40. Vượt Biên (Trần Thị Huyền)

Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông

Vượt Biên

Trần Thị Huyền

Đôi dòng về tác giả:

Tôi đến Hoa Kỳ năm 1986 và
định cư ở thành phố Oakland. Hiện nay tôi vẫn đang sống tại thành phố này.

Khi tôi đến đất nước Hoa Kỳ
này tôi đi làm và ở nhà trông con, nhưng hiện nay con tôi đã lớn, tôi vừa đi
làm vừa đi học. Tôi đang theo học ngành y tá có thể giúp đỡ được nhiều người.

Năm 1982. Đó là năm mà mọi
người xôn xao để đi tìm tự do, bởi vì họ không thể chịu đựng dưới sự đàn áp của
Cộng Sản. Gia đình tôi cúng nằm trong hoàn cảnh này, và cha tôi cũng chạy
ngược, chạy xuôi để tìm chỗ cho vợ chồng tôi đi.

Một hôm cha tôi gọi vợ chồng
tôi tới và bảo: “Thầy thấy tình cảnh này không ổn, cho nên thầy muốn gia đình
mình có người sống ở một nước tự do để còn có thể giúp ích cho gia đình và các
em con sau này. Thầy tin tưởng ở nơi con vì chỉ có con mới có thể đương đầu với
những gì xảy ra (Tôi là con lớn và còn năm em nhỏ). Thầy đã có chỗ để cho vợ chồng
con đi, và là đi đường bộ, với giá là ba cây vàng cho một người. Vậy ngày 23
tháng 9 chúng con phải có mặt tại điểm hẹn, ở đó sẽ có người hướng dẫn chúng
con đi.”

Tôi rất lo lắng vì tôi phải
xa cha mẹ và các em. Hơn nữa tôi mới lấy chồng được một tháng và mới có mười
tám tuổi, nhưng tôi cũng nghe theo lời cha tôi. Đúng hai hôm là ngày 23 tháng 9
năm 1982. Mẹ tôi khăn gói cho vợ chồng tôi ra đi, bà bó cho tôi năm bộ quần áo,
hai chỉ vàng vào gấu áo tôi và một ít đồ ăn đi dọc đường. Sáng sớm cùng ngày,
cô tôi dẫn vợ chồng tôi đi Biên Hòa (nhà tôi ở Hố Nai), sau đó đi Sài Gòn rồi
lên Cần Thơ để không có ai nghi ngờ. Chúng tôi đến Cần Thơ và rồi đi Châu Đốc,
đó là lúc sáu giờ chiều cùng ngày. Cô tôi giao chúng tôi cho một người đàn ông,
rồi cô quay về. Trong nhóm chúng tôi có tất cả năm người.

Đúng bảy giờ tối, chúng tôi
qua phà Bắc Mỹ Thuận, sau đó đi theo con đường mòn, đi miết tới mười một giờ
đêm thì tới cánh đồng nhỏ, ở đó có người chờ sẵn chúng tôi, ông ta cho chúng
tôi mỗi người nửa ổ bánh mì rồi đưa chúng tôi qua Campuchia, chúng tôi phải giả
dạng là người Campuchia, tôi quấn xà rông đầu đội khăn rồi học nói tiếng Campuchia
bằng cách tập nói chuyện với người bản xứ. Chúng tôi phải ở đó ít lâu để chờ có
đợt rồi người ta dẫn chúng tôi đi tiếp, sau đó ông ta dẫn chúng tôi ra đường bờ
ruộng, lội bùn tới đầu gối, với một con đường bùn rất là xa. Tôi mệt quá nên đi
được có nửa đường bùn, thì tôi không thể đi được nữa. Chồng tôi làm một cái dây
để kéo tôi đi. Lúc đó cũng là lúc mà chúng tôi phải bỏ cái giỏ trên vai đi, bởi
vì mệt quá không thể đeo nó được.

