44. Cưỡng Bức Hồi Hương (THV)
Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông
Cưỡng Bức Hồi Hương
T.H.V
Sáu lần vượt biên thất bại
vào những năm 80-88, từ Bà Rịa –Vũng Tàu đến Sóc Trăng –Bạc Liêu, Cà Mau. Lớp
bị lừa, lớp bị bắt, và dù tán gia bại sản tôi vẫn quyết một lòng ra đi vì không
thể nào sống dưới chế độ Cộng Sản.
Đến lần vượt biên thứ bảy vào
năm 1989 tôi mới thành công, đến được bến bờ tự do sau bao cam go, gian khổ, bỏ
lại người mẹ già, vợ và bốn đứa con còn nhỏ dại.
Ban tổ chức bao một xe đò chở
khách vượt biên Sài Gòn. Vừa rời khỏi bến xe miền tây Bình Chánh bọn vô lại đèo
theo xe hăm dọa khai báo công an để đòi tiền mãi lộ. Chúng tôi lo sợ nhìn nhau
rồi gom góp tiền đưa cho chúng. Đến Ngã Ba Trung Lương bọn chúng xuống xe,
chúng tôi tiếp tục hành trình xuống Cai Lậy lúc hai giờ sáng. Người dẫn đường
đưa cả nhóm đến một nhà máy chà lúa sát bờ sông, có một tàu đã đậu sẵn. Chúng
tôi xuống tàu và chui vào hầm. Đây là ghe buôn chuyến dài mười một mét, ngang ba
mét. Bên trên được ngụy trang toàn mía và chuối. Rời bến một ngày, tàu đã qua
khỏi các trạm kiểm soát đường sông. Đi thêm hai ngày nữa đã ra đến hải phận
quốc tế, mọi người được phép lên boong. Bấy giờ chúng tôi mới biết tất cả có ba
mươi lăm người trên ghe, kể cả chủ ghe, tài công, và thợ máy. Do cả gia đình
chủ ghe đi nên việc tổ chức tương đối chu đáo, lương thực đầy đủ, bến bãi và
các trạm kiểm soát đã được chủ ghe thu xếp trước. Đi thêm một ngày nữa ghe ra
khỏi hải phận Việt Nam, mọi người đang vui mừng thì giông bão nổi lên. Mưa như
trút nước kéo theo sấm chớp ầm ầm, trong biển cả bao la, chiếc ghe nhỏ bé tròng
trành như sắp lật úp. Người lớn, trẻ em ai nấy đều say sóng, nôn mửa, mệt lả,
và chỉ còn biết chấp tay cầu khẩn Trời Phật cho giông bão qua đi. Tài công đã
phải cố gắng, vất vả điều khiển ghe cho khỏi bị lật. Sau gần một ngày giông bão,
trời bỗng trở lại bình thường như có phép lạ.
Đi thêm một ngày nữa, chúng tôi
thấy xác người bồng bềnh trôi trên mặt biển, cảnh tượng trông thật hãi hùng!
Chúng tôi đều cảm tạ Trời Đất đã che trở cho ghe vượt qua giông bão và cùng cầu
nguyện cho những người xấu số.
Ngày hôm sau chúng tôi nhìn
thấy những đốm nhỏ từ xa. Khi đến gần hơn, mọi người nhận ra ba chiếc ghe đánh
cá Thái Lan. Lập tức đàn bà, con gái và trẻ em chui xuống hầm cầu nguyện. Kẻ
cầu xin Chúa Mẹ, kẻ cầu khẩn Trời Phật. Đàn ông thanh niên chia nhau đứng hai
bên thành ghe, tay cầm vũ khí như dao, búa, rựa. Chúng tôi đã bàn trước, chiến
đấu tới chết chứ không để hải tặc nhảy qua cướp bóc. Ba ghe Thái bao vây chúng
tôi từ ba hướng. Trên mỗi ghe cũng có hai ba tên cũng cầm dao búa. Khi thấy
chúng tôi mặt đằng đằng sát khí, vũ khí trong tay, lại có cả một cây súng giả
mà chúng tưởng là thật nên đã xì xồ vài tràng tiếng Thái rồi tự động rút lui.
Chúng khuất bóng rồi anh tài công mới xem hải bàn định hướng trực chỉ Mã Lai.
