh nhẹn đắc lực, vào thám thính ngọn nguồn cái đã.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3