45. Hành Trình Hai Trăm Dặm Trên Biển Đông (Jimmy Le)

Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông

Hành Trình Hai Trăm Dặm Trên Biển Đông

Jimmy Le

Trước khi vào chuyện tôi tự
giới thiệu, tôi là Jimmy Le, tóm tắt tiểu sử sinh ra và lớn lên trong một gia
đình nghèo ở thành phố Cần Thơ. Thủa nhỏ yêu nghề máy thích cuộc sống phiêu
lưu, tốt nghiệp trung cấp kỹ thuật, năm mười bảy tuổi với nghề chuyên môn về
động cơ (Diesl) và gia nhập gia đình mũ xanh TQLC. Năm 1968 chưa tròn mười tám
tuổi, được phục vụ ở đơn vị YTTV- ĐVT - SDTQLC chức vụ tài xế quân xa. Năm 1971
làm đơn xin về nguyên quán của cha tôi được bộ quốc phòng chấp thuận và thuyên
chuyển về lữ đoàn 4-VT-vùng 4 - Chiến thuật, chức vụ hạ sĩ tài xế quân xa. Phục
vụ đến ngày 30-4-1975.

Tôi cưới vợ năm 1971. Sau bảy
năm góp mặt yểm trợ khắp các chiến trường kể cả chiến trường ngoại biên. Sau
miền Nam đổi chủ - những người chủ mới từ bắc vĩ tuyến 17 cho rằng tôi loại ác
ôn, có nợ máu với nhân dân nên đưa đi cải tạo ở núi Trầu (Kiên Lương), Hà Tiên,
sau hai năm trả tôi về địa phương. Khi trở về nhà cũ, thì mới hay vì sợ áp lực
và theo đường lối mới của “nhà nước” mà cha tôi phải đi về quê tăng gia sản
xuất. Vì thương cha già, tôi cho vợ con tôi cùng về quê để hôm sớm có người
chăm lo, còn một mình tôi ở lại Cần Thơ đi tìm việc làm nhưng đến đâu cũng bị
từ chối. Vì là thành phần “tàn dư của chế độ cũ”. Sau cùng tôi mua chiếc xe ba
gác đạp để hàng đêm xuống bến Ninh Kiều chở rau cải, ngày thì ai gọi thuê chở
cái gì thì lãnh chở để kiếm sống và còn để dành tiền để gửi về quê lo cho gia
đình. Tôi cũng bằng lòng với số phận nên những lúc rảnh rỗi đã làm mấy câu thơ,
để đọc mà an ủi cuộc đời từ một tài xế mà bây giờ đẩy chiếc xe ba gác.

“Rồi từ đó anh đi làm ba gác

Khoác lên mình chiếc áo rách vai

Trong đêm xuân anh mơ được những gì

Đời ba gác người yêu là rau cải.”

Nếu thời gian bình thản trôi
đi thì chắc không có hồi ký của chú Sáu ba gác, mà giờ này chắc chú Sáu còn
tiếp tục đẩy xe. Qua thời gian sống xa tôi, vợ tôi quan hệ với tên tập đoàn
trưởng ở ấp. Sau khi thằng con trai lớn bắt gặp mẹ nó dan díu, tôi hay tin bán
xe ba gác về quê làm đơn thưa kiện, bây giờ nhớ lại tôi làm việc đó hết sức là
dại dột. Như bạn đọc cũng hiểu chánh quyền mới, người dân gởi đơn phải chầu
chực có khi gần nửa tháng để ngâm cứu, mà chung quanh công an ấp xã đều là vây
cánh của tên tập đoàn trưởng. Cuối cùng, công an xã ra lệnh công an ấp và du
kích bắt tôi với tội trạng là tôi cáo gian và tình nghi tôi là CIA làm mất thể
diện cán bộ ở địa phương và dánh lệnh tầm nã, may mắn, người du kích sai đi bắt
tôi lại cho tin cháu tôi đưa đi trốn.