Đi tới một cánh rừng có một
người Miên chờ sẵn để đưa chúng tôi đi tiếp. Ông ta cho chúng tôi một nắm xôi
và một ít mắm bồ hóc, tôi chưa bao giờ nhìn thấy mắm bồ hóc, cái mùi khó ngửi
làm sao, nhưng vì đói quá cũng phải ăn để mà sống, sau đó ông dẫn chúng tôi
băng qua rừng già, chúng tôi đi suốt đêm, thân xác rã rời, quần áo rách nát, có lúc tôi dẫm lên cả xương người,
khi tôi để ý đến dọc đường đi, thì ôi thôi toàn là xương người, xương người lớn,
xương trẻ con rất nhiều, lẫn cả tiếng thú rừng hú ban đêm nghe sợ hãi, rồi
những con muỗi mòng, những con bọ rừng bò lên người mà chích mà cắn, cứ thế tha
hồ mà gãi. Đến gần sáng chúng tôi nghỉ trong bụi rậm, mỗi người một bụi, cho
tới tối thì chui ra lại đi tiếp, khi chui ra tay chân mặt mũi bị cào xây xát
bởi cỏ dại và gai, có những lúc rất nhức nhối bởi vết trầy bị rỉ máu, thuốc
thang thì không có. Mỗi ngày chỉ có một nắm xôi và một ít mắm bồ hóc vào buổi
tối trước khi đi, còn ban ngày phải nhịn đói chờ đến tối.

Chúng tôi đến trại, họ lục
xét từng người vì họ biết những người vượt biên có tiền và vàng, khi họ khám
đến tôi đã lấy đi hai chỉ vàng. Họ tưởng tôi còn dấu ở đâu đó nên căn vặn hỏi,
tôi nói không còn nữa họ không tin nên bắt tôi uống nước thuốc của tụi nó để đi
tiêu ra xem có vàng không. Trong suốt gần hai năm ở đó chúng tôi đã phải chạy
giặc luôn bởi vì cứ đến mùa khô thì chúng đánh (Giặc có nghĩa là bộ đội Việt
Nam bởi họ muốn lấn chiếm phần đất Campuchia). Mỗi lần chạy như thế rất là dễ
chết bởi vì chúng bắn loạn xạ.

Thời gian sống ở Campuchia,
tôi luôn luôn hóa trang là một người đàn ông, trên mặt thì lọ nghẹ đen đúa,
quần áo dơ dáy, tóc cắt ngắn đi. Ở trong trại người ta phân công đàn ông thì
chặt cây hay gánh nước, còn đàn bá thì nấu cơm và làm những việc khác, đến bữa
ăn thì mỗi người cầm một cái khay xếp hàng, rồi người ta múc cho mỗi người một
phần cứ như nhà tù, mặc dù phần ăn trong trại phát mỗi ngày nhưng không đủ, nên
tôi thường xuyên trốn ra ngoài đi làm chui như gánh nước chẻ củi, v.v...

Mỗi một công việc như thế làm
từ sáng đến tối người ta chỉ trả cho nửa chén gạo. Quần áo thì chỉ có một bộ
trên người mặc sáu tháng trời, mỗi khi tắm phải đứng chỗ nắng cho thật lâu, để
chờ khô quần áo. Lương thực bữa đói bữa no. Tôi đói quá, trong lúc đi làm bên
ngoài tôi thấy có mấy vỏ dưa hấu dơ bẩn liệng ngoài đường liền lượm về nấu canh
ăn. Sau bữa đó tôi lên cơn sốt nặng, không có thuốc để chữa bệnh. Tôi tưởng
không qua khỏi, may quá có người chỉ cho tôi biết một thứ lá ở trong rừng có
thể chữa khỏi bệnh. Tức thì chồng tôi đi tìm lá cho tôi uống, thế là tôi khỏi
bệnh. Tại trại tối nào cũng như tối nào, tụi Miên vào từng lều khám, nếu thấy
đàn bà con gái là chúng hãm hiếp. Nên tôi lúc nào cũng phải hóa trang là đàn
ông kể cả ngày lẫn đêm để tránh tụi nó. Nhiều lúc tôi muốn chết đi được. Khoảng
mấy tháng sau tôi có thai đứa con đầu lòng. Thiếu đồ ăn, thịt thà thì không có,
nên tôi thường xuyên trốn ra khỏi trại đến những nơi có đám cưới hoặc tiệc tùng
xin rửa chén và dọn dẹp, thì họ cho được một miếng thịt bằng bốn đót ngón tay.
Tôi mang về trại kho mặn để ăn. Ngày qua ngày thân tôi chỉ còn là cái xác không
hồn.