Sau một ngày lênh đênh, không
thấy một chiếc tàu ghe nào thì chúng tôi nhìn thấy những ánh đèn khi ẩn khi
hiện từ đằng xa. Khi đến gần chúng tôi nhận ra một giàn khoan dầu. Tiếng loa
phát ra từ giàn khoan bảo chúng tôi neo lại tại chỗ chờ sáng sớm sẽ có người
hướng dẫn vào. Ai cũng hồi hộp chờ đợi, mỏi mệt với giấc ngủ chập chờn. Từ mờ
sáng có hai người đi trên một chiếc ca-nô đến hỏi chúng tôi là ai, từ đâu tới.
Chúng tôi nói là người Việt Nam, đi vượt biên. Họ điệm đàm về giàn khoan rồi
hướng dẫn ghe theo ca-nô vào cặp sát giàn khoan. Rất nhiều người ngoại quốc
trên giàn khoan vẫy tay chào chúng tôi. Vị chỉ huy mời người biết tiếng Anh làm
đại diện lên nói chuyện với ông. Sau khi biết chúng tôi là những người vượt
biên ông hỏi chúng tôi cần giúp đỡ gì không, ông cho người xem lại thuyền, thấy
còn tốt vẫn xử dụng được, ông đã cho chúng tôi dầu, lượng thức ăn, nước uống và
thuốc men, chỉ đường cho chúng tôi đến bờ biển Mã Lai, theo sự hướng dẫn của
ông sau khi cho thuyền chạy đến khoảng sáu giờ chiều thì chúng tôi đến được bờ
biển của tỉnh Trengganu Malaysia, tại đây chúng tôi đã bỏ thuyền lại và lội lên
bờ đến một ngôi làng gần đó. Cảnh sát Mã Lai đã đến gặp chúng tôi và đưa tất cả
về trạm tạm trú ở Marang, nơi đây đã có những người vượt biên đến từ các thuyền
khác ở các nơi đều được đưa về đây.
Thế là sau sáu ngày lênh đênh
trên biển cả vượt qua cái chết chúng tôi đã đến được bờ tự do, ở Marang được
một tuần, chúng tôi được cảnh sát Mã Lai đưa xuống tàu chở đến đảo Pulau Bidong,
gần đến đảo Bidong từ đằng xa chúng tôi đã nhìn thấy đồng bào Việt Nam vẫy tay
đón chào. Tàu cặp vào cầu Jetty, chúng tôi được đưa lên đảo để làm thủ tục nhập
trại, tất cả những người đến đảo đều được mang số hiệu từng thuyền, chúng tôi
được mang số MC. Trên đảo tôi thấy có nhiều người mang bảng MB họ đã ở đảo hơn
hai năm rồi đang chờ để đi định cư. Đảo Bidong thật thơ mộng, với những hàng
dừa cao vút, vài quán nước gần bãi biển, các hàng quán ăn, shop may do người
Việt tị nạn làm chủ, sinh hoạt buôn bán thật sầm uất. Trên đồi tôn giáo có nhà
thờ, chùa và trường học, mọi người ở đảo được Cao Ủy Tị Nạn lo cho đời sống từ
nơi ăn chốn ở, đến việc học hành thật chu đáo.
Cuộc sống ở đảo thật lý tưởng
nếu như không có cái quyết định ngày 14 tháng 3 năm 1989 của Cao Ủy Liên Hợp
Quốc đóng cửa tất cả các trại tị nạn trong vùng Đông Nam Á. Thế giới tự do bắt
đầu mòn mỏi về những người tị nạn, họ đã bắt đầu quay lưng ngoảnh mặt đối với
những người tị nạn việt Nam, có những người đã đến được bến bờ tự do nhưng
thuyền của họ đã bị chính quyền các nước sở tại kéo đi ra giữa biển thả trôi
mặc cho giông bão, hải tặc cướp bóc, không biết sống chết ra sao. Còn những
người đã đến được các trại tị nạn, sau ngày 14 tháng 3 năm 1989 đều bị trải qua
một cuộc thanh lọc bất công. Ở Mã Lai bắt đầu từ MC 327 đến tàu MC 612 tỉ lệ
lúc đầu được nhận là mười bảy phần trăm sau này xuống còn mười phần trăm, những
sĩ quan, quân nhân, công chức của Việt Nam Cộng hòa cũng bị đánh rớt qua cuộc
thanh lọc, chỉ có những người thuộc diện đoàn tụ gia đình như vợ chồng con cái,
và một số rất ít người được công nhận quyền tị nạn, còn đại đa số bị ghép vào
di dân kinh tế, phải trả về Việt Nam. Chính sách nhận người của các nước bắt
đầu khép lại, những người tị nạn đến sau ngày 14-3-1989 đều sống trong cảnh lo
âu hồi hộp, chờ đợi được một tương lai đen tối với những đau khổ đầy dẫy nước
mắt cúng khắp Bidong.