Trở về Cần Thơ thì phương
tiện làm ăn đã bán rồi, chỉ còn ít tiền, tôi sắm chiếc xe đạp chở khách để sống
qua ngày. Ngày ngày chỉ đủ lon gạo bó rau và bịch tương, và không biết bị bắt lúc
nào vì được mang tên là CIA. Dịp may đến với tôi, người chị thứ năm của tôi từ
Cà Mau về Cần Thơ. Người chị tôi nghèo, nhà chỉ có hai chiếc xuồng tam bản chở
mối kiếm sống, sau khi nghe hoàn cảnh, chị tôi dắt tôi xuống Cà Mau. Tôi cầm
chiếc xe đạp được tám trăm đồng để làm lộ phí. Sau khi xuống Cà Mau, chị tôi
giớ thiệu với bà Tám chủ ghe, sau khi nhìn qua tôi và qua sự giới thiệu tôi
biết nghề máy, tôi được làm công cho bà, điều kiện không có trả tiền, chỉ cho
ăn cơm, nửa tháng cho một bánh thuốc Gò Vấp và một sấp giấy báo cữ vấn hút.
Công việc mỗi ngày lái ghe ra bờ biển xúc cá lúc nước ròng vô ghe, và sau đó
lái ghe về quận Năm Căn vác đồ lên bờ, một chiếc ghe dài hơn hai mươi mét, rộng
bảy, tám mét, trọng tải ước chừng năm tấn. Ngày ngày, tôi phải làm công việc đó
và quan sát cửa biển Hòn Khoai, nó nổi lên cồn cạn, để đến ngày ra đi không bị
mắc cạn. Cái vấn đề khó khăn của tôi là lúc đi tôi chỉ mặc có bộ đồ và cái quần
đùi, cũng may, cái quần đùi bằng vải kaki nên chịu đựng hơn ba tháng trời.
Nhiều lần tôi nói với bà Tám có ra chợ mua cho tôi cái quần đùi nhưng rồi bà cứ
khất lần cho đến ngày ra đi.

Bạn đọc cũng hiểu địa danh U
Minh nổi tiếng là muối, cái khổ của tôi lúc đó là mỗi ngày lao động chiều tắm
nước mặn, xách một gầu nước ngọt và cái nùi giẻ chạy vô sâu trong rừng tìm một
gốc cây đứng rửa, sỏ cái chân cởi quần vắt cho ráo nước và dùng nùi giẻ thấm
nước ngọt để lau qua cái body. Eo ơi, mỗi lần như vậy các bạn có tưởng tượng
không biết bao nhiêu là muỗi và bù mắc thi nhau tấn công, tôi không hiểu ngày
nào được ra đi. Rồi sự mong đợi đã đến với tôi chiều ngày 22-12-1987. Cuộc hành
trình hai trăm dặm trên biển Đông bắt đầu.

Ba giờ chiều ngày 22-12-1987,
bà Tám cho tôi biết hành khách đã ém rải rác xung quanh huyện Năm Căn đủ rồi.
Lệnh sáu giờ chiều, tôi lái ghe qua đổi nước lấy mười can nước ngọt, còn lương
thực, xăng do hai xuồng tam bản chở ra điểm hẹn gần cửa biển Kinh Năm. Tôi nhận
đèn pin, ám hiệu “hỏi hai ngắn đáp một dài”, mật khẩu tổng số là chín. Thí dụ
từ xa thấy xuồng đến tôi bấm hai đèn là bên chiếc xuống kia trả lời bấm lại một
đèn hồi lâu. Để ngăn ngừa công an thì hỏi tiếp mật khẩu: “Mạnh giỏi anh Sáu?” Bên
kia trả lời: “Dạ khỏe anh Ba”, sáu cộng ba chung là chín thì đúng là phe ta,
còn nếu sai thì lo chạy trốn. Phần tôi đến điểm hẹn, tôi chợt nghĩ ra rằng đi
với hai cái máy đuôi tôm chắc không ổn, nên tôi vác búa lên bìa rừng đốn một
cây đước thật suông dắt theo bên ghe để có gì làm buồm. Và tôi đốn thêm một ít
củi, trời tối muỗi cắn dữ quá, tôi đốn được một ôm củi dài non một mét để sau
lái ghe khỏi có thiếu củi chẻ mà dùng, sau đó canh chừng từng chiếc xuồng đến.
Tất cả những ám hiệu đều tốt.