Một hôm, vào khoảng nửa đêm
có tiếng báo động giặc đến. Chúng tôi phải khăn gói chạy. Chồng tôi gánh một
gánh những vật dụng cần thiết, còn tôi thì xách hai cái giỏ đồ cần thiết cho
tôi và em bé, cộng với cái thai sáu tháng. Tụi Miên bắn súng, mình thì chạy bán
sống bán chết.

Tôi mệt quá bỏ cả cái giỏ mà
chạy, chồng tôi cũng thế. Được khá xa tôi không lê nổi nữa, chống tôi lấy dây
lá trong rừng bện lại rồi kéo tôi đi. Cứ như thế ban đêm thì chạy, ban ngày thì
nghỉ trong rừng. Ăn thì hái lá hái trái trong rừng, uống thì nước suối. Cho đến
khi chúng tôi đến Thái Lan và dừng chân ở đó.

Trong thới gian sống ở Thái
Lan, cuộc sống thì cũng không khác gì ở Campuchia, nhưng người Thái đối xử với
mình cũng tạm được, tôi mang bầu đi làm tôi mọi cho người ta từ sáng đến tối
cũng được ăn hai bữa cơm thừa, và thêm chút xíu gạo mang về.

Sống ở Thái Lan được hai
tháng thì tôi sanh cháu, bà mụ người Thái lại đỡ đẻ cho tôi tại trại, sau đó bà
cho tôi đồ ăn để lấy lại sức. Khi con tôi vừa tròn được một tuổi, chúng tôi lại
phải qua một trại khác lần nữa. Chồng tôi thì xách đồ đạc của con, nhiều lúc
tôi tưởng chết dọc đường vì tôi hết hy vọng đến Mỹ, nhưng nghĩ đến chồng con
tôi lại phải quên đi ý tưởng đó. Lương thực thì thiếu thốn không có chất dinh
dưỡng cho con. Chồng tôi kiếm được mấy trái dừa liền chặt ra lấy nước cho con
uống và hái trái rừng ăn tạm qua ngày. Khi chúng tôi đến trại mới ở đó mất năm
tháng để chờ nhận định cư. Đó cũng là lúc tôi mang bầu cháu thứ hai, và tôi vẫn
trốn trại đi làm chui bên ngoài bởi vì đói quá làm liều, ai mướn gì làm nấy. Có
lần con tôi nhìn thấy đứa bé người Thái ăn cây cà rem, cháu ao ước có được cây
cà rem ăn. Đối với người ta thì cây cà rem không đáng gì nhưng đối với gia đình
tôi thì nó rất lớn, bởi vì những gì tôi kiếm được trong ngày đó là củ khoai củ
sắn hoặc chén cơm thừa, v.v... Còn tiền bạc thì chúng tôi không có đến một đồng
từ khi rời mái ấm gia đình tại Việt Nam, hai chỉ vàng mẹ tôi cho thì tụi Miên
lấy từ lâu. Tôi thấy con tôi thèm cây cà rem mà lòng đau xót, không biết nói
sao cho con hiểu. Tôi chỉ biết ôm con vào lòng mà khóc.

Mấy tháng sau thì chúng tôi
nhận được giấy gọi phỏng vấn. Chúng tôi vừa mừng vừa run chỉ sợ rớt, khi chúng
tôi bồng con lên gặp phái đoàn thì họ có tình cảm với gia đình tôi và hỏi chúng
tôi nếu có thân nhân ở Mỹ thì họ sẽ chấp nhận cho gia đình tôi đi. May quá có
anh chồng tôi sống ở Mỹ đã lâu, nên họ chấp thuận. Tôi cảm thấy cuộc đời tôi
chết đi sống lại sau đó gia đình tôi được chuyển tiếp qua Philippine để học
tiếng Anh trước khi vào Mỹ. Chúng tôi sống ở Philippine được sáu tháng thì đi
Mỹ.

Chúng tôi đến Mỹ vào ngày 20
tháng 11 năm 1986 và sống tại thành phố Oakland, bắc Califonia, định cư và lập
nghiệp ở đây cho đến nay.

Khi gia đình tôi nhận được
tin chúng tôi tới Mỹ, cha mẹ tôi rất là vui mừng và khóc hết nước mắt vì tưởng
chúng tôi đã chết từ lâu. Tôi luôn luôn cám ơn bề trên đã cứu sống gia đình
mình trong thời gia vượt biên. Cuộc sống bây giờ đã ổn định, vợ chồng đều đi
làm và hai con đang học đại học.

Trần Thị Huyền

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3