Sau khi nhận phong thư oan nghiệt
của Cao Ủy Tị Nạn, một thuyền nhân tên LVH đã nhảy trên mỏn đá cao xuống biển
tự tử chết, và hai người khác HVT và NVK đã dùng dao tự đâm vào bụng mình tự
sát. Cảnh tang tóc đã diễn ra nơi hòn đảo thơ mộng, tất cả đồng bào trên đảo
đều ngậm ngùi tiễn đưa anh LVH đến nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang đồi
khu F, và sau đó đã tự động tổ chức cuộc biểu tình trước văn phòng khu cao ủy
để đòi quyền tị nạn, nói lên những tiếng nói uất nghẹn của mình.
Những người đến trước ngày
14-3-1989, và những người được qua thanh lọc đều được chuyển qua trại Sungei
Besi để chờ đi định cư. Sinh hoạt trên đảo Bidong trở nên ảm đạm mỗi khi nghe
thông báo rời đảo, với cảnh tiễn đưa chia tay hàng ngày nơi chân cầu Jetty,
mừng cho người đi buồn cho kẻ ở lại và người trở về Việt Nam vì không qua được
cuộc thanh lọc. “Vượt biên có số, định cư có phần” Câu này y như để an ủi cho
những người tị nạn đã rớt thanh lọc kém may mắn như chúng tôi. Đến đầu năm 1991
vì ngân sách dành cho người tị nạn ngày càng eo hẹp chính quyền Mã Lai đã quyết
định đóng cửa trại Bidong và di chuyển tất cả những người tị nạn sang trại
Sungei Besi gần Kula Lumpua. Trại Sungei được chia làm bốn khu A, B, C và thanh
nữ. Khu A dành cho những người rớt thanh lọc, khu B dành cho những người đậu
thanh lọc, khu C dành cho những đồng bào Campuchia đi tị nạn chiến tranh và khu
thanh nữ dành cho nữ độc thân, vì số người tị nạn còn ở lại quá đông nên Cao Ủy
đã cho xây dựng thêm bốn khu nhà cao tầng như chung cư cho đồng bào ở, được
chia làm nhiều căn, mỗi căn tám mét vuông cho mười người ở.
Trại Sungei Besi lúc đầu cũng
có đầy đủ các lớp sinh ngữ và trường dạy huấn nghệ cho người tị nạn nhưng về
sau các lớp học này đều bị đóng cửa. Các cha, các xơ người nước ngoài đến làm
việc thiện nguyện giúp đồng bào tị nạn không được phép vào trại nữa, chỉ còn
một số cố vấn người Mã Lai. Đời sống người tị nạn ngày càng khó khăn, bị bóp
nghẹt, khẩu phần ăn đều bị rút bớt, thư từ liên lạc đều bị cấm, mọi sinh hoạt
đều bị hạn chế tối đa. Cao Ủy và chính quyền Mã Lai cố tình gây ra cảnh khó
khăn cho đồng bào tị nạn để mọi người nản lòng, phải xin hồi hương trở về Việt
nam. Nhiều phái đoàn đã vào trại kêu gọi mọi người hãy ghi danh trở về. Các
đoàn thể trong trại tị nạn đã cùng hợp lực với nhau đứng lên tranh đấu đòi
quyền tị nạn, bằng những cuộc biểu tình tuyệt thực trước văn phóng Cao Ủy Tị
Nạn, đồng bào đã phá hàng rào ra đường đứng biểu tình, cảnh sát Mã Lai được
điều động tới để dẹp cuộc biểu tình, họ đã bắt đi một số người đem ra trại giam
ở ngoài Kula Lumpur. Để đối phó với người tị nạn Cao Ủy và Chính quyền Mã Lai
đã dùng đủ mọi cách, mọi hình thức để đàn áp người tị nạn, họ cài người vào các
đoàn thể tranh đấu để gây chia rẽ tạo ra những hiềm khích giữa các đoàn thể, và
đã để mặc cho những băng đảng, “bò tạc” trong trại chém giết lẫn nhau. Một đoàn
thể lớn trong trại vì nghe lời khuyến dụ của Cao Ủy và chính quyền Mã lai đã tự
động tách rời khỏi cuộc đấu tranh để di chuyển sang một trại khác, họ tưởng
rằng sẽ dược cho đi định cư, nhưng nào ngờ sau này cũng bị cho trở về Việt Nam.