Gần tới giờ xuất phát, ông và
bà chủ ghe đi vỏ lãi ra lấy giấy của hành khách để sau này thanh toán với người
nhà. Ông chủ ghe bắt tay tôi lần chót chúc may mắn, trao cho tôi một hải bàn và
một bản đồ vùng biển Cà Mau, Malaysia, Thái Lan. Nói hải bàn nghe cho oai, thực
ra nó chỉ là cái địa bàn ở bên Mỹ auto part nào cũng có bán để trang trí trên
xe. Có kinh nghiệm sau nhiều tháng ra vô, vấn đề là phải né ngọn hải đăng suốt
đêm quét vệt sáng dài bao quanh vùng biển Hòn Khoai. Để né tránh cồn cạn đầu
tiên, tôi phải bắt hướng west đi về Thái Lan và chạy hai máy để thoát nhanh,
chỉ sợ tàu ở đồn công an biên phòng Hòn Khoai. Vừa ra chừng ba mươi phút thì đa
số là phụ nữ bắt đầu nôn ói từ mười hai giờ khuya đến rạng sáng ngày 23-12-1987.
Tám giờ sáng thì bỏ Hòn Khoai đằng sau lưng chỉ còn nhìn thấy bằng cái bàn ăn
cơm. Từng đoàn cá nươc lội theo hai bên hông ghe rất lâu như muốn đưa tiễn
chúng tôi. Tổng số người trên ghe là hai mươi sáu người. Lúc này, tôi nhờ những
cậu trai trẻ phụ dọn sạch sẽ trên ghe do các cô nôn ói và tát nước ghe còn tôi
châm thêm nhiên liệu và kiểm soát hải bàn, tôi kẻ đường biểu diễn từ mũi Cà Mau
đi Pulau Bidong. Lúc này, tôi bắt đầu qua hướng south eath và đi phương giác
110. Mọi việc xong xuôi mọi người còn tỉnh táo nấu mì gói ăn, lúc đó mới có dịp
hỏi tên nhau. Ba giờ chiều 23-12-1987 thì hết thấy Hòn Khoai, tôi cắt giảm một
động cơ để hy vọng luân phiên sử dụng được lâu hơn.

Đêm 24-12-1987 phải nói là
đêm Giáng sinh tuyệt vời, mặt biển yên như trong hồ, ghe đi nhanh nhưng rồi
chiều ngày 25-12-1987 thì hai cái máy lần lượt ra đi và bị tôi quẳng xuống
biển. Đúng như dự đoán, tôi nhờ mấy cậu thanh niên dựng cây cột buồm và lấy cái
mền rách ra làm buồm. Tôi nhờ một cậu giơ cái khăn lên ước lượng gió thổi 10km/h.
Bây giờ mọi người trên ghe hết sức hoang mang vì sợ trôi về Việt Nam sẽ đi tù.
Lúc này chiếc ghe không còn điều khiển theo ý muốn, nhìn hải bàn lệch về hướng south
west. Tôi cầm bản đồ, tính toán và mạnh dạn trả lời với bà con trên ghe chắc
chắn không bị trôi về Việt Nam vì đã đi suốt hòn Son Rạch Giá và định mệnh đã
đưa chúng ta vào vùng biển Thái Lan, lành dữ ra sao thì chưa biết và bao lâu
đến bờ thì không hiểu. Trước mắt phải giới hạn nước uống, một ngày một người
chỉ được uống một cốc nước nhỏ, chỉ có hai đứa nhỏ thì lúc nào khát sẽ uống nửa
cốc riêng. Riêng tôi vì ở quân đội, chiều tôi dùng tấm nylontrải mui ghe hứng
những giọt sương đêm để sáng thấm giọng.

Tối đêm 26-12-1987 thì gặp
tàu đánh cá Thái Lan loại nhỏ nhưng chiếc tàu này hiền, tuy nhiên không cứu
cũng không đả động đến chiếc ghe của chúng tôi. Mọi người đều đặt niềm tin vào
tôi vì thấy tôi đã nói đúng: đã thực sự đi vào Thái Lan. Sáng ngày 27-12-1987,
chúng tôi bắt gặp một tàu đánh cá Thái Lan loại to, vị thuyền trưởng đã nhân
đạo cho chúng tôi ăn một bữa sáng trên boong tàu và cho thêm nước, thực phẩm.
Trên ghe tôi có một cậu biết tiếng Anh trao đổi thì người thuyền trưởng nói
theo luật Hoàng Gia, tất cả tàu Thái Lan không được kéo giúp ghe vượt biên, nếu
hải quân Hoàng Gia bắt gặp sẽ bị phạt, vì lẽ đó sau khi giúp nhân đạo tàu này
xô ghe chúng tôi ra và ra đi.

Trưa ngày 27-12-1987 tôi nghe
có tiếng phi cơ trên nền trời, lập tức tôi lấy cái bếp ra mũi ghe nhóm ít lửa
bỏ tí vỏ cây đước, lấy cái áo trùm lại rồi dỡ ra làm ám hiệu cầu cứu theo bài
mưu sinh thoát hiểm, lấy khăn trắng vải mui ghe và lấy cục than kẻ chữ S.O.S
nhưng rồi chiếc máy bay bay đi luôn. Buổi chiều, nước biển đang trong, từng đám
cá lội nhợn nhơ bỗng dưng biến mất, tôi lo sợ vì báo hiệu biển có sóng lớn. Đó
là kinh nghiệm của một cư dân truyền lại cho tôi trong những ngày hành quân
vùng duyên hải. Tôi thương hai đứa nhỏ trên ghe, đứa bảy tuổi thì cha mẹ luôn
bị say sóng, có chuyện chắc không lo được gì nên tôi lấy can không cột lại làm
sẵn cho hai vợ chồng này rằng nếu có chuyện gì bất trắc thì lấy cái phao và ôm
hai đứa con mà còn hy vọng. Tôi không dám nói vì chưa hiểu có đúng vậy không.

Khoảng bảy giờ tối, những
hiện tượng bắt đầu xuất hiện, mưa nhẹ biển gầm lên, những ngọn sóng ước chừng
như quả đồi sẵn sáng chụp bao phủ chiếc ghe như là tấm lá nhỏ. Cũng may là sóng
thưa, chiếc ghe bị nhấc lên cao rồi lại bị hụp xuống, chạy dài ra rồi nhấc lên.
Bây giờ, đa số mọi người đều ói dữ tợn, còn rất tỉnh táo, người ói nằm rũ ra
ghe, người nằm như cá hộp, vấn đề tát nước thật là chật vật, một người tát, một
người phải lôi người ói sang một bên. Dỡ ván sán ghe đến không có, cái đèn pin
bị lỏng khi tắt khi cháy.

Sáng ngày 28-12-1987, sóng
bắt đầu hơi dịu lại, cho đến bốn giờ chiều tôi thấy một chiếc tàu đánh cá chạy
nhanh về hướng chúng tôi. Tôi nói chiếc tàu này có ý tấn công, lập tức tôi bố
trí cậu Hiền ở mũi ghe, cậu này ở sứ Vĩnh Châu và Út Bà Bóng ở phía sau lái,
tôi ngồi giữa ghe lấy mấy cây củi dài phát và phân công, vừa xong thì chiếc tàu
đó đâm vào gần đằng mũi ghe, cậu Hiền dùng cây đánh ngang ống quyển tên Thái
Lan nhảy qua như tôi đã dặn dò. Trước khi đánh, tôi áp dụng bài học đánh cận
chiến nhưng rủi thay mũi ghe thì tròng trành, phần thì sóng, phần thì do con
tàu bị hút vào, sau khi đánh thì nghe hai tiếng “á”, rồi tên Thái lan và cậu
Hiền bị văng xuống biển, chiếc tàu Thái vòng lại vớt người, còn cậu Hiền trôi
ra xa, sóng và gió đưa ghe tôi ra xa rồi mất hút trong màn sương chiều, một
người bạn vừa mới quen vài ngày đã vĩnh viễn ra đi.