Trước những cảnh sống xô bồ
đó, một số rất đông người tị nạn đã nản lòng xin hồi hương trở về Việt Nam.
Những người còn lại ở trại vẫn đoàn kết với nhau để tranh đấu, chính quyền Mã
Lai cho rào lại các khu, đồng bào không còn qua lại với nhau, sống như trại tù,
chung quanh là những hàng rào kẽm gai nhiều lớp, có cảnh sát ngày đêm đi canh
tuần, đồng bào các khu vẫn tiếp tục tranh đấu biểu tình không nhận thực phẩm cả
tháng trời. Lực lượng cảnh sát đặc biệt của Mã Lai huy động được cả ngàn người
do một vị tướng chỉ huy đã vào trại để dẹp biểu tình, họ đã tàn nhẫn dùng súng
bắn lựu đạn khói cay vào thẳng đống bào. Những tiếng khóc than của trẻ thơ và
phụ nữ đã vang vọng toàn trại. Nhưng cũng không lọt ra ngoài, mọi tin tức về
cuộc đàn áp này đã bị cảnh sát Mã Lai bưng bít. Sau đó cảnh sát đã vào trại lùa
hết đồng bào ra ngoài trường A. Tất cả đàn ông thanh niên đều bị cảnh sát đánh
đập bằng rùi cui và roi điện, họ đã bắt đi hàng trăm người mà họ cho là những
người cầm đầu biểu tình nhốt vô “monkey house”, những người này bị đánh đập tàn
nhẫn không còn đi đứng được, họ được dìu ra cho đống bào thấy, không còn cảnh
nào thương tâm hơn, khi nhìn thấy những đồng bào mình bị cảnh sát Mã Lai đánh
đập mang thương thích đầy mình. Hơn hai ngàn người tị nạn bị lùa ra ngoài trường
A và nhà bếp sống khốn khổ như những người tù, phải nằm đất, ăn bốc, đi làm vệ
sinh, tắm rửa từ người lớn đến trẻ em, nam cũng như nữ, phải ngồi xếp hàng dài
chờ đợi cảnh sát cho đi vệ sinh, từng năm người một, bọn cảnh sát Mã Lai đã đi
thẳng vào phòng tắm nữ để xem khi họ đang tắm, thật là tồi bại cho một đất nước
trước đây đã từng được tiếng là nhân đạo, đã từng cưu mang hàng mấy trăm ngàn
người tị nạn, sau này lại có những hành động mọi rợ làm mất đi tiếng tốt của
họ.
Sống ở ngoài trường A gần ba
tháng chúng tôi hơn ba trăm người được chuyển đến khu C để chờ cưỡng bức về
Việt nam, và chúng tôi đã bị cảnh sát Mã Lai áp giải lên trên tàu đầu tiên về
lại Việt Nam. Thế là sau hơn bảy năm sống tại trại tị nạn Mã Lai từ năm 1989
đến năm 1996 chúng tôi đã phải trở về Việt nam. Mọi hy vọng đến được đất nước
tự do đã bị tắt ngấm trong tôi. Về đến Việt Nam thời gian đầu, tôi và những
người trở về đã phải đi trình diện công an phường, quận, đến thành phố. Bọn
công an đã tra hỏi chúng tôi đủ thứ, nhưng vì có Cao Ủy Tỵ Nạn đang còn ở Việt Nam
giám sát, nên bọn công an đã tạm để cho chúng tôi yên.
T.H.V