Đêm đó vì lo và buồn và cái
hậu quả chiếc tàu đụng vào, chiếc ghe bị rêm, nước vào nhiều quá, tôi lo tập
chung bốn người thức xuốt đêm ở bốn khoang trên ghe để lo mà tát nước, ai nấy
đều cầu nguyện, chúng tôi vấn thuốc rê hút suốt đêm chống buồn ngủ và tát nước
nghe tay rã rời. Sáng lại tôi bàn kế hoạch bây giờ cứu vãn tình huống chỉ còn
có cách lấy tấm nylon dài che dọc chiếc ghe, và nhổ những cây đinh trên kèo mui
đóng phủ bên ngoài vết nứt do chiếc tàu gây ra thì mới giảm được nước vào ghe.
Công việc này cần bốn người, ba mười người chia đều căng nylon, một người cầm
búa đóng. Tất cả được cột vòng một bên nách cọng dây dính trên ghe để không bị
nước cuốn trôi và cán của cây búa cũng được buộc một cọng dây để có vuột còn
níu kéo được.

Phân công xong, biển lúc đó
tương đối êm, bây giờ chỉ còn sợ bầy cá mập nhỏ, tôi dặn kỹ rủi ro mà có đóng
dập tay, lập tức la lên để kéo lên ghe nếu không cá mập con sẽ tấn công. Một
con rỉa một tí thì chết. Sau một tiếng thì công việc ổn cả cả, bây giờ nước bớt
vô, chừng ba tiếng tát một lần. Vấn thuốc ngồi ăn bánh bía, bỗng tôi thấy dề
rác trôi nhìn kỹ có vỏ chai nước tương, tôi la lớn mừng rỡ: “Gần tới bờ rồi bà
con ơi vì tôi thấy vỏ chai nước tương trong đám rác”. Năm giờ chiều, nhiều bầy
chim biển bay lượn trước mũi ghe, ai cũng mừng rỡ nhưng rồi tai biến lại đến
với chiếc ghe tôi nữa. Lúc đó trước sáu giờ từ trong bờ có chiếc ghe nhỏ chỉ
lớn hơn chiếc ghe tôi có tí chút chạy vòng xung quanh chiếc ghe tôi, có ba tên
Thái Lan mặt mày dữ tợn. Trên ghe có cô Hoàng, sau này đi Canada, học lỏm đâu
được tiếng Thái chữ ăn cơm là “kinh khào”, bọn Thái lan thấy có con gái lập tức
tấn công, một tên Thái Lan nhẩy qua sau lái ghe, một tên cầm búa bị Út Bà Bóng
lấy cái leng xúc cát vớt trúng ngang ba sườn la thất thanh và văng xuống biển.
Chiếc ghe Thái Lan vòng qua vớt tên Thái xong và chạy hết ga lên khói đen.

Nói về tôi sau khi đụng vào
lái súc và văng bánh lái xuống biển, bây giờ tình trạng chiếc ghe trôi quay
ngang mà không còn điều khiển được. Để đối phó, tôi nói với Út Bà Bóng: “Hai cậu
mạnh tay khi nào nó tấn công nữa cậu lấy can xăng hai mươi lít ném qua, cần
nhất trúng ngay chỗ thằng lái ghe, tôi sẽ phóng lửa qua, bây giờ chỉ còn đánh đàn
hy sinh”. Vứa nói, tôi kéo can xăng giao cho Út, lập tức tôi bẻ nẹp tre xé áo
trên ghe quấn vào đầu nẹp tre làm bùi nhùi tẩm chút xăng và thủ cái quẹt ga.
Chuẩn bị vừa xong, ghe thái Lan sau khi cứu người đâm thẳng váo giữa ghe và một
tên nhẩy qua, vì mũi ghe lợp lá mỏng, tên nhẩy qua lọt chân, nhân cơ hội tên
Thái Lan mất thăng bằng, tôi lấy cây đước dài từ dưới lòng ghe chọt thẳng xuyên
qua lớp lá mui ghe trúng ngay ngực, tên này la một tiếng rồi văng xuống biển.
Hạ được hai tên, lên tinh thần, chiếc ghe Thái vòng qua hông bên phải để vớt,
bọn chúng vừa vòng qua ngang hông, tôi la to ném can xăng qua, Út Bà Bóng lập
tức ném qua liền, may mà trúng ngay góc chỗ tên Thái Lan điều khiển ghe, can
dòn do tái sinh nhiều lần đã để xăng chảy ra, tôi phóng nẹp tre đốt lửa và gây
ra một đám cháy trên ghe Thái Lan, tiếp tục Út ném bồi thêm một can nữa để tăng
sự cháy. Sau đó gió thổi mạnh đưa chiếc ghe tôi vào thị trấn Songkhalia.

Nói về cuộc chiến lần này,
các cô gái trên ghe sợ quá giựt can không nhảy xuống biển và hai chú người Việt
gốc Hoa sợ quá cũng giựt hai cái can to ôm nhảy xuống biển và trôi nguyên đêm
vô bờ cách chúng tôi chừng hai cây số. Còn phần con gái trên ghe, cô Nguyệt sứ
Sài Gòn làm nghề bán hàng rong gom ít tiền đi vượt biên, ôm trúng cái can bể
sau đó đã chết. Hai ngày sau khi nhập trại, xác cô ta trôi vào bờ, police Thái
Lan gọi bọn tôi có phải người đồng hành trên ghe không rồi tiêu hủy hài cốt ở
Songkhalia, cô này khoảng trên hai mươi tuổi, nghe kể chuyện còn độc thân,
không hiểu sau này có ai biết chính xác địa chỉ ở đâu báo tử cho gia đình cô ta
không.

Bây giờ trở lại chiếc ghe,
sau khi tạo được đám cháy, gió thổi chiếc ghe tôi vào bờ vào khoảng mười giờ ba
mươi đêm, trên bãi biển vắng, thỉnh thoảng trên con đường lộ ở xa có những vệt
đèn xa chạy lưu thông, tôi yêu cầu những người còn khỏe dìu những người say
sóng lên bờ và đào hai cái hố lớn để trốn gió, nhất là các cô nhảy xuống biển
quần áo ướt sũng nước, cón tôi lập tức phá vỡ hông ghe và quăng búa xuống biển
phi tang vì sợ ghe còn lành Thái Lan sẽ kéo ra biển, mọi việc xong, tôi trở lại
hố và chưa biết việc gì đến nữa, khoảng vài phút sau nhóm tuần tra bờ biển TQLC
Hoàng Gia Thái Lan bắt gặp chúng tôi, họ ăn mặc và mang cấp bậc giống như Việt Nam
Cộng Hoà trước năm 1975, lập tức súng M16 lên đạn chĩa thẳng vào chúng tôi, mọi
người đều thất kinh, trong nhóm có một tên hạ sĩ quan gọi máy truyền tin PCR25,
khoảng mười lăm phút sau, một xe jeep quân sự đến pha đèn thẳng vào chúng tôi,
người chỉ huy mang cấp bậc trung tá, vì ngày xưa tôi ở TQLC nên biết, một phút
im lặng, mấy người đàn bà con gái nói: “Chú Sáu đại diện đứng lên nói đi.” Tôi
trả lời: “Tiếng Anh tôi đâu biết, tiếng Thái thì ngọng luôn, có cậu kia biết
tiếng Anh sao không nói.”

Cậu ta thấy súng ống run lập
cập, bí quá tôi làm gan đứng dậy trên miệng hố, hai tay chấp và xá vị trung tá
vì Thái Lan họ theo đạo Phật và tôi nói xin kính chào Trung Tá, may thay hồi
chiến tranh Việt Nam tên này có tham chiến nên ông ta nghe và hiểu chút ít
tiếng Việt, ông trả lời với giọng lơ lớ như người Thượng. Ông ta hỏi: “Sao anh
biết tôi là Trung tá?” Tôi mừng quá vì lâu ngày ông ấy không nói tiếng Việt nên
ông nói rất chậm, tôi liền trả lời: “Dạ thưa Trung tá, sở dĩ tôi biết ông là
Trung tá vì trước năm 1975 tôi là lính TQLC, và nếu tôi không lầm thì Trung tá
đã từng tham chiến ở Việt Nam?” Ông ta trả lời: “Hồi lúc còn thiếu tá có sang
Việt Nam hơn một năm, do đó tôi biết ít tiếng Viẹt, bây giờ tôi tin anh là lính
TQLC nhưng những người kia thì sao?”

Tôi trả lời họ trước đây cũng
thuộc gia đình binh lính của chế độ trước. Sau 1975, cũng vì chế độ mới khắc nghiệt
và cùng ra đi với tôi, mong chờ trung tá thương tình mà giúp cho chúng tôi. Ông
ta gật gù, tôi mừng quá, sau đó ông gọi police đến giữ bọn chúng tôi tới sáng
và có báo chí Thái lan đến chụp hình chúng tôi với chiếc ghe, hai chiếc xe
truck chở bọn tôi nhập trại bên bờ biển giao cho một ông police già giữ bọn
chúng tôi. Khoảng mười giờ sáng hôm đó thì xe Cao Ủy Tị Nạn đến phát lương
thực, chăn mền quần áo xà bông, kem đánh răng và có xe Hồng Thập Tự đến khám
bệnh và cấp thuốc. Tôi thấy xe police chở hai người bạn đồng hành đi chung ghe
người Hoa đã ôm can nhảy xuống biển trong lúc chúng tôi chống cự với chiếc ghe
Thái Lan.

Lúc này tôi cảm thấy sung
sướng nhất là có quần áo đẻ mặc, có khăn lông lau mình, lại có xà bông thơm.
Bữa đầu tắm gội tôi thấy mình tôi sao nhẹ quá tưởng chừng như bay bổng và tôi
không quên giặt bộ quần áo cũ phơi phóng và gói cất đến tận bây giờ làm kỷ
niệm. Sau bữa cơm đầu tiên mọi người ăn uống vui vẻ, tôi đề nghị: “Chiều nay
bọn mình ra bờ biển quỳ xuống cầu nguyện tùy theo tôn giáo để cảm tạ ơn lành
may mắn chúng ta còn sống và cầu nguyện cho linh hồn của hai bạn đồng hành với
chúng ta chẳng may đã bỏ mình dưới biển.” Mọi người tán thành ý kiến và sau đó
tôi cạo trọc đầu vì tôi có lời nguyện hồi máy hư, nếu ơn trời che chở cho ghe
con tới bến bờ thì con sẽ cạo đầu.

Sau khi cầu nguyện chúng tôi
ăn bữa cơm chiều và mọi người tự kiếm chỗ nghỉ ngơi. Vì cái trại này đã bỏ hoang
từ lâu không có người ở và cũng không có điện nên Cao Ủy có cho đèn dầu và ít
đèn cầy dể thắp sáng trong đêm, tôi ngủ một giấc ngon lành. Nửa khuya, vì theo
thói quen thức dậy xem nước có vô ghe không, thức dậy biết mình đang ở trên bờ
Songkha Thái Lan, nhớ đến hai người cùng đi mới quen được vài hôm đã mất, nghe
sóng biển gầm tôi buồn quá, đốt đén cầy, hút thuốc suy nghĩ cuộc đời qua ánh
nến châp chờn, cảm hứng lấy cục than ở bếp hối chiều nấu ăn, viết mấy câu thơ
trên vách để nhớ người đồng hành chẳng may đã mất.

“Hồn ai siêu thoát ở nơi đâu

Biển mặn ai đi để kẻ sầu

Ngọn nến nung hoài hơi gió lộng

Hỡi người dưới biển có buồn không

Viết thư đêm vắng sầu trăm ngả

Thôi đành phải xa cách

Lặng lẽ màu tang thương với nhớ

Nghìn thu ai biết chuyện Song Kha.”

Kết thúc câu chuyện hồi ký “Cuộc
hành trình hai trăm dặm trên biển Đông”, tôi nghĩ rằng sau khi được định cư,
mọi người lo làm ăn đâu có dịp mà kể lại, may thay nhờ có cuộc thi viết bài kẻ
lại cuộc hành trình trên biển Đông nên mới có dịp kể lại cuộc hành trình để các
vị gần xa hiểu thêm hoàn cảnh thuyền nhân chúng tôi. Bây giờ thì Chúa thương
tôi đã có được mái ấm gia đình, tôi có người vợ hiền và đã bảo lãnh được hai
đứa con đang sống chung nhưng mỗi lần đông về Tết đến, tôi lại nhớ kỷ niệm
Songkha.

Cuối thu 2002

Jimmy Le

